






Preview text:
lOMoAR cPSD| 59960339
VẤN ĐỀ CỦA CON NGƯỜI THEO QUAN ĐIỂM
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VẬN DỤNG VÀO VIỆC
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÁP ỨNG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Quan điểm của chủ nghĩa mác- lên nin về vấn đề con người: 1.1. Con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội: -
Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học
chi phối đời sống của cơ thể con người. -
Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời
sống tinh thần của con người. -
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, + Mặt sinh học là nền
tảng vật chất tự nhiên của con người.
+ Mặt xã hội là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người -
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quả trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể Những quy luật
hình thành tâm lý, ý thức.
Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người
( Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con
người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội
Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.)
1.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội:
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.Marx khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. lOMoAR cPSD| 59960339 -
Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều
kiện lịch sử cụ thể nhất định.
(Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.) -
Khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác- Lênin không phủ nhận
mặt tự nhiên trong đời sống con người, nó chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con
người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội. -
Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vẫn để con người một cách
toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tỉnh hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản
xuất ra của cải vật chất
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thể con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người,
( Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã
hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng
thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội)
1.3 . Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử -
Không có thể giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiền hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội -
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải biển giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. -
Trong quá trình cải biên giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. -
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản
phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con
người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". -
Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc
của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. lOMoAR cPSD| 59960339
Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn
của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu"
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày
càng mang tỉnh người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác
động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau.( Đó là biện chứng của mối quan
hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.)
2. Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước:
2.1 . Quan niệm của Đảng ta về con người : -
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh phúc
của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta" -
". Việc gì có lợi cho đàn, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. -
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan trọng trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đời mình. Trong Di chúc, khi đề cập đến công việc
đầu tiên đối với con người, Người đã dành sự quan tâm sâu sắc tới mọi đối tượng xã hội,
mọi tầng lớp nhân dân, vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, xây
dựng con người là chiến lược hàng đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
( Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, kế hoạch đúng đắn để phát huy nhân tố con
người, để dùng con người mà làm lợi cho con người. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì
lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tường quán
xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta ) -
Như vậy, Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục tiêu
phấn đầu cao nhất của chế độ ta. Đảng ta coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
triển nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
( Nhằm khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, khả năng
lao động, năng động, sáng tạo và tính tích cực chính trịxã hội, cả về đạo đức, tâm hồn, và
tình cảm là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa...)
2.2. Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay: lOMoAR cPSD| 59960339 -
Để đạt được tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại nền kinh
tế Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và bền vững. -
Do đó, trong lực lượng sản xuất, yếu tố con người là yếu tố tích cực, chủ động, sáng
tạo là yếu tố quyết định các yếu tố khác
( C.Mac cũng chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hỏa có quan hệ mật thiết với mức độ phức
tạp của lao động. Lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn. Điều
này có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng hóa càng tăng
lên nhanh chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.) -
Thực tiễn phát triên kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát mtriển
thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần lớn là nhờ vào
nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối
với phát triển kinh tế xã hội của đất nước
( Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số lớn- đứng thứ 13 thế
giới, mật độ dân số 263 người/km²-gấp 5 lần so với mật độ dân số trung bình của thế giới và
bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” chỉ diễn ra
trong chu kỳ nhất định, thường kéo dài khoảng thời gian từ 15-40 năm và được coi là cơ hội
vàng để nền kinh tế bứt phá, phát triển ) -
Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là “những
con người phát triển cả về trì lực và thể lực Chất lượng nguồn nhân lực cũng
trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục,
đào tạo. Không thể có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước:
3.1. Những thách thức của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
- Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam đổi dào về số lượng, nhưng lại thiếu hụt nhân lực có
trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh
tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ( Lợi thế cạnh tranh của một
quốc gia được cấu thành từ những yếu tố như: hạ tầng, thể chế, môi trường kinh doanh,
nhân lực... trong đó nhân lực được coi là yếu tổ cạnh tranh có tính riêng biệt, quyết định đối
với mỗi quốc gia Vì vậy Việt Nam muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì
một trong những yếu tố quyết định là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.) lOMoAR cPSD| 59960339
Hai là, hạn chế khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa vào vốn
và nguồn nhân lực với số lượng dồi dào, giá trị nhân công rẻ sang mô hình tăng trưởng dựa
vào nguồn nhân lực có chất lượng lượng cao, nâng cao sự đóng góp của nhân tổ năng suất cao
Ba là, Việt Nam đang sẽ khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình nếu tăng trưởng kinh tế
chỉ dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động giản đơn chưa qua đào tạo ( Do đó phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát
khỏi thu nhập trung bình trong những năm tới.
3.2. Những giải pháp xây dựng con người Việt Nam đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay:
-Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế.
( Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa học kỹ
thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế
thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân
lực. Giải quyết được điều này chúng ta mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có
trình độ, tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát triển kinh tế, biển gánh nặng dân số hiện
nay thành lợi thế cạnh tranh của nước ta trong qua trình hội nhập)
-Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
( Chất lượng giáo dục và đào tạo được coi là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực. Do đó,
yêu cầu bức bách hiện nay là cần phải cái cách phát triển giáo dục đại học, giáo dục đào tạo
nghề để có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tình trạng hiện tại, có hai vấn
đề quan trọng, cấp bách và có ý nghĩa lâu đài trong việc cải thiện sớm thực hiện, đó là: Phải
gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động.
Đào tạo những kỹ năng cần thiệt là một trong những yếu tố quan trọng để nguồn nhân lực
có thể đạp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng: Nhà nước xây dựng cơ chế khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia và trở thành một chủ thể quan trọng trong quá trình đào tạo: đảm
bảo cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin về tình hình làm việc, kỹ năng đào tạo...
khuyến khích đào tạo nghề tại dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp. Gắn đào tạo với
ứng dụng khoa học kĩ thuật
Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nhân lực.
(Ngoài việc chỉ từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho sự phát triển
nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu) lOMoAR cPSD| 59960339
-Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của nhà nước đối với nguồn nhân lực. ( Chúng ta phải
quản lý có hiệu quả về nhân lực trước rước những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế thị
trường, hội nhập và cạnh tranh.
Nhà nước cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực.)
-Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực.
(Chúng ta phải xác định nguồn nhân lực quý giá, là động lực cho sự phát triển; phát triển
nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà còn là tiền
đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có những chính sách tác
động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực.) Kết luận -
Sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần
thiết cần phải có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ sự nghiệp
phát triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một trong những mỗi quan
tâm hàng đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát triển nguồn nhân lực. Kết luận -
Sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần
thiết cần phải có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ sự nghiệp
phát triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một trong những mỗi quan
tâm hàng đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát triển nguồn nhân lực. -
Thấm nhuồn chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình xây dựng và phát triển con người
mang tính toàn diện, là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc phát
triển kinh tế-xã hội, xây dựng nước ta một nước công nghiệp, theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. -
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, là con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn là
nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị ở nước ta lOMoAR cPSD| 59960339