-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Vấn đề dân tộc hiện nay và sự vận dụng của vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Vấn đề dân tộc hiện nay và sự vận dụng của vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: “Vấn đề dân tộc hiện nay và sự vận dụng của vấn đề dân tộc trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam”
Họ và tên: Vũ Thị Bích Ngọc MSV: 11217574 Lớp TC:
GV hướng dẫn: Lê Ngọc Thông
Hà Nội, tháng 9, năm 2022
A. Giới thiệu công trình I.
Tính cấp thiết của đề tài 1 lOMoAR cPSD| 45740413
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, mỗi quốc gia, dân tộc đều đang đối mặt
với những thách thức về vấn đề bảo vệ các giá trị dân tộc. Bên cạnh đó, độc lập
dân tộc gắn liền với khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, các giá trị truyền
thống, bản sắc văn hóa… là một trong những yếu tố tiên quyết trong quá trình
hội nhập, phát triển đất nước. Đảng ta từng khẳng định: “ Tiến lên CNXH là một
quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa cũng
luôn luôn vận động, chuyển hóa và phát triển. Với một quốc gia đa tộc người
như Việt Nam thì vấn đề dân tộc chính là yếu tố cốt lõi quyết định vận mệnh của
đất nước.” Như vậy có thể thấy, vấn đề dân tộc hiện nay đặc biệt quan trọng,
cấp bách và rất nhạy cảm liên quan đến vận mệnh quốc gia do vậy việc tiếp tục
nghiên cứu, học tập, trau dồi các kiến thức liên qua đến vấn đề dân tộc là rất cần
thiết. Từ đó làm nền tảng, cơ sở vững chắc để cá nhân có thể nhận thức đúng
đắn trước những vấn đề nhạy cảm liên quan đến dân tộc.
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề dân tộc còn rất phức tạp, sự xuất hiện của các
thế lực thù địch luôn nhăm nhe nhằm chia rẽ dân tộc ta, sự chênh lệch phát triển
kinh tế giữa miền núi và đồng bằng….Em nhận thức được tầm quan trọng và
cấp thiết của vấn đề dân tộc nước nhà nên em đã lựa chọn đề tài: “ Vấn đề dân
tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” vận dụng
những kiến thức mà bản thân đã học tập, nghiên cứu góp phần nào đó vào nâng
cao khả năng nhận thức của thế hệ trẻ hiện nay và một số giải pháp giải quyết vấn đề này. II.
Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu Mục tiêu:
- Thấy rõ tính khoa học trong quan điểm và cách thức giải quyết vấn đề dân
tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Ðảng Cộng sản Việt Nam; từ đó xác
định trách nhiệm của bản thân góp phần tuyên truyền và thực hiện chủ
trương, chính sách, pháp luật về dân tộc của Ðảng, Nhà nước.
- Nắm được quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc;mối quan hệ dân tộc và tôn giáo và nội dung chính sách dân tộc của
Ðảng và Nhà nước Việt Nam, tầm quan trọng của vấn đề dân tộc đối với sự
nghiệp cáchmạng của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Phương pháp:
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Cùng với đó là sự vận dụng và kết
hợp các phương pháp khác như: khái quát hóa, trừu tượng hóa, lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp,… để làm sáng tỏ vấn đề B. Nội dung I. Cơ sở khoa học
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về dân tộc 2 lOMoAR cPSD| 45740413
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao
gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính
là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Ở phương Tây
dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập thay
thế phương thức sản xuất phong kiến. Trong khi đó, ở phương Đông, dân tộc
được hình thành trên cơ sở một nền văn hóa, một tâm lý dân tộc đã phát triển
tương đối chín muồi và một công đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức nhất định,
nhưng nhìn chung còn kém phát triển và ở trạng thái phân tán. Có thể hiểu dân tộc theo hai nghĩa:
- Thứ nhất theo nghĩa rộng: Dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn
định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống
nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó
với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa đấu tranh
chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với
nghĩa này, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ
nhân dân của một nước
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam, Dân tộc Nhật Bản,…
- Theo khái niệm trên thì dân tộc có những đặc trưng cơ bản sau:
• Có chung một vùng lãnh thổ ổn định được xác định bởi vị trí địa lý,
vùng đất, vùng trời mà mỗi dân tộc có quyền sở hữu. Lãnh thổ là
yếu tố thể hiền chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các
quốc gia-dân tộc khác. Bảo vệ chủ quyền quốc gia là nghĩ vụ và
trách nhiệm cao nhất cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ
quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ thường được thể chế hóa thành
luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
• Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế - là đặc trưng quan
trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận, các thành
viên trong dân tộc tạo nên sự thống nhất dân tộc.
• Có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp. Trong một quốc gia
có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngôn ngữ khác nhau, nhưng
bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung, thống nhất.
• Có chung một nền văn hóa và tâm lý. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt
chẽ với văn hóa của các cộng đồng tộc người trong một quốc gia.
Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Trong
sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc những thành
phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa
chung của dân tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó. 3 lOMoAR cPSD| 45740413
• Có chung một nhà nước. Các thành viên trong một dân tộc đều chịu
sự quản lý, điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố để
phân biệt dân tộc – quốc gia và dân tộc – tộc người. Nhà nước là
đặc trưng cho thể chế chính trị của dân tộc, là đại diện cho dân tộc
trong quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới.
- Thứ hai theo nghĩa hẹp dân tộc được hiểu là một cộng đồng người được
hình thành trong lịch sử, có mối quan hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý
thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa.
Ví dụ: Việt Nam có 54 dân tộc, tức là 54 cộng đồng tộc người khác nhau như
cộng đồng người Kinh sẽ có văn hóa, phong tục khác cộng động người Dao.
- Theo khái niệm thứ hai thì dân tộc – tộc người có những đặc trưng cơ bản:
• Cộng đồng về ngôn ngữ. Ví dụ như cộng đồng dân tộc Nùng sẽ có ngôn
ngữ riêng để giao tiếp đó là tiếng Nùng.
• Cộng đồng về văn hóa phản ánh tín ngưỡng, lối sống, phong tục tập quán
của tộc người đó như cộng động dân tộc. Ví dụ người phụ nữ dân tộc Thái
khi lấy chồng phải búi tóc (tục tẳng cẩu).
Lễ Tẳng Cẩu của người dân tộc Thái
• Ý thức tự giác tộc người. Đây là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát
triển của mỗi tộc người dù cho có những tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ,…
2. Xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Theo quan điểm của Lê-nin có hai xu hướng khách quan trong sự phát triển quan hệ dân tộc:
- Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng
đồng dân tộc độc lập.
- Do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng
dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân cư độc lập. Trong thực
tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức 4 lOMoAR cPSD| 45740413
dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy
tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong
xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân
tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc
đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
- Một là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của
tất cả các dân tộc trên thế giới. Các dân tộc đều có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền bình đẳng
giữa các dân tộc là cơ sở để xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước.
- Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết. Nghĩa là tự quyết định lấy vận
mệnh dân tộc, tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
- Ba là: Liên hiệp công nhất tất cả các dân tộc. Phản ánh sự thống nhất giữa
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh
thần của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa đế quốc chân chính.
Như vậy cưỡng lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở quan trọng để
các Đảng Cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. II.
Thực trạng vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
1. Đặc điểm dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
- Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc. Trong đó dân tộc chiếm đại đa số là dân
tộc Kinh với hơn 82 triệu người, chiếm khoảng 85,32% dân số (theo số
liệu thống kê năm 2019). Dân tộc Kinh chủ yếu sinh sống ở các vùng đồ
bằng, đô thị, thành phố. Trong khi các dân tộc thiểu số như Ê-đê, H’mông,
Khmer, Tày, Thái,….dân số chiếm tỷ lệ rất nhỏ có những dân tộc chỉ
khoảng vài trăm người như Sila (909 người) , Pu Péo (903 người), Ơ Đu (
428 người). Địa bàn sinh sống chủ yếu của các dân tộc thiểu số tập trung ở các vùng núi. 5 lOMoAR cPSD| 45740413
Cơ cấu dân tộc ở nước ta năm 2019
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
- Bản đồ cư trú các dân tộc ở Việt Nam phân tán, xen kẽ, không có lãnh thổ
tộc người riêng. Do đó không có dân tộc nào sống tập trung, cư trú trên
một địa bàn nhất định. Ví dụ như trong những buôn làng của người Ê-đê,
Gia Lai vẫn có những người dân tộc Kinh sinh sống.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
- Các dân tộc thiểu số dù chỉ chiếm 14,3% dân số, nhưng do địa bàn sinh
sống chủ yếu ở các vùng trung du,miền núi giáp với biên giới các nước
như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đây là những vị trí có chiến lược,
trọng yếu cả về kinh tế và quốc phòng bởi các thê lực thù địch luôn lợi
dụng vấn đề này để chống phá Đảng và nhà nước.
Bản đồ phân bố các dân tộc ở Việt Nam
Thứ tư các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển không đồng đều 6 lOMoAR cPSD| 45740413
- Do điều kiện sinh sống của mỗi dân tộc là khác nhau nên có sự chênh lệch
khá lớn về trình độ phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Mức thu nhập bình
quân đầu người của các dân tộc thiểu số còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Về văn hóa xã hội còn tồn tại một số hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu
như: tục bắt vợ, hôn nhân cận huyết thống…
Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong
cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất
- Đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được
giữ gìn và phát huy qua bao thế hệ cha ông trong các cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm thì tinh thần đoàn kết ấy là chìa khóa để nước ta
giành được nền độc lập hòa bình như ngày hôm nay.
Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất
- Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều nó những nét riêng độc đáo tạo nên
một Việt Nam đậm đà bản sắc mang những nét chung thống nhất đại diện
cho con người Việt Nam.Từ tiếng cồng chiêng của đồng bào dân tộc Tây
Nguyên đến tiếng Khèn của người Thái, Mường, Mông,... hay từ thịt trâu
gác bếp, sôi ngũ sắc,.. của các dân tộc vùng Tây Bắc, đến đường Thốt
Nốt, bánh bò,.. của các dân tộc khu vực Nam Bộ, từ lễ hội Cồng Chiêng ở
Tây Nguyên, đến hội đua bò Bảy Núi ở An Giang.
2. Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam và thực trạng về
vấn đề dân tộc hiện nay
Căn cứ vào thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay,
Đảng và nhà nước ta luôn luôn coi trọng vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại
đoạn kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt.
Đại hội XII từng khẳng định: “ Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta”. Nhìn chung, quan điểm cơ bản của Đảng ta về
vấn đề dân tộc thể hiện ở nội dung sau: a) Về chính trị
Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa
các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao nhận thức của đồng bào các
dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc,
thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 7 lOMoAR cPSD| 45740413
Ví dụ: Bất kì người dân nào là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi không phân biệt
tôn giáo, vùng miền, dân tộc đều có quyền tham gia bầu cử và từ đủ 21 tuổi có thể tham gia ứng cử. b) Về văn hoá
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, phấn đấu chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học; đưa văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là động lực nội sinh quan trọng, bảo đảm phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhân danh dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc,
phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa
cho đồng bào các dân tộc. Đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường
và thể chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các dân tộc trên một đất nước đa
dân tộc. Đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, các khu vực và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục, mê tín
dị đoan và diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng, văn hóa ở nước ta.
Ví dụ: Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 những năm qua,
việc quán triệt sâu sắc khẩu hiệu hành động của năm 2021 của Chính phủ là
“Thống nhất, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, phấn đấu phát triển”, thực hiện nghiêm
túc chỉ đạo. tập trung chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển ngành văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch theo hướng đổi mới, tư
duy quản lý, với tinh thần chủ động, nghiêm túc, quyết liệt, linh hoạt, tập trung
thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, trong đó tập trung vào cơ chế phối hợp,
nghĩa là quan hệ đa ngành, đa lĩnh vực hài hòa, không chồng chéo, coi các giá trị
và chuẩn mực văn hóa là cơ sở để tạo ra sự phát triển bền vững, vì phát triển kinh
tế mà không nó không được thực hiện dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa thì sẽ không bền vững.
Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa truyền thống phải được bảo tồn và tích hợp với
giá trị của đời sống văn hóa mới, trên cơ sở phương châm làm cho con người ngày
càng tốt đẹp hơn, loại bỏ những yếu tố xấu và yếu tố lạc hậu. “Nền văn hóa mới
của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học
lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao
cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ,
phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”. Văn hóa không chỉ là tiếp
thu tinh hoa quá khứ, xử lý tốt mối quan hệ trong hiện tại, mà còn phải luôn hướng
tới nền văn hóa đích thực vì sự phát triển bền vững, vì hạnh phúc của con người.
Và hiện nay, Quốc hội ban hành các văn bản luật liên quan đến gìn giữ, bảo tồn,
phát huy các di sản văn hóa.Từ đó, việc bảo vệ các giá trị văn hóa là trách nhiệm
và nghĩa vụ của mọi dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam 8 lOMoAR cPSD| 45740413 c) Về kinh tế
Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ chương
chính sách phát triển kinh tế-xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh
lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chiến lược phát triển kinh tếxã hội ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, đặc biệt là sau đợt dịch Covid-19 kéo
dài. Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới.
Kinh tế vĩ mô ổn định. Tốc độ cải cách thể chế được đẩy nhanh. Tổng số doanh
nghiệp tăng gấp 1,5 lần. Từ năm 2016 đến 2019, Việt Nam nằm trong top 10
quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới trong 4 năm liên tiếp và là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Trong đó, năm 2020 là năm nổi bật và thành
công nhất trong số các giai đoạn nêu trên, với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 2,91%
và GDP bình quân 5 năm đạt 5,9% / năm, trong khi nhiều nước có mức tăng
trưởng giảm hoặc âm do ảnh hưởng của dịch. .
Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta là xóa bỏ khoảng cách về phát triển kinh
tế giữa các dân tộc, vùng miền cụ thể như có rất nhiều chủ trương, dự án đầu tư
các tiềm năng để phát triển kinh tế, không bất kể vùng miền hay dân tộc nào, đặc
biệt ngày càng tập trung các vùng sâu, vùng xa,... để nâng cao đời sống người dân. d) Về xã hội
Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua
việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số,
y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy
vai trò chính trị cơ sở và tổ chức chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Ví dụ: Thực hiện nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hôi. Hay đưa con chữ về các bản các làng, vùng sâu, vùng xa và tạo điều
kiện cho cho người dân tộc thiểu số về học tập như các học bổng, các chính
sách... Cụ thể, Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có trường tiểu
học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học
phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100% số xã đạt chuẩn
phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Bên cạnh đó,
mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã được
quan tâm đầu tư, có 99,39% số xã có trạm y tế, 77,8% số xã đạt chuẩn quốc gia
về y tế. Năm 2013, có 88% số thôn, bản trong cả nước có nhân viên y tế hoạt động. 9 lOMoAR cPSD| 45740413
e) Về an ninh – quốc phòng
Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị,
thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng
toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Ví dụ: Tăng cường công tác nâng cao nhận thức về bảo vệ nền an ninh – quốc
phòng cho tất cả các dân tộc đặc biệt là các dân tộc sinh sống tại khu vực trọng
yếu giáp biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn diện,
tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quôc gia.
III. Hạn chế và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi
chính sách dân tộc trong thời gian tới 1. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, thành tựu đã đạt được, còn tồn tại rất nhiều
những vấn đề liên quan đến hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách dân tộc.
Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại
một số hạn chế, bất cập như:
Thứ nhất, trong xây dựng và triển khai chính sách pháp luật về dân tộc còn
thiếu quy định về quy trình xây dựng chính sách; chưa phân định rõ ràng, cụ thể
nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp trong ban hành chế độ chính sách.
Nhiều vấn đề của các dân tộc thiểu số đã được Đảng xác định trong các văn kiện,
nghị quyết nhưng chưa hoặc thể hiện chưa đầy đủ trong các văn bản luật, pháp
lệnh, nghị quyết... Còn thiếu một số chính sách phát triển bền vững cho vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Mặt khác, nhiều nội dung chính sách dân tộc còn có sự chồng
chéo, chưa sát hợp với thực tiễn hoặc thiếu nguồn lực thực thi, làm hạn chế hiệu
quả của hệ thống chính sách pháp luật. Công tác kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng
kết việc thực hiện chính sách dân tộc chưa được thực hiện thường xuyên. Việc rà
soát xây dựng, chỉnh sửa, hoàn thiện một số đề án, chính sách dân tộc còn chậm,
chất lượng còn hạn chế.
Thứ hai, trong sự phát triển kinh tế của vùng dân tộc thiểu số, những năm
gần đây, mặc dù có tốc độ phát triển nhanh nhưng đóng góp của vùng này cho
nền kinh tế quốc dân vẫn còn nhỏ, vượt quá tiềm năng.Hệ thống cơ sở hạ tầng
tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội.Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Sản xuất nôngnghiệp vẫn
chiếm một bộ phận quan trọng, mang nặng tính tự phát, sản xuất nhỏ chưa phát
huy hết tiềm năng và tài sản của từng vùng.Các ngành thuộc lĩnh vực công 10 lOMoAR cPSD| 45740413
nghiệp như công nghiệp chế biến chưa có thương mại và dịch vụ chưa đáp ứng
cho sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng dân tộc thiểu số còn yếu
kém. Công tác quản lý xã hội còn có sơ hở, chưa sát dân, chưa nắm bắt kịp thời
tâm tư nguyện vọng của đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới. Đội ngũ
cán bộ là người dân tộc thiểu số tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa
cao, cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở hiện nay phần lớn có trình độ học vấn
trung học cơ sở, có trên 50% số cán bộ cơ sở chưa qua đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ quản lý nhà nước, pháp luật và kinh tế.
Thứ tư, đời sống văn hóa - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số tuy có
những tiến bộ đáng kể trên nhiều mặt, song mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của
người dân còn thấp. Công tác thông tin và tiếp nhận thông tin còn gặp nhiều khó
khăn. Bản sắc văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc đang bị mai một. Có dân
tộc đang đứng trước nguy cơ mất bản sắc văn hóa, suy giảm số lượng, chất lượng
dân số. Tình trạng phổ biến là giáo dục đạt chất lượng thấp, đã phổ cập giáo dục
tiểu học nhưng tỷ lệ học sinh đến trường đúng độ tuổi còn thấp, càng đến bậc học
cao, số trẻ em bỏ học càng nhiều, vẫn còn nhiều người mù chữ, công tác thanh
toán nạn mù chữ chưa vững chắc rất dễ bị mù chữ trở lại. Tình trạng sức khỏe
của đồng bào tuy có được cải thiện nhưng tiến bộ chậm so với mức chung của cả
nước. Tỷ lệ tử của trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tổng tỷ suất sinh và tỷ suất tử
của bà mẹ còn cao. Một số căn bệnh đặc thù như sốt rét, dịch hạch, phong, bướu
cổ vẫn tồn tại ở khu vực miền núi. Dịch vụ y tế còn thấp so với nhu cầu, chất
lượng khám, chữa bệnh cho đồng bào.
Thứ năm, còn nhiều hủ tục chưa được bỏ, những hủ tục mang màu sắc
mê tín đã trở thành vật cản, là gánh nặng truyền đời đối với các cộng đồng
người; những phong tục tang ma còn lạc hậu, còn nhiều gia đình người dân
tộc thiểu số và họ hàng tổ chức ăn uống linh đình và kéo dài nhiều ngày vừa
tốn kém, vừa gây đình trệ việc lao động sản xuất, vừa gây mất an ninh trật
tự, vệ sinh môi trường; những hủ tục cưới sinh còn chưa bỏ, như thách cưới
gây tan vỡ nhiều hạnh phúc gia đình, phá hoại tình yêu và sự phát triển đi
lên của nhiều người, như tục kéo vợ hay cướp vợ, gây ra những hiểu lầm, hệ lụy không hề nhẹ.
Thứ sáu, tình hình an ninh, trật tự tại các vùng dân tộc thiểu số vẫn
tiềm ẩn nhiều yếu tố diễn biến phức tạp. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy,
khai thác lâm sản trái phép cùng với nạn cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi đã
ảnh hưởng trực tiếp đến độ che phủ rừng và biến đổi khí hậu. Tình trạng
nghiện hút, buôn bán trái phép ma túy nhiễm HIV, hôn nhân cận huyết thống,
tai nạn, di cư tự do, lừa gạt, buôn bán phụ nữ và trẻ em, lao động trái phép
qua biên giới... diễn biến phức tạp. 11 lOMoAR cPSD| 45740413
Thứ bảy, đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển kinh tế mà
chưa có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Đầu tư còn thấp dẫn đến việc nghiên
cứu, bảo tồn những giá trị thuộc bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính toàn
diện, hoặc không kịp thời. Một thực tế nữa trong giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc là từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị văn hóa dân
tộc, dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa lệch lạc, đánh mất thuần phong mỹ tục. 2. Biện pháp đề xuất
Từ những mặt hạn chế trên có thể thấy vấn đề dân tộc vẫn đang là chủ đề
nóng, là mối quan tâm mà Đảng và nhà nước ta đang tìm hướng giải quyết triệt
để những vấn đề này, bản thân em kiến nghị một số giải pháp như sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách và pháp luật về vấn đề
dân tộc theo hướng bảo đảm tính hiệu quả, toàn diện, bền vững và công bằng.
Cần thường xuyên rà soát lại hệ thống chính sách dân tộc đang được thực hiện,
trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh, thậm chí loại bỏ những chính sách lỗi thời
và bổ sung những chính sách mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây
dựng chính sách cần theo hướng các chính sách bao quát được tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội vùng dân tộc trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó nguồn
lực thực hiện chính sách được tính toán đầy đủ và được phân bổ một cách công
bằng cho các đối tượng cần sự giúp đỡ, tránh trường hợp trục lợi từ những hoạt
động này. Hơn nữa, để bảo đảm tính hiệu quả và bền vững, việc hình thành
chính sách phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ về đặc điểm dân cư, tộc người,
điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường, phong tục tập quán của các dân tộc. Bên
cạnh đó, để bãi bỏ các hủ tục, mê tín dị đoan rất cần sự chung tay của cộng
đồng các dân tộc khác, giúp đỡ tuyên truyền phổ cấp pháp luật đến tất cả mọi người.
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và xã hội về vấn đề dân
tộc và giải quyết vấn đề liên quan đến dân tộc.
Cần thống nhất chung một nhận thức, tư tưởng từ Trung ương tới địa phương
về vấn đề dân tộc; về vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội
trong công tác dân tộc, trong đó cán bộ là lực lượng nòng cốt. Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước. Nội dung tuyên truyền phải mang tính toàn diện, tập trung hướng tới các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số; xóa bỏ tư tưởng
kỳ thị dân tộc cũng như tư tưởng ỷ lại trong một số đồng bào các dân tộc; khơi
dậy lòng tự hào dân tộc; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và lồng 12 lOMoAR cPSD| 45740413
ghép công tác tuyên truyền với những việc làm, hành động cụ thể, gắn với lợi ích của đồng bào.
Ba là, tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân tộc.
Các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa,
tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đồng thời, tiếp tục tập
trung lãnh đạo việc kiện toàn hệ thống chính trị vùng đồng đồng bào dân tộc
thiểu số, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ vùng dân tộc và cán bộ làm công
tác dân tộc; đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân tộc.
Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần tích cực tham gia tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách dân tộc; phối hợp với các
cấp chính quyền tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào xóa bỏ tập tục lạc hậu, mê
tín dị đoan, xóa bỏ các tệ nạn xã hội; đi sâu nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
người dân, quan tâm hơn nữa đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đồng bào, nhất là đối với những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội như
phụ nữ, người già, trẻ em, người nghèo. Đặc biệt, các cấp chính quyền cần đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, chủ động xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện thực tế.
Năm là, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong phát triển kinh tế, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch, đặc biệt
là các vùng trọng điểm, đi kèm với việc xác định mục tiêu, yêu cầu và các lĩnh
vực kinh tế mũi nhọn, có tính cạnh tranh của từng vùng. Tạo môi trường thu
hút các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và thực hiện một số chương
trình, dự án phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có lợi thế; hỗ trợ, thu
hút đầu tư của các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và thân thiện với môi
trường. Xây dựng chính sách khuyến khích đồng bào dân tộc thiểu số khởi sự
kinh doanh, khởi nghiệp, vươn lên làm giàu từ những chuỗi giá trị. Xây dựng
các mô hình kinh tế hộ, mô hình trang trại, hợp tác xã kiểu mới phù hợp với
trình độ phát triển và đặc thù từng vùng. Thực hiện các chính sách khuyến
khích nguồn nhân lực đến các vùng dân tộc thiểu số để giúp người dân ở đây
tận dụng các nguồn lực sẵn có để phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn. Bên
cạnh đó, cần đổi mới cách thức hỗ trợ vốn phát triển sản xuất theo hướng tập
trung vào một đầu mối quản lý cũng như bảo lãnh tín chấp, tránh tình trạng hỗ trợ manh mún.
Trong giải quyết các vấn xã hội cần chú trọng vào lĩnh vực giáo dục, cần tập
trung nâng cao chất lượng dạy, học và chống tái mù chữ. Cử các cán bộ vận 13 lOMoAR cPSD| 45740413
động gia đình cho trẻ em được đến trường, thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ.
Trong lĩnh vực y tế, trước hết cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và
vận động đội ngũ y bác sĩ có chất lượng cho các trung tâm/trạm y tế cơ sở để
đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của đồng bào, tránh tình trạng chữa
bệnh theo phương pháp dân gian, thầy cúng,..để lại hậu quả đau lòng. Bên
cạnh đó, xây dựng và thực hiện đề án ngăn chặn suy thoái giống nòi ở một số
dân tộc thiểu số có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống, nạn tảo hôn cao như dân
tộc Mông (59,7%), Gia Rai (42%)…Thực hiện các chính sách dân số, tránh
tình trạng gia tăng tỉ lệ sinh quá nhanh ở các dân tộc thiểu số dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số.
Tỷ lệ tảo hôn của một số dân tộc 3. Liên hệ bản thân
Bản thân tôi là một sinh viên, trong bối cảnh đầy biến động hiện nay, tôi
nhận thấy rằng việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của sinh viên trong giải
quyết các vấn đề dân tộc là rất cần thiết. Vì sinh viên là tầng lớp tri thức trong
thời kì mới, tiếp thu những cái mới rất nhanh. Đây vừa là mặt tích cực vừa là
mặt tiêu cực, bởi lẽ các thế lực thù địch có thể lợi dụng điều này nhằm tuyên
truyền những điều sai trái về vấn đề dân tộc nhằm chống phá Đảng và nhà nước,
vì thế mà các sinh viên có thể dễ bị cuốn theo những hành vi vi phạm pháp luật
đó. Do vậy, không chỉ cá nhân tôi mà tất cả các bạn sinh viên cần:
- Thường xuyên trau dồi những tri thức về vấn đề dân tộc lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhằm giúp đỡ các dân tộc thiểu số
nâng cao nhận thức và phát triển kinh tế-xã hội
- Lên án, phê phán những hành vi sai trái gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
việc thực hiện chính sách dân tộc, đi ngược lại với phương hướng của Đảng và nhà nước. 14 lOMoAR cPSD| 45740413
- Loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực, phân biệt đối xử, kì thị giữa các dân tộc,
chia sẻ điều đúng đắn đến những người xung quanh về giải quyết vấn đề dân tộc. C. Kết luận
Vấn đề dân tộc vẫn còn là một thách thức lớn đối với nước ta đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay. Khi xu hướng hội nhập toàn cầu vừa mang lại những giá trị tiến
bộ nhưng cũng đi cùng với nhưng khó khăn trong giải quyết các hạn chế trong
giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Sự đa dạng dân tộc mang lại nền
văn hóa đa dạng đặc sắc nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ nhằm chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc.
Do những đặc điểm riêng biệt của dân tộc Việt Nam, những đặc điểm ấy vừa
mang lại thuận lợi nhưng vẫn tòn tại những mặt khó khăn. Đảng và nhà nước ta
đã đề ra rất nhiều những quy định, chính sách nhằm giải quyết triệt để vấn đề
này. Điều đó thể hiện Đảng ta luôn con vấn đề dân tộc là một trong những vấn
đề cấp bách cần được ưu tiên giải quyết. Các chính sách khi áp dụng vào thực tế
không thể phủ nhận được những thành tựu mà chúng ta đã đạt được, nhưng bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế mà chúng ta cần khắc phục nhằm xóa bỏ
những rào cản giữa các dân tộc. Trong quá trình thực hiện cần phải đặc biệt quan
tâm đến các dân tộc thiểu số, bởi những đặc điểm riêng biêt của từng dân tộc
cần có những chính sách, sự hộ trỡ đúng và đủ.
Trong quá trình giải quyết vấn đề dân tộc rất cần sự chung tay của cộng đồng,
đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay. Trong mọi hoạt động, luôn coi quan điểm về dân
tộc của chủ nghĩa Mác-leenin là cơ sở nền tảng và căn cứ vào thực tiễn của bối
cảnh nước ta, từ đó có những thay đổi, điều chỉnh để tiến tới giải quyết triệt để
vấn đề này một cách hiệu quả nhất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho bậc đại học không
chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, năm 2021. 15 lOMoAR cPSD| 45740413
2. Ban Tuyên giáo Trung ương Ðảng (2018), vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2019, NxbThống kê
4. Trang web Biên phòng Việt nam
http://bienphongvietnam.gov.vn/giaiquyet-van-de-dan-toc-o-viet-nam- trong-giai-doan-hien-nay.html
5. Trang web Học viện dân tộc Việt Nam
https://hvdt.edu.vn/nghiencuu/nghien-cuu-trao-doi/giai-quyet-van-de-dan-
toc-o-viet-nam-trong-giaidoan-hien-nay
6. Một số hình ảnh từ các trang web https://www.google.com.vn/search?
tbm=isch&q=c%C6%A1+c%E1%BA%A5u+d%C3%A2n+t%E1%BB %99c+%E1%BB%9F+n%C6%B0%E1%BB %9Bc+ta#imgrc=WPt32CjtL28poM
https://www.google.com.vn/search?tbm=isch&q=t%E1%BB%A5c+t
%E1%BA%B3ng+c%E1%BA%A9u#imgrc=fFr1XZ1y6xT-YM 16