



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47028186
Vấn đề 1: Trình bày nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
Tại sao nói đây là vấn đề cơ bản của triết học?
I.Khái niệm triết học
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của
con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý
thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết
những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc
của nó vào tính duy lý trong việc lập luận. II. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại, của ý thức đối
với vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn
đề khác của triết học.
Đối với các hệ thống triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chỉ được thể hiện trong các quan niệm có
tính chất bản thể luận, mà còn được thể hiện trong các quan niệm chính trị-xã hội, đạo đức và tôn giáo, tất
nhiên có thể là nhất quán hoặc không nhất quán.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt lịch sử phát triển của tư tưởng
triết học và thể hiện tính đảng trong triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt, tương ứng là hai câu hỏi lớn:
-Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
-Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
III. Tại sao nói đây là vấn đề cơ bản của triết học
Một dân tộc muốn đứng ở đỉnh cao khoa học thì không thể thiếu tư duy triết học. Triết học giúp
cho xã hội con người phát triển, mà để phát triển thì bắt buộc phải có sự cạnh tranh. Sự cạnh tranh của
hai trường phái triến học giúp cho triết học phát triển từ đó kéo theo xã hội con người phát triển. Nên
ta có thể nói nội dung cơ bản của triết học là sự cạnh tranh của hai trường phái Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm
Vấn đề 2: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng về vật chất. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
I,Khái niệm về vật chất
1 ,Trước Mác-Lenin lOMoAR cPSD| 47028186
-Phương Đông:các nhà duy vật cổ đại quy vật chất về 1 hay vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới
. Ấn Độ:đất,nước,lửa,gió
.Trung Quốc:kim, mộc ,thủy,hỏa,thổ
.Phương Tây:nước,lửa,vật chất là nguyên tử
2 ,Thời kì Mác Lê Nin
-Vật chất là 1 phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm
giác,được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác -
Nội dung định nghĩa vật chất :
.Thứ nhất :vật chất là thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
.Thứ hai:vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác
.Thứ ba:vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó II. Nội dung
1.Phương thức tồn tại của vật chất
- Phương thức tồn tại của vật chất là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại phải bằng cách vận động
Thông qua vận động biểu hiện sự tồn tại của mình
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
Vận động của vật chất là vận động tự thân
Vận động gắn liền với vật chất
Vật chất không tự sinh ra , không tự mất đi , vì vậy vận động cũng không tự nhiên sinh ra và tự mất đi , nó
tồn tại vĩnh viễn vô tận vô hạn
Những hình thức vận động cơ bản của vật chất -Vận động cơ học - Vận động hóa học Vận động vật lí
-Vận động sinh học -Vận đọng đứng im
-Đứng im là trạng thái ổn định về vật chất hiện tượng .Là hình thức biểu hiện sự vậy hiện tượng
.Là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của sự vật hiện tượng .Là biểu hiện cho sự vận động
chuyển hóa của vật chất
-Đứng im là trạng thái ổn định về vật chất của sự vật hiện tượng. Là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự
của sự vật hiện tượng. Là biểu hiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất
2 .Không gian và thời gian
- Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động
-Là hai thuộc tính , hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động nhưng chúng không tách rời nhau
3 .Tính thống nhất vật chất của thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất
Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất vói nhau
Thế giới vật chất không do ai sinh ra , cũng không tự mất đi , tồn tại vĩnh viễn , vô hạn , vô tận lOMoAR cPSD| 47028186
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Đã giải quyết 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Cung
cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
- Đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan , xuất phát từ hiện thực khách quan , tôn trọng khách quan
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
Vấn đề 3: Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất,
là thuộc tính cố hữu của vật chất? Cho ví dụ.
I.Khái niệm vận động
-Quan niệm siêu hình về vận động : Chỉ là vận động cơ học, vận động là sự di chuyển các vật thể
Nguồn gốc của vận động là nằm ở bên ngoài
- Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Anghen viết: "Vận động hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy.Như vậy bản chất của vận động là
.Phương thức tồn tại của vật chất
.Thuộc tính cố hữu của vật chất
II, Vận động là phương thức tồn tại của vật chất -
Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động. Bằng sự vận động và thông qua sự vận động mà các
sự vật, hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại. -
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động; bởi vì tất cả các
dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua
lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối
lập với quan điểm duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.
-Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất được nhận thức thông qua sự vận động của chúng.
-Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu
diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng III.Vận
động là thuộc tính cố hữu của vật chất -
Vận động tồn tại cùng với sự tồn tại của vật chất và chỉ khi nào vật chất mất đi thì vận động mới
mất đi. Mà vật chất không mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác, do đó vận động cũng không
mất đi. Định luật bảo toàn năng lượng đã chứng minh điều đó. Vật chất là tự thân vận động. Nguồn gốc
của vận động là quá trình giải quyết mâu thuẫn vận động.
(*) Giải thích
- Vật chất có kết cấu, các thành phần liên kết với nhau, ràng buộc với nhau, tạo thành quá trình vận động.
Tuy nhiên do có các yếu tố cấu thành bên trong sự vật, mà có những hiện tượng thúc đẩy, phát triển lOMoAR cPSD| 47028186
cùng nhau, đồng thời cũng có những mặt đối lập. Ví dụ ngay trong cơ thể con người có quá trình đồng
hóa và dị hóa. Vì vậy giải quyết mâu thuẫn là làm cho sự vật vận động và phát triển.
- Vận động là vận động của vật chất và vận động là tuyệt đối. Như vậy là ý thức không phải là không vận
động, mà ý thức chỉ là một sản phẩm của thế giới vật chất, sự vận động của ý thức phụ thuộc vào sự vận
động của thế giới vật chất. (*) Các hình thức vận động
- . Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
-Vận động vật lí (vận động của các phần tử ,các hạt cơ bản ,vận động của điện tử ,các quá trình nhiệt điện,..)
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường)
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội)
(*)Quan hệ giữa 5 hình thức vận động của vật chất
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác
nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này là sự tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả
các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm
các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật đều có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy
nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Ví
dụ trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động khác nhau như vận động cơ học, vận động vật lý, vận
động hóa học, vận động sinh học, nhưng hình thức vận động sinh học mới là hình thức vận động cơ bản
của sinh vật. Vận động xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của con người.
,Ví dụ: Sự sống chỉ tồn tại khi có trao đổi chất với môi trường hay trái đất chỉ tồn tại khi tự nó quay
quanh trục của nó và xung quanh mặt trời.
Vấn đề 4: Trình bày quan điểm chủ chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nguồn gốc, bản chất của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận.
I,Khái niệm ý thức
- Theo triết học Mác-Lênin: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và
có sự cải biến và sáng tạo
II,Nguồn gốc ý thức
1.Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Tạo thành bởi 2 yếu tố là bộ óc con người và thế giới khách quan. Trong đó, thế giới khách quan tác
động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan
ức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.
− Các trình độ phản ánh của thế giới vật chất:
• Phản ánh sinh học ( Đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh) được thể hiện qua: lOMoAR cPSD| 47028186
Tính kích thích là phản ứng ở thực vật và động vật bậc thấ Tính cảm
ứng: động vật chưa có hệ thần kinh
Phản xạ không điều kiện: động vật có hệ thần kinh
Phản ánh tâm lí: động vật bậc cao
Phản ánh ý thức: con người
• Phản ánh cơ-lí-hóa (Giới tự nhiên vô sinh) được thể hiện qua những biến đổi về cơ-lí-
hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh ( thay đổi kết cấu, vị trí, phân giải các chấ
ụ động, chưa có định hướng lựa chọn.
→ Bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo đây là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
2.Nguồn gốc xã hội của ý thức - Lao động : - Ngôn ngữ :
+ Chuyền tải tư duy ,ý thức
+Đỡ lệ thuộc vào các đối tượng vật chất cụ thể giúp tư duy phát triển
III,Bản chất của ý thức
1 .Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
-Ý thức là ‘hình ảnh” về hiện thực khách quan trong óc người. Nội dung phản ánh là khách quan.
Hình thức phản ánh là chủ quan
Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo gắn với thực tiễn xã hội:
Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản anh
Xây dựng các học thuyết, lí thuyết khoa học
Vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn
2 .Ý thức mang bản chất lịch sử- xã hội dựa trên : - Điều kiện lịch sử - Quan hệ xã hội
IV,Ý nghĩa phương pháp luận
1. Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần chống bệnh chủ quan, duy ý chí
2. Do ý thức là phản ánh tự giác ,sáng tạo hiện thực nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ
nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn lOMoAR cPSD| 47028186
3. Vì thế ý thức con người cần hình thành trên cơ sở thực tiễn , gắn liền với thực tế đời sống
,tránh tiếp thu những tư tưởng lệch lạc ,bảo thủ,cố chấp.Hình thành ý thức tích cực tiếp thu có
chọn lọc ,chủ động và ngày càng hoàn thiện .
Vấn đề 5: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Bài học rút ra cho bản thân sau khi nghiên cứu mối quan hệ này.
I,Khái niệm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là :”vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt là của
triết học hiện đại”; khi giải quyết mối mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai
đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
-Trước Mác : Khi lý giải mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, các nhà triết học đã phạm
nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không hiểu được bản chất thực sự của vật chất và ý
thức -Thời kì của Mác : “Đã chỉ rõ hạn chế của cả chủ nghĩa duy vật trực quan và chủ nghĩa
duy vật”: sự vật, thực tại, cảm tính chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình
thức trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm tính của con người, là thực tiễn,
không được nhận thức về mặt chủ quan.
II. Nội dung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ
động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
-Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
- Đặc điểm của vật chất :
+) Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
+) Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
+) Vật chất vận động trong không gian và thời gian; lOMoAR cPSD| 47028186
+)Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là hình
thức tồn tại của vật chất.
-Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý
thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích
cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
-Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
+ .Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
+ ,Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
(*) Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
⁃ Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con
người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là
kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là là sản phẩm của thế giới vật chất.
Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự
nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
⁃ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế
giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ),
hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của
vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là
nguồn gốc của ý thức.
(*) Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
⁃ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình
thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ
quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. lOMoAR cPSD| 47028186
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
-Trong mối quan hệ với vật chất có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
-Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi
hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con
người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi
thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy
con người xác định mục tiêu để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác
động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
-Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có
ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng
lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được
cải tạo – đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không
đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động
của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực
đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
-Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức
có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý
thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật
chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật
chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản
ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức
của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành
động theo định hướng của ý thức
-Ví dụ: Trước khi thực hiện một trận đánh chung ta làm quyết tâm thư thực hiện tự phê bình
và phê bình rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. thực hiện giáo
dục nhận thức thông qua các phong trào thực tiễn
III. Phương pháp luận
1, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
2, Cần phát huy tính năng động sáng tạo môi trường lOMoAR cPSD| 47028186
3, Nhận thức và hoạt động thực tiễn còn xuất phát từ tính khách quan tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan
4, Giải quyết hài hoà không được tuyệt đối hoá vai trò vật chất IV. Bài học -
Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống
hàng ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những
vật chất của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan
-. Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thức
thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
- Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống - Khi
giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách quan
và điều kiện khách quan. -
Cụ thể hơn: vì vật chất quyết định ý thức vì vậy nhận thức và hoat động của tôi
phải xuất phát từ thế giới khách quan. Hay khi đánh giá một ai tôi cần tiếp xúc và
lắng nghe quan điểm nhưngx người xung quanh
Vấn đề 6: Vì sao sự ra đời của triết học Mác-Lênin là một
tất yếu lịch sử và là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học?
I,KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC
-Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là
khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy II. Sự ra
đời của triết học mác-lênin là một tất yếu lịch sử -
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một sản phẩm lý
luận của sự phát triển lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với những điều
kiện, tiền đề khách quan của nó.
1.Điều kiện kinh tế xã hội lOMoAR cPSD| 47028186 -
Sự củng cố và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất TBCN trong điều
kiện cách mạng công nghiệp. Vào những năm 30 – 40 thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng
cuộc cách mạng công nghiệp, phương thức sản xuất TBCN đã thực sự đi vào giai
đoạn phát triển mới và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở các nước châu u như Anh, Pháp, Đức.
Phương thức sản xuất TBCN phát triển thể hiện tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong
đồng thời làm cho những mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt hơn. Xung đột giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản ở các nước này đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. : Ví dụ:
Anh và Pháp cơ bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp
Đức dù còn là nước quân chủ phong kiến nhưng có bước phát triển vượt bậc về kinh tế -
Trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các
nước tư bản này, biểu hiện ở phong trào cộng sản những năm 30 – 40 thế kỷ XIX
ngày càng phát triển và trở nên chín mùi. Giai cấp vô sản châu u dần dần trưởng
thành và trở thành một lực lượng chính trị – xã hội độc lập trên vũ đài lịch sử.
-Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ phong trào công nhân đã tạo cơ sở xã hội
cho sự ra đời lý luận tiến bộ và cách mạng của C.Mác và Ph.Angghen,. Chính sự ra đời của lý luận này đã
lý giải một cách khoa học về sự xung đột không thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về sứ mệnh lịch sử
vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng với sự phát triển và tiến bộ xã hội.Có thể nói, sự ra đời triết học Mác
chính là sự phản ánh, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi về mặt lý luận của thực tiễn xã hội nói chung, thực tiễn
cách mạng của vô sản ở giai đoạn 30-40 thế kỷ XIX nói riêng
2.Tiền đề lí luận -
Sự ra đời triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh
tế – xã hội của xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm tất yếu của sự phát
triển hợp qui luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Mác ra đời là một sự kế
thừa biện chứng những học thuyết, lý luận trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là
triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
-Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và của Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp
của triết học Mác. Đối với triết học của Hêghen, một mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy
tâm thần bí trong triết học này, mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện chứng của nó. Từ đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất hữu cơ với nhau. lOMoAR cPSD| 47028186 -
Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình
C.Mác kế thừa, cải tạo các lý luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế thừa và cải tạo
kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là A.Xmít và Đ.Ricácđô đã tạo
điều kiện cho C.Mác hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử cũng như xây dựng nên
học thuyết về kinh tế của mình.
-Việc kế thừa và cải tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê đã giúp C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng lý luận khoa học của mình về
CNXH. Trên thực tế, sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát triển lý luận về
CNXH của Mác, tức CNXH khoa học.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
- Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, sự ra đời triết học Mác còn dựa vào những tiền đề khoa học tự
nhiên. Những thành tựu về khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, bất lực của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học cho sự phát triển tư
duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
-Trong số những thành tựu KHTN thời đó, Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của 3 phát minh lớn đối với sự
hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và
thuyết tiến hóa Đácuyn. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa
các hình thức vận động của vật chất. Thuyết tế bào chứng minh về sự thống nhất và sự phát triển của sự
sống từ thấp lên cao, từ đơn giản tới phức tạp. Thuyết tiến hóa Đácuyn đã lý giải về tính biện chứng của
sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài
III. Sự ra đời của triết học mác-lênin là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học
-Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử
phát triển của triết học trước đó. Trên cơ sở cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình cũng như
phép biện chứng duy tâm. Triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một nền triết học mới – triết
học duy vật biện chứng.
-Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học Mác chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư
tưởng khoa học. Với việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm
cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự mở rộng học thuyết này từ chỗ nhận thức
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. lOMoAR cPSD| 47028186
-Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri
thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối với triết học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế
giới thì triết học Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế giới. Triết học
Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là “vũ khí
lý luận” của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng bản thân và giải phóng loài người nói
chung. Tương tự, giai cấp công nhân chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của triết
học mác, để nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của mình.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN -
Sự ra đời triết học Mác đã chấm dứt quan niệm của triết học cũ coi triết học là “khoa học của các
khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Trái lại, triết học Mác khẳng định về vai trò của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó, tùy vào sự phát triển
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi triết học cũng phải biến đổi theo, phải thay đổi hình thức cho phù hợp
Vấn đề 7: Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người. I.
Khái niệm triết học
-Là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của
con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại kiến thức, giá trị, quy
luật, ý thức và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức nó
giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và
sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
-Là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về trị trí, vai trò của con người trong thế giới II.
Nguồn gốc ra đời của triết học -
Triết học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về thế giới của con người. Triết học chỉ xuất
hiện khi những kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định. Trên
cơ sở đó, những tri thức riêng lẻ về thế giới phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa những
khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, học thuyết,... đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. - Triết
học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản xuất ra hội, phân
công lao động xã hội hình thành, có của cải dư thừa, tư hữu hóa về tư liệu sản xuất, sự phân hóa giai lOMoAR cPSD| 47028186
cấp lao động, nhà nước ra đời. Tầng lớp trí thức xuất hiện, có điều kiện và nhu cầu, nghiên cứu,có
năng lực hệ thống hóa các quan niệm, quan điểm hình thành học thuyết, lý luận. Những người xuất
sắc trong tầng lớp này được xã hội công nhận là các nhà thông thái, các triết gia
III. Vai trò của triết học đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người -
Được thể hiện qua chức năng của triết học như:chức năng nhận thức,chức năng đánh giá,chức
năng giáo dục...nhưng chức năng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận
-Có thể khẳng định, việc tìm hiểu, học tập triết học là một tiền đề quan trọng để nâng cao hiểu biết,
trình độ và năng lực tư duy lý luận để từ đó xây dựng được một thế giới quan, nhân sinh quan đúng
đắn, phù hợp với sự phát triển của thế giới và của thời đại -
Triết học Mác - Lênin là triết học do Mác và Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX trên cơ sở
kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại, đồng thời được
Lênin phát triển, hoàn thiện vào đầu thế kỷ XX. Triết học Mác - Lênin không phải là một lý luận
thuần túy mà là một lý luận triệt để, mang tính khoa học cao do chỗ nó cũng được xây dựng trên cơ
sở tổng kết, khái quát các thành tựu quan trọng của khoa học cụ thể lúc đó.
-Trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất chặt chẽ với nhau. Thế
giới quan trong triết học Mác - Lênin là thế giới quan duy vật biện chứng.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Phương pháp luận trong triết học Mác - Lênin là phương pháp luận biện chứng duy vật. Điều đó
biểu hiện, mỗi luận điểm của triết học Mác - Lênin vừa mang tính thế giới quan vừa mang tính
phương pháp luận. Do đó, triết học Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc trang bị
cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người. Việc tìm hiểu, vận dụng triết học Mác - Lênin chính là tìm hiểu, tiếp thu và vận
dụng một thế giới quan khoa học và một phương pháp luận đúng đắn. Điều đó thể hiện ở thái độ
khách quan trong đánh giá sự vật, biết tôn trọng sự vật khách quan, cũng như biểu hiện ở một phương
pháp tư duy biện chứng, xem xét, đối xử với sự vật một cách linh hoạt, mềm dẻo. Nói cách khác, việc
bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng trong quá trình nhận thức và vận
dụng triết học Mác - Lênin chính là mục đích và cũng là kết quả cao nhất để có thể tránh rơi vào chủ
nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình. lOMoAR cPSD| 47028186
Vấn đề 8: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này?
I,Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
- Với các tính chất thể hiện trong tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng
của các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Sự tác động lẫn nhau này giúp cách sự vật được phản ánh với tính chất đa dạng trong thực
tế. Một sự vật được nhìn nhận theo các yếu tố tác động và những tác động nên yếu tố khác. -
Những phản ánh trên sự vật đều được giải thích và đều cần phải giải thích. Khi những nguyên
nhân luôn tồn tại và sự vật tác động lẫn nhau. Khi đó, việc nhìn nhận và đánh giá muốn mang
đến hiệu quả phải dựa trên những tính chất phản ánh đầy đủ nhất. Xác định đúng đắn mới mang
đến hiệu quả trong quan điểm thể hiện. Do đó mà tính chất toàn diện là tính chất cần thiết, quan trọng.
- Những nhìn nhận và đánh giá phải được xây dựng từ nhiều chiều. Nó giải thích cho những phản
ánh kết quả tồn tại trên thị trường. Những nguyên nhân được tìm ra có nguyên nhân trực tiếp hay
tác động không trực tiếp. Và phản ánh năng lực, khả năng và cái nhìn nhiều chiều của một chủ thể. II. Nguyên tắc -
Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện, phản ánh mối
liên hệ chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng đó; nhận thức
chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ
nhất sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức. -
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn; không viển vông, ảo tưởng
bởi mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ
phản ánh được mối liên hệ nào đó phù hợp với nhu cầu của con người nên nhận thức về sự vật, hiện
tượng cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được việc
tuyệt đối hoá những tri thức đã có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối mà không bổ sung, không
phát triển. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ
quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 47028186 -
Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến diện; nghĩa là trong thực
tiễn, phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay
đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải
nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết, tránh dàn trải. Nguyên tắc toàn
diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì trệ, bảo thủ.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật khác, giữa mối liên hệ
trực tiếp với gián tiếp.
Cái nhìn phiến diện không mang đến hiệu quả cho công tác thực hiện. Ngược lại còn có thể tạo ra những
nhận định hay quan điểm lệch lạc, cũng như mang đến các quyết định không đúng đắn cho mục tiêu của
thực hiện phản ánh quan điểm đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối liên hệ. -Cách
nhìn nhận trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trưng riêng biệt. Nó làm nên tính đa dạng
của chủ thể trong các thể hiện trên thực tế. Do đó mà việc quan tâm và phân tích từng yếu tố cũng được
thể hiện trên cơ sở của nó.
Cụ thể hơn đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ về
bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc. Đòi hỏi con người nắm
bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Những nhìn nhận mang đến phản ánh như
thế nào cho mức độ phù hợp hay cơ sở phát triển trong tương lai.
Hoặc những yếu tố biến động cũng có thể được đánh giá để mang đến nhận định cần thiết. Nó giúp cho
việc thực hiện các hoạt động tác động trên sự vật được tiến hành hiệu quả. Đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành
Vấn đề 9: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này?
I.Khái niệm phát triển
-Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh
hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Quan điểm siêu hình: lOMoAR cPSD| 47028186
+,Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng.
+,Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự thay đổi về mặt chất, không có
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
- Quan điểm biện chứng
+, Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật.
+,Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi. - Phân biệt :
+Tiến hóa : Một dạng của phát triển, diễn ra từ từ, là sự biến đổi hình thức của tồn tại từ đơn giản đến phức tạp.
+,Tiến bộ : Một quá trình biến đổi hướng tới cái thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
II,Tính chất của sự phát triển
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy luật khách quan chi phối mà cơ bản
nhất là quy luật mâu thuẫn
-Tính phổ biến : Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật, hiện tượng, mọi quá
trình và giai đoạn của chúng và kết quả là cái mới xuất hiện
-Tính phong phú,đa dạng : Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không hoàn toàn giống
nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động, biến đổi,
chuyển hóa nhằm phát hiện ra xu hướng biến đổi của nó.
- Biết phát hiện và ủng hộ cái mới; chống bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển, sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
- Nhận thức sự vật, hiện tượng trong tính biện chứng để thấy được tính quanh co, phức tạp của sự phát triển. lOMoAR cPSD| 47028186
Vấn đề 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái
riêng và cái đơn nhất. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong
học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân? I,Khái niệm
- Cái riêng” là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác. -
“Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”
- “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng”.
“Cái chung” không tồn tại biệt lập, tách rời “cái riêng” mà chỉ tồn tại trong “cái riêng”.
“Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.
“Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”.
“Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại
- “Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.
Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có nghĩa là cô lập với
những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại
này có liên hệ với những “cái riêng” của loại khác Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một
môi trường, hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia
vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại
khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn
đến một hoặc một số “cái chung” nào đó. Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.
Mỗi “cái riêng” sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi biến thành
một “cái riêng” khác. “Cái riêng” khác này lại biến thành “cái riêng” khác thứ ba…v.v., cứ như
vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả “cái riêng” đều có liên hệ lOMoAR cPSD| 47028186
với nhau. Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì
đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau.
- “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”
Do “cái chung” được rút ra từ “cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của “cái riêng”. Mặt
khác, bên cạnh những thuộc tính (cái chung) được lặp lại ở các sự vật khác, bất cứ “cái riêng”
nào cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ “cái riêng” đó mới có. Tức là, bất cứ
“cái riêng” nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”
- Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại
Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và “cái chung” biến thành “cái đơn nhất”
sẽ xảy ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định. Sở
dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà lúc
đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ
phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành “cái chung”.
III,Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”. Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua
“cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể
ngoài “cái riêng”. Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người
-Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái
riêng”:Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với
những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái
chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến. Tức là, luôn có sự khác biệt
một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia.
Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
- Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải
biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”, lOMoAR cPSD| 47028186
tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh. Ngược lại,
nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ
bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét
lại, bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh.
-Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng. Vì
“cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái
chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua
việc giải quyết những vấn đề chung. Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề
mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết
những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
- Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại. Vì
trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể
biến thành “cái chung” và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện
thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi. Ngược lại,
phải tìm cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái chung” không
còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
Vấn đề 11: Rút ra bài học cho bản thân sau khi nghiên cứu mối
quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. I, Khái niệm
- Khác với quan niệm của chủ nghĩa triết học trước đây, chủ nghĩa Mác cho rằng : -
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
-Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
-Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận thức
đầu tiên rất quan trọng, đó là sự vật hiện tượng không bao giờ là chính bản thân
nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự vật hiện tượng mới là nguyên nhân. lOMoAR cPSD| 47028186 II,Nội dung
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua lại:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
-Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng
cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác
động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
-Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
-.Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân Thứ ba:
Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả. -
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một
hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở thành
nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc,
tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
III,Phương pháp luận -
Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy
cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có
thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành
kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ
bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân,