-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó, rút ra bài học cho bản thân | Bài tập nhóm môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó, rút ra bài học cho bản thân | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740153
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: “ Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó, rút ra bài học cho bản thân.”
Họ và tên: Phạm Thị Diễm Quỳnh
Mã số sinh viên: 11215115 Lớp TC: LLNL1107(122)_09
GV hướng dẫn: TS.Lê Thị Hồng lOMoAR cPSD| 45740153 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, dân tộc luôn là một vấn đề nóng bỏng, được tất cả quốc gia trên thế
giới đặc biệt quan tâm và chú trọng đến. Mỗi quốc gia dù nhỏ hay lớn, đã phát triển hay
đang phát triển thì đền cố gắng bảo tồn và phát triển giá trị của dân tộc. Đặc biệt đối với
tình hình hiện nay thì vấn đề dân tộc đang có những chuyển biến khôn lường đối với
từng quốc gia và trên cả thế giới. Các vấn đề xoay quanh dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
sắc tộc luôn là những điểm yếu mà các thế lực thù địch muốn nhắm vào nhằm chống phá
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, cụ thể là 54 dân tộc anh em. Từ xa xưa
đã được biết đến với truyền thống đoàn kết dân tộc và lòng yêu nước nồng nàn. Điều đó
đã được minh chứng rõ ràng qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc từ
hàng nhìn năm trước đến nay. Các dân tộc khác nhau thì sẽ có các ngôn ngữ, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, đặc trưng văn hóa khác nhau. Vì thế mà đất nước ta trở nên
phong phú đa dạng về các dân tộc. Tuy nhiên các dân tộc anh em có thể sẽ bị chia rẽ nếu
mối quan hệ dân tộc không được giải quyết một cách thỏa đáng. Cũng chính vì lẽ đó mà
Đảng và nhà nước ta luôn dành một sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề này. Việc thực
hiện những chính sách nhằm giải quyết tốt các vấn đề dân tộc hiện nay, góp phần củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững được sự ổn định chính trị và thúc đẩy sự phát
triển của đất nước là một mục tiêu hàng đầu, mang tính chiến lược và lâu dài.
Vấn đề là rất quan trọng và có những ảnh hưởng sâu sắc với đất nước. Chính vì vậy
nên em đã quyết định đề tài “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó, rút ra
bài học cho bản thân.” để làm đề tài bài tập lớn.
Bài tập lớn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp
từ cô. Em xin chân thành cảm ơn. A. Lý luận chung
Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề dân tộc và đưa ra những khái
niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc.
Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao
gồm : thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính
là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Theo nghĩa thông thường, khái niệm dân tộc để chỉ một cộng đồng người có chung
ngôn ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Theo
nghĩa này ở Việt Nam có dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường, dân tộc Dao, lOMoAR cPSD| 45740153
… Về mặt lịch sử, cộng đồng tộc người phát triển từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc rồi dần
trở thành dân tộc. Ở phương Tây cho rằng dân tộc tương ứng với thời kỳ tư bản
chủ nghĩa trở đi. Trong khi đó, ở phương Đông, do yêu cầu của đắp đê, làm thủy
lợi, bảo vệ lãnh thổ… nhiều dân tộc hình thành từ rất sớm, không gắn liền với sự
ra đời của chủ nghĩa tư bản. Sở dĩ không có sự thống nhất như vậy là do chưa
phân biệt rõ khái niệm dân tộc theo nghĩa cộng đồng tộc người và dân tộc theo
nghĩa quốc gia dân tộc, hay nói cách khác, là theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là cộng đồng tộc người, không phân biệt trình độ phát
triển, đa số hay thiểu số, sống ở phạm vi quốc gia nào, đều bao gồm ba đặc trưng
cơ bản sau : cộng đồng về ngôn ngữ, cộng đồng về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.
Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cồng đồng người sinh sống trong một quốc gia
thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, có chung một nền kinh tế, có
ngôn ngữ chung và ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền
lợi về chính trị, kinh tế, truyền thông văn hóa và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, như dân tộc Việt Nam.
Theo nghĩa rộng, dân tộc có năm đặc trưng cơ bản sau :
- Có chung một vùng lãnh thổ ổn định
- Chung một phương thức sinh hoạt kinh tế
- Chung ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp
- Chung một nền văn hóa và tâm lý - Chung một nhà nước
Như vậy, khái niệm dân tộc cần được hiểu theo hai bình diện, dân tộc là cộng
đồng tộc người và dân tộc hiểu theo nghĩa rộng là cư dân của một quốc gia.
Nghiên cứu về khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc trong điều kiện
chủ nghĩa tư bản, V.I.Lê nin đã phát hiện ra hai xu hướng khác nhau của sự phát triển quan hệ dân tộc.
Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc, ý thức về
quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng
đồng dân tộc độc lập. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào
đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng
này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn
còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 45740153
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học
và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã xuất hiện
nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia
và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Trong phạm vi quốc gia, xu hướng thứ nhất thể hiện trong sự nỗ lực của từng dân
tộc để đi tới sự tự do, bình đẳng và phồn vinh của dân tộc mình. Xu hướng thứ
hai thể hiện ở sự xuất hiện những động lực thúc đẩy các dân tộc trong một cộng
đồng quốc gia xích lại gần nhau.
Trong phạm vi quốc tế, xu hướng thứ nhất thể hiện ở trong phong trao giải phóng
dân tộc nhằm chống lại chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân đô hộ. Xu
hướng thứ hai thể hiện ở xu thế các dân tộc muốn xích lại gần nhau, hợp tác với
nhau để hình thành liên minh dân tộc ở phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Ví dụ như
ở Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, nhằm biểu hiện tinh thần đoàn
kết giữa các nước trong khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo
động và bất ổn tại những nước thành viên.
Vậy, hai xu hướng này có sự thống nhất biện chứng với nhau trong tiến trình phát
triển của mỗi quốc gia và của toàn nhân loại, luôn có sự tác động qua lại với nhau,
hỗ trợ cho nhau, mọi sự vi phạm mối quan hệ biện chứng này đều dẫn tới hậu quả khó lường.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lê nin
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác – Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào sự
tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trao cách mạng thế giới và cách mạng
Nga, phân tích hai xu hướng khách quan của phong trao dân tộc, V.I. Lênin đã
nêu ra Cương lĩnh dân tộc bao gồm các nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc
theo cả góc độ mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc cũng
như theo cả góc độ mối quan hệ dân tộc quốc tế.
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Điều này có nghĩa là các dân tộc dù lớn hay nhỏ, kể cả bộ tộc và chủng tộc, không
phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp, đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau trong các sinh hoạt kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội; không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền và có quyền áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật
pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế. Đây là quyền thiêng liêng của tất cả các dân
tộc. V.I.Lê nin đã triển khai nội dung bình đẳng ở hai cấp độ là bình đẳng giữa lOMoAR cPSD| 45740153
các quốc gia - dân tộc và bình đẳng giữa các dân tộc - tộc người trong một quốc gia dân tộc.
Trên phạm vi giữa các các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa
các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế
giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước
chậm phát triển về kinh tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình dẳng giữa các dân tộc phải được
pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Vậy, thực hiền quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của
dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát
triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc
gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện liên hiệp lại với
các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ
xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.
Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân ủng hộ các phong trao đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích
chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh
chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân
tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin. Nó phản ánh bản chất
quốc tế của phong trao công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi. lOMoAR cPSD| 45740153
Đoàn kết công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoan kết các tầng lớp nhân
dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa để
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân
đóng vai trò vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên kết cả ba
nội dung của cương lĩnh thành một chính thể.
Vậy nên, “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác – Lênin là một bộ phận trong
cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đó còn là cơ sở lý luận
quan trọng để các Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong
quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
B. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
1. Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
• Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
Nước ta có tổng cộng 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 87% dân số cả
nước, còn lại là dân tộc ít người khác như Tày, Nùng, Thái … phân bố rải rác trên
khắp địa bàn cả nước. Thực tế cho thấy, nếu một dân tộc mà số dân chỉ có hàng
trăm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và
văn hóa dân tộc, duy trì và phát triển nòi giống. Do vậy, việc phát triển dân số
hợp lí cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số rất ít người
đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam có những chính sách quan tâm đặc biệt.
• Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
Vì Việt Nam là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đông Nam Á nên các
dân tộc ở Việt Nam không có lanh thổ tộc người riêng, không cư trú tập trung và
duy nhất trên một địa bàn mà cư trú phân tán và xen kẽ nhau.
Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
mở rộng giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa thống
nhất đa dạng. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vấn đề tiêu cực khác. Đó là việc các
tộc người sống xen kẽ làm dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột trong quá trình sinh
sống, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề dân tộc phá hoại an
ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước bằng việc tìm mọi cách phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ cộng đồng các dân tộc, nhất là chia rẽ đồng bào
dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh, kích động ly khai, tự trị; chia rẽ các dân tộc với Đảng, Nhà nước.
• Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng lOMoAR cPSD| 45740153
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 14.3% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên ¾
diện tích lãnh thổ và ở các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị,
kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng
rừng núi cao, hải đảo… Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn
cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân
tộc ở các nước láng giềng và khu vực. Ví dụ như dân tộc Thái, dân tộc Mông, dân
tộc Khơme … do vậy, các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề chống phá cách mạng Việt Nam.
• Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều
Các dân tộc ở nước ta còn có những sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Về phương diện xã hội, trình độ tổ chức đời sống, quan
hệ xã hội của các dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân
loại các dân tộc thiểu số Việt Nam ở những trình độ phát triển rất khác nhau : Một
số ít các dân tộc cong duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy
nhiên, đại bộ phận các dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất
hiện đại hơn, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình
độ dân trí, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhiều dân tộc thiểu số còn thấp.
Muốn thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải từng bước giảm, tiến tới xóa bỏ khoảng
cách phát triển giữa các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh thần nhưng các
dân tộc vẫn đoàn kết, coi nhau như anh em và bảo vệ Tổ Quốc. Ở nước ta không
có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hóa, thôn tinh các dân tộc ít người,
nên cũng không có tình trạng dân tộc thiểu số chống lại dân tộc đa số.
• Các dân tộc Việt nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân
tộc – quốc gia thống nhất
Từ xa xưa, các dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S có nhu cầu tự
nhiên là luôn phải đoàn kết với nhau để chống lại thiên tai, giặc xâm lăng, trở
thành một cộng đồng bền chặt – đại gia đinh các dân tộc Việt Nam, cùng nhau
dựng nước và giữ nước.
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ở Việt Nam, là một
trong những nguyên nhanh và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong
giai đoạn lịch sử; đanh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập cho đất nước.
Ngày nay, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, các dân
tộc thiểu số cũng như đa số phải ra sức phát huy nội lực, giữ gìn và phát huy
truyền thống đoàn kết dân tộc, đề cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và
hành động chia rẽ dân tộc. lOMoAR cPSD| 45740153
• Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của
nền văn hóa Việt Nam thống nhất
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Trong văn hóa của mỗi dân tộc đều có những
sắc thái độc đáo riêng góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
sự đa dạng. Sự thống nhất đó, suy cho cùng là bởi, các dân tộc đều có chung một
lịch sự huy hoàng dựng nước và giữ nước. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dân
tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến chính sach dân tộc,
xem đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn và toan diện gắn liền với các mục tiêu
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam
• Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu
đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc”. Trong mỗi thời
kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đung đắn vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh dân và tiềm năng riêng của từng
dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở những nội dung sau :
- Vấn đề dân tộc và đoan kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng
thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay.
- Các dân tộc bình đẳng, đoan kết, tương trợ nhau cùng phát triển, cùng nhau
phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa và an ninh – quốc phòng trên địa
bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội. Quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn
hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước
hết, tập trung và phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo;
khai thác có hiệu quả tiềm năng của từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường.
Tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của địa phương trong cả nước.
• Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam lOMoAR cPSD| 45740153
Chính sách dân tộc là một hệ thống những quan điểm chính trị của một giai cấp, đại diện
là chính đảng và nhà nước để giải quyết vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc
trên mọi lình vực của đời sống xã hội. Chính sách dân tộc là cụ thể hóa các quan điểm,
đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp đến việc giải quyết mối quan
hệ dân tộc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về chính trị, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển
giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị
của công dân; nâng cao nhận thực của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan
trọng của vấn đề dân tộc, đoan kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương
chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng.
Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Gìn giữ và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân và các dân tộc.
Về xã hội, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục.
Về an ninh, quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc trên cơ sở đảm
bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng
cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toan dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện, tổng hợp, quán
xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa
các dân tộc trong cả quốc gia lOMoAR cPSD| 45740153
3. Thực trạng về vấn đề dân tộc ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng giải quyết tốt vấn đề
dân tộc và đã đạt được những kết quá đáng khích lệ trên tất cả các phương diện kinh tế,
chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh. Tuy nhiên trong thực tiễn việc giải
quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại hạn chế, bất cập
Những thành tựu cơ bản
Về kinh tế, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những bước phát triển tiến bộ rõ
rệt, đời sống đồng bào được nâng lên, diện mạo vùng dân tộc thiểu số khởi sắc
với hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện.
Về chính trị, quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quy định của Hiến pháp được
thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
người dân tộc thiểu số được quan tâm quy hoạch, đào tạp, bồi dưỡng phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về văn hóa, thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện hơn. Hiện nay, 100% các xã
có bưu điện, 44% các xã có nhà văn hóa, 62.5% số thôn, bản có nhà sinh hoạt
cộng đồng. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát huy.
Về phát triển xã hội, cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư nâng cấp; công tác
chăm sóc sức khỏe ngày càng được cải thiện, đã có 48.8% người dân tộc thiểu số
có sử dụng thẻ bảo hiểm y tế; công tác xóa đói giảm nghèo: nhiều dân tộc thiểu
số có tỷ lệ hộ nghèo rất thấp, dưới mức trung bình của cả nước như dân tộc Hoa 3%, Chu Ru 4.6% …..
Về quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội và quốc phòng, an ninh vùng dân
tộc thiểu số cơ bản được đảm bảo, quan hệ giữa các dân tộc được củng cố. Các
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch được ngăn chặn kịp thời, việc truyền
đạo trái pháp luật được kiểm soát, an ninh được duy tri, biên giới được bảo vệ.
Về hợp tác quốc tế, đã tăng cường phối hợp với các đối tác quốc tế trong việc
nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc; khuyến khích việc giúp đỡ,
hỗ trợ đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số. Hoạt động tuyên truyền đối ngoại,
tổ chức giao lưu của nước ta với các nước giúp tăng cường đoan kết, hữu nghị hai bên biên giới.
Những hạn chế, vấn đề
- Về phát triển kinh tế vùng dân tộc : đóng góp của khu vực này vào nền kinh
tế quốc dân còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn chậm. Sự phân hóa thu nhập ngày càng dãn ra giữa các vùng,
tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. lOMoAR cPSD| 45740153
- Bản sắc văn hóa truyền thống của một số cộng đồng dân tộc thiểu số, đang có
nguy cơ biến mất, suy giảm số lượng, chất lượng.
- Một số chính sách cụ thể qua quá trình thực hiện đang bộc lộ những bất cập
về thiếu đồng bộ, thiếu nguồn lực để thực hiện, dàn trải… cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp.
- Tỷ lệ người lao động qua đào tạo trong các dân tộc thiểu số còn thấp
- Các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước sẽ ra sức lợi dụng vấn đề
tôn giao, dân tộc, làm cho an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số nước ta có nơi, có lúc sẽ diễn biến phức tạp.
4. Định hướng giải quyết một số vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Để góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự ổn định chính
trị và gia tăng nguồn lực cho sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn
mới, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề dân tộc.
Về chính trị : thực hiện bình đẳng đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển
giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tích cực chính trị của
công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan
trọng của vấn đề dân tộc, đoan kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về kinh tế : nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh
lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua
các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Về văn hóa : xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển
ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa
phù hợp với điều kiện của các tộc người trong các quốc gia đa dân tộc. Đồng thời,
mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng – văn
hóa ở nước ta hiện nay. lOMoAR cPSD| 45740153
Về xã hội : thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua
việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số,
y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc.
Về an ninh quốc phòng : tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc trên cơ sở đảm
bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối
hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo
thế trận quốc phòng toan dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
C. Liên hệ cá nhân
Là một công dân, là một sinh viên, để giảm bớt gánh nặng cho đất nước và đóng góp
một phần cho định hướng giải quyết các vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhìn nhận những hạn chế : Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa có
những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của sinh viên
theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên biết thêm nhiều hơn về
phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh
đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời như : Một bộ
phận sinh viên xa rời truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít người có
thái độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động giải trí, văn hóa, nghệ
thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, cách mạng, truyền thống. Chúng ta
còn bắt gặp một hiện tượng đáng báo động của giới trẻ nói chung và sinh viên nói
riêng trong việc hội nhập, tiếp thu văn hóa thế giới; du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực.
Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên : Tự mình phấn đấu, rèn luyện, trau
dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, những tri thức đúng đắn, nhận thức rõ ràng
và chính xác về vấn đề dân tộc. Đồng thời, sinh viên cũng cần thường xuyên học tập,
nâng cao nhận thức về tính đung đắn và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, thông qua quá trình lĩnh hội để xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định với đường lối xã hội chủ nghĩa.
Về ý thức tổ chức, kỷ luật : Tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kết phái để
làm rối loạn, gây mất đoan kết nội bộ. Mỗi bạn trẻ hiện nay cần có nhận thức đúng đắn
về vấn đề dân tộc, không tham gia vào các tệ nạn xã hội, không để kẻ xấu có cơ hội lôi
kéo, mua chuộc làm lệch lạc suy nghĩ. Đồng thời, cần lên án, tố cáo những hiện tượng
tiêu cực, những hành vi truyền bá những quan điểm như chiêu bài “dân tộc tự quyết” để
can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước hoặc kích động đòi ly khai dân tộc. lOMoAR cPSD| 45740153 KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đã được V.I.Lênin chỉ ra rằng: Trong các
cuộc cách mạng việc giải quyết đúng đắn quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, hai xu
hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực
đoan và cần thực hiện tốt cương lĩnh về vấn đề dân tộc đó là việc làm của những người
cộng sản trong thực hiện cuộc cách mạng. Đảng và Nhà nước đã vận dụng lý luận của
Lênin một cách sáng tạo trong vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc và từ tư tưởng
chiến lược – đại đoàn kết dân tộc trong các cuộc cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định đung vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta, chỉ
ra những nội dung cần vận dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế: “Bình
đẳng, tôn trọng, đoan kết, giúp nhau cùng phát triển”.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc trong thời kỳ đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, luôn là
vấn đề nhạy cảm và cần sự quan tâm đặc biệt từ cả các cấp chính quyền lẫn nhân dân.
Những vấn đề liên quan đến dân tộc cần giải quyết một cách nhanh chóng, hợp lí để
tranh những rủi ro, nguy cơ gây mất trật tự an toàn xã hội, mất ổn định chính trị xã hội.
Việc giải quyết các vấn đề dân tộc cần có cách tiếp cần phù hợp, căn cứ vào bối cảnh,
tình hình hiện nay của đất nước, đồng thời cần nhận thức đầy đủ và xử lí hiệu quả
những vấn đề dân tộc nảy sinh không mong muốn.