


Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773091
Các vấn đề pháp lý đã được tòa án giải quyết trong BẢN ÁN 60/2024/DS-PT
NGÀY 27/02/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN ĐỐI VỚI BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
-Người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Mai
Văn H do bị đơn đã chết là ông Võ Hùng C. Việc ủy quyền này sẽ phải tuân theo điều 138 BLDS
2015 quy định về đại diện theo ủy quyền:
“Điều 138. Đại diện theo ủy quyền 1.
Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. 2.
Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể
thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. 3.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy
quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở
lên xác lập, thực hiện.”
- Sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham gia
phiên toà lần 2 nhưng vắng mặt không có lí do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và
Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với những người trên.
“Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể
hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:”
-Việc tòa án ghi nhận ý kiến tự nguyện ông Võ Hùng C là người đại diện theo ủy quyền của bà
Nguyễn Thị T cùng các con Mai Thị Tr, Mai Văn S, Mai Văn Đ nhổ bỏ hai cây trụ đá và tất cả
cộc tre hiện nay còn cặm trong con mương tranh chấp đã được giải quyết bằng Bản án số:
34/2012/DS-ST ngày 27-11-2019 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng và Bản án số:
45/2020/DS-PT ngày 30-3-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng từ đó tạo thiện ý giải quyết
chính xác và xác định lại đúng ranh đất theo như 02 Bản án trước đây đã tuyên thì ông C đồng ý
nhổ bỏ 02 cây trụ đá và tất cả các cây tre bà T mới cặm thêm trong con mương tranh chấp trước lOMoAR cPSD| 59773091
đây đã được Tòa án giải quyết xong. Bên cạnh đó, việc tòa ghi nhận ý kiến tự nguyện trên còn
giúp xác định rõ ràng quyền lợi mà họ có đối với tài sản tranh chấp. Điều này không chỉ bảo vệ
quyền lợi của bị đơn mà còn tạo ra sự công bằng trong việc giải quyết tranh chấp. Việc ghi nhận
đóng góp là cơ sở để Tòa án quyết định về việc phân chia tài sản hoặc quyền sử dụng đất. Nếu
không có sự ghi nhận này, việc phân chia có thể dẫn đến sự bất công và tranh chấp kéo dài bởi lẽ
ở lần đóng Phần ranh đất đã tuyên trước đây của 02 bản án mà ông Phạm Văn V trình bày là một
con mương, hiện trạng con mương vẫn còn như cũ không thay đổi. Sau khi bản án có hiệu lực
pháp lực thì ông Mai Văn H có yêu cầu Cơ quan thi hành án xuống thi hành cặm ranh theo bản
án của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhưng Cơ quan thi hành án hướng dẫn ông H về địa
phương giải quyết nên ông H có liên hệ tổ hòa giải ấp xuống cặm ranh, hiện nay chỉ có 02 cây
trụ đá và 04 cây tre gia đình bà T mới cặm thêm sau khi Tòa án tiến hành thẩm định. Khi đó
không có ông Phạm Văn V tham gia chỉ có ông H và các cán bộ của ấp cấm cọc ranh theo đúng
bản án của Tòa án đã tuyên, các cọc ranh là do gia đình ông H mua rồi nhờ tổ hòa giải ấp chứng
kiến cặm ranh. Và bây giờ việc nhổ các cọc ranh lên nhằm giúp cho việc xác định đất được giải
quyết thuận lợi từ đó tránh việc phân chia có thể dẫn đến sự bất công và tranh chấp kéo dài. Đây
cũng là phương thức giúp khuyến khích sự hợp tác và thỏa thuận khi mà các bên đều được ghi
nhận đóng góp của mình, điều này khuyến khích họ hợp tác và tìm kiếm giải pháp hòa bình để
giải quyết tranh chấp, thay vì chỉ dựa vào quyết định của Tòa án tránh những thủ tục rắc rối.
-Việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn V về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T
cùng các con Mai Thị Tr; Mai Văn S; Mai Văn Đ mé (cắt, tỉa) các nhánh cây tre và nhánh cây
dừa lấn qua đất ông Phạm Văn V là hoàn toán chính xác và hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Theo
đó, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định tại
chỗ đối với hiện trạông Và đã xác định bà T hiện là người trực tiếp sử dụng phần đất có trồng các
cây tre, dừa, tràm đúng trên ranh đất của bà T nhưng để cho các nhánh cây lấn qua phần đất ông
V cụ thể gồm 03 bụi tre, 01 cây tràm và 01 cây dừa. Tuy nhiên, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tiến
hành thẩm định xong thì gia đình bà T đã chặt bỏ các nhánh cây lấn qua đất ông V đã được các
bên đương sự thừa nhận tại biên bản hòa giải của Tòa án cấp sơ thẩm và ông V cũng thừa nhận
hiện nay gia đình bà T đã chặt bỏ các nhánh cây lấn qua đất của ông. Bên cạnh đó, chứng cứ hình
ảnh được ông V cung cấp tại giai đoạn phúc thẩm là hai tấm ảnh cho rằng các cành cây mà gia
đình bị đơn cắt đã được cắt tiếp tục phát triển lấn qua chụp ngày 25/01/2024, nhưng ảnh chụp
không thể hiện ngày, tháng, năm chụp và cũng chưa thể hiện rõ việc các cành cây tiếp tục phát
triển lấn qua đất ông và ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của ông V từ đó không có căn cứ cho
yêu cầu khởi kiện của ông V. Bên cạnh đó, căn cứ pháp lý theo khoản 2 điều 175 BLDS 2015 có nêu rõ là
“Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới
của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử
dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì
phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Ở bản án này thì gia đình bà T đã chặt bỏ các nhánh cây lấn sang đất của ông V, các nhánh cây
lấn qua đất của ông Phạm Văn V đã được cắt tỉa và không làm ảnh hưởng đến không gian quyền lOMoAR cPSD| 59773091
sử dụng đất của ông V từ đó tuân thủ rõ ràng khoản 2 điều 175 nêu trên, từ đó Tòa án không
chấp nhận yêu cầu của ông V là chính xác
Bên cạnh đó căn cứ theo điều 248 BLDS 2015 có quy định rằng:
“Điều 248. Nguyên tắc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề
Việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các
bên không có thỏa thuận thì thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
1. Bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng quyền phù hợp với mục đích
sử dụng của cả bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền.
2. Không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền.
3. Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền đối với bất động
sản hưởng quyền trở nên khó khăn.”
Trong trường hợp này thì giữa 2 nhà ông V và gia đình bà T không có thỏa thuận trước thì