Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước vào quá trình xây dựng

Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất công nhân quy định nội dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế  -  xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất công nhân của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, bộc lộ rõ nét. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
18 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước vào quá trình xây dựng

Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất công nhân quy định nội dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế  -  xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất công nhân của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, bộc lộ rõ nét. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

15 8 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46988474
VẬN DỤNG TƯỞNG HCM
VẬN DỤNG TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định rất rõ phương hướng đổi mới Nhà nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Phương hướng chung, khái quát này được cụ thể
hoá thành các nội dung chính sau đây:
- Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, từng bước xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đây là quan điểm chỉ đạo có tính nguyên
tắc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước.
- Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách đồng bộ, bao gồm cả cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất, có năng lực.
- Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của
nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- Củng cố, tăng cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức...
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất công nhân quy định nội
dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất công nhân
của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, bộc lộ rõ nét. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước gắn
liền với bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, cần quán triệt những
vấn đề có tính nguyên tắc sau.
Thứ nhất, xây dựng, tổ chức và hoàn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở các nguyên lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, áp dụng vào điều kiện, đặc điểm nước ta để
có hình thức và cơ chế vận hành thích hợp. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ làm biến dạng nhà nước, lu mờ bản
chất giai cấp và chệch hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng lý
luận để xây dựng mô hình nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động. Quan điểm có tính nguyên
tắc này được Hồ Chí Minh khẳng định vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, được Người quán triệt trong lãnh
đạo nhà nước suốt 24 năm và ngày nay vẫn là nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc số một bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Về mặt lịch sử, Đảng Cộng sản lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh giành chính quyền, sau đó trở thành Đảng cầm quyền. Chính quyền nhà nước ở
Việt Nam xét đến cùng là kết quả phấn đấu bền bỉ của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở thực hiện ý nguyện
của nhân dân và của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo Nhà nước của Đảng được quy định bởi các nhân tố lịch sử nhằm
lOMoARcPSD| 46988474
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc, đem đến cho nhân dân một cuộc sống “ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với Nhà nước dân chủ nhân dân”.
Thứ ba, thiết chế, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này
bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc tổ chức đặc thù của nhà nước kiểu mới. Thực chất của
nguyên tắc tập trung dân chủ được Hồ Chí Minh lý giải như sau: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ.
Thực hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trên đây sẽ duy trì và bảo đảm bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản đó vẫn chỉ đạo
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
XÂY DỰNG BỘ MÁY, ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC
5.1. Xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc
và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận lại có một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt động vì lợi ích
của nhân dân.
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
- Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc hội giải quyết những vấn đề
chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp luật, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài,
biểu quyết ngân sách, danh sách Thủ tướng và các Bộ trưởng.
- Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của
Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước.
- Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Trong quan niệm ca
mình, HồChí Minh rất chú ý mối quan hệ giữa chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy
thuộc ở việc xử lý mối quan hệ đó.
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt, phù hợp điều kiện lịch sử
trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự xơ cứng, trì trệ, giáo điều, rập khuôn. Có thể xem đó là chuẩn mực,
kiểu mẫu để tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, nền hành chính quốc gia giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức. Theo Người, “cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc;
công việc thành công hay thất bại do cán bộ quyết định. Vì thế, chất lượng, năng lực, hiệu lực của Nhà nước
phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đề cập
đến những nội dung cốt lõi cơ bản.
Quan điểm của Hồ Chí Minh xác định rõ tính cách chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức nghiệp.
lOMoARcPSD| 46988474
- Xây dựng hệ tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công chức
nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc. Người nhấn mạnh đến các tiêu
chuẩn trung thành và hăng hái, liên lạc mật thiết với quần chúng nhân dân, thạo việc, dám phụ trách giải quyết
những vấn đề trong lúc khó khăn, khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành
nghị quyết thì gan góc, kiên quyết.
Cán bộ công chức nhà nước phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tri thức và học
thức, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chính trị và khoa học, chấp hành đúng pháp luật. Nắm vững pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn luật pháp để
giải quyết đúng công việc hàng ngày là đòi hỏi không thể thiếu đối với cán bộ, công chức.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng người, tạo điều kiện cho nhân viên
phát huy được tài năng và phẩm chất của mình.
Xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, công chức nhà nước.
Đội ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt mục tiêu đó, Người đã xây dựng một
chế độ thi tuyển cán bộ, công chức vào các ngạch, bậc của ngành hành chính. Chế độ thi tuyển này rất chặt chẽ
về cách làm, hình thức và nội dung. Các môn thi bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử, địa lý, ngoại
ngữ. Nội dung từng môn thi phải căn cứ vào yêu cầu và thực tiễn cụ thể mà quy định nhằm mục đích tạo cho
cán bộ, công chức một nền tảng tri thức ổn định, đủ sâu, rộng để giải quyết vấn đề có liên quan đến quản lý đất
nước, xã hội. Kết quả kỳ thi phản ánh năng lực, trình độ chuyên môn của từng người, là căn cứ quan trọng để
tuyển chọn, bổ nhiệm.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân về tinh thần đoàn kết của dân
tộc
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, nhất là vào
những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh của đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người
dân thấy được tinh thần đoàn kết là vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp. Theo đó,
cần đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để mọi người được tham gia, phát
huy năng lực, sở trường, thế mạnh của mình; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có năng lực, phẩm chất uy tín về
đạo đức, lối sống được nhân dân kính trọng, nể phục; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trong tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng vào các phong trào thi đua do Đảng, Nhà
nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường của người dân, như gia đình
khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có điều kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân
thành đạt ủng hộ cho người nghèo, không có công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động,
thông qua hoạt động từ thiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay quyên góp cho nhân dân bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, hạn hán, dịch bệnh; xây dựng đức tính nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con
người trong hoạn nạn, khó khăn; theo từng địa phương, vùng, miền tổ chức phát động phong trào thi đua yêu
nước để gắn kết con người; xây dựng môi trường thi đua trong sáng, lành mạnh, phong phú, không có sự ganh
đua, cạnh tranh, đố kỵ, ganh ghét giữa con người với con người...
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua công tác tuyên truyền, giáo
dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao tinh thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc;
thông qua xây dựng những gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin
lOMoARcPSD| 46988474
truyền thông ở các địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực hành, nêu gương trước quần
chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn, đồng hành cùng với nhân dân
tham gia vào các hoạt động chung của xã hội
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu. Theo đó,
đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị, địa phương phải phát huy tốt vai trò, trách
nhiệm của mình là hạt nhân đoàn kết, bám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ
với khó khăn, vất vả của người dân, tuyệt nhiên không được khinh thường nhân dân, người lao động chân tay;
gắn việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với quá trình công tác của đội ngũ cán bộ các cấp để phát hiện,
xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ vi phạm nguyên tắc, Điều lệ, Cương lĩnh của
Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm”
để giải quyết các mối quan hệ, ứng xử, xây dựng tác phong gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bộ và giữa
cán bộ với nhân dân. Đó không chỉ góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đi vào thực tiễn cuộc sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội.
Kết luận
Trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rằng: “Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
8
.
Thông qua hình ảnh ví von ấy, Người muốn nhấn mạnh rằng, mỗi cán bộ Đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết vì
nó vô cùng thiêng liêng, cao cả. Tuyệt đối không gây mất đoàn kết trong Đảng, vì như vậy là tự mình làm hại
đến sức mạnh và truyền thống của Đảng. Do vậy, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải
giữ cho được đoàn kết, thống nhất từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, đó là sẽ là bảo bối quan trọng để chúng
ta vượt khó khăn, hoạn nạn, chiến thắng tất cả.
VẬN DỤNG TTHCM VỀ ĐOÀN KẾT, HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
VN HIỆN NAY
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc, nhất là tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời cơ thuận lợi
và khó khăn, thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá
trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế đạt kết quả, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ thế nào là “vận dụng”, thế nào là “phát triển”; đồng thời, cần nắm vững đối
tượng để “vận dụng” và “phát triển”. Vấn đề đặt ra đối với sự “vận dụng” là phải đúng đắn, sáng tạo; “phát
triển” cần bảo đảm tính kế thừa, đúng hướng. Phát triển là cập nhật nội dung mới, nâng tầm nội dung của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền và làm phong phú các nội dung nhằm mang lại
hiệu quả thiết thực trên không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến hiệu quả,
tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung tuyên truyền cần phù hợp với từng đối tượng trong xã hội, trong
đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ, như thanh, thiếu niên, sinh viên.
lOMoARcPSD| 46988474
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi
ích quốc gia, dân tộc.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế ở nước ta hiện nay phải
thống nhất hai mặt của mối quan hệ biện chứng: vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về
đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, để
ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của đất nước phù hợp với luật pháp
quốc tế. Một trong những yêu cầu then chốt nhằm bảo đảm môi trường hòa bình là phải luôn kiên trì, bình tĩnh,
sáng suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Đây là
“nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành ngoại giao là những người đi đầu”
(15)
.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn
hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các
hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với
các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và
hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng
tôn pháp luật. Tiếp tục duy trì các mối quan hệ với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và các nước
lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị,
thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu
nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”.
Di sản đường lối đối ngoại, trong đó có tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta là một kho tàng vô cùng quý giá. Vận dụng sáng tạo và hiệu quả tư tưởng của Người trong công
tác đối ngoại hiện nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ
nghĩa và hê thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kết hợp hài hòa, chặ t chẽ và có hiệ u quả giữa xây dựng
với  chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng và bảo vê Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới
phương  thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiên mới”.
Trước hết, phải xây dựng Đảng vng mạnh về chính trị. Kiên định lâp trường, quan điểm và nguyên tắc theo lý
tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hôi. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng,  đấu tranh không khoan nhượng với những quan điểm sai trái, xuyên tạc, chống đối của các thế lực thù
địch, giữ vững niềm tin khoa học, đạo đức trong sáng và bản lĩnh chính trị vững vàng, không cho phép ai được
ngả nghiêng, dao đông. Đây là bảo đảm tối cần thiết để định hướng xã hộ i chủ nghĩa của sự nghiệ p đổi
mới được  giữ vững và phát huy, không rơi vào chêch hướng, vượt qua nguy cơ, thách thức đối với Đảng cầm
quyền. Hơn  lúc nào hết, trong bối cảnh và tình hình phức tạp hiên nay, việ c nâng cao tiềm lực tư tưởng, trí tuệ
và bản lĩnh  của Đảng đòi hỏi phải gắn liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị với tư tưởng và đạo đức.
Viêc nhấn  mạnh, tâp trung xây dựng Đảng về đạo đức bao hàm ý nghĩa coi đây là khâu độ t phá, phải ra
lOMoARcPSD| 46988474
sức nâng cao nhậ n  thức và thực hành đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, nhất là tinh thần trách nhiêm
và nêu gương, đó là sức  mạnh để phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hai là, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự là khâu then chốt thì phải ra sức xây dựng Đảng về t
chức và
cán bô, nhất là đô i ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh
dám  nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách nhiêm. Đảng ta coi đây là “then chốt của then chốt”, như Chủ
tịch  Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “cán bô là cái gốc của mọi công việ c”, “đào tạo, huấn luyệ n cán
bộ là công việ c  gốc của Đảng”. Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức và cán bô thực sự có hiệ
u quả, tạo chuyển biến mạnh  mẽ về mọi mặt vào lúc này, Đảng cần tâp trung nỗ lực và hành độ ng đồng bộ
, quyết liệ t trong đổi mới thể chế,  tăng cường kỷ luât, kỷ cương, thực hành dân chủ rộ ng rãi, thực
chất trong Đảng; nhất là tuân thủ nghiêm ngặ t  nguyên tắc tâp trung dân chủ và thường xuyên kiểm tra,
giám sát, kỷ luậ t Đảng dựa trên Điều lệ Đảng. Trách  nhiêm và nêu gương là sức mạnh, sự lan tỏa
tính thuyết phục của Đảng đối với Nhân dân. Chức vụ càng cao,  trách nhiêm càng lớn, càng phải chú trọng sự
nêu gương, nhất là gương mẫu về đạo đức.
Ba là, để thực hiên lời dạy của Bác  “Đảng là đạo đức, là văn minh”, phải ra sức đưa các giá trị văn hóa vào
trong chính trị, trong đời sống của Đảng và Nhà nước vào hoạt đông của các t
chức, đoàn thể trong hệ
thống  chính trị. Quyết tâm của Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diên, hệ thống chính
trị cũng phải  trong sạch, vững mạnh. Có như vây mới có sức mạnh tổng hợp đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, tệ
nạn và tiêu cực
xã hôi. Điều đó chỉ có thể thực hiệ n được bằng sức mạnh nộ i sinh từ văn hóa.
Phải tâp trung mọi nỗ lực trong Đảng với sự tham gia xây dựng Đảng của toàn dân để xây dựng Đảng về văn 
hóa, xây dựng văn hóa của Đảng cầm quyền. Do vậy, cần phải làm cho hình tượng văn hóa của Đảng Công sản 
cầm quyền là tiêu biểu cho văn hóa, tinh hoa văn hóa của dân tôc và thời đại mà Văn hóa Hồ Chí Minh là mộ
t  mẫu mực điển hình. Đạo đức là cốt lõi của văn hóa cho nên trong Đảng phải thường xuyên đẩy mạnh giáo
dục, thực hành văn hóa, chú trọng giáo dục trong toàn Đảng về phẩm giá, lòng tân tụy, danh dự, liêm sỉ. Nói
như Hồ  Chí Minh: phải dùng văn hóa để chữa thói phù hoa, xa xỉ, tham nhũng. Cần phải coi đây là nhiêm vụ
cơ bản, lâụ dài, có tầm chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, mối liên hê máu thịt gia Đảng với Dân là bảo đảm cho sự nuôi dưng và phát triển bền vng cơ sở xã 
hôi quan trọng bậ c nhất của Đảng
, đó là lòng dân, sức dân, niềm tin và sự ủng hô của nhân dân với
Đảng, là cộ ị nguồn sức mạnh bảo vê Đảng. Do đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đặ c biệ t chú trọng
công tác dân vậ n.  Không tẩy sạch thói “xem khinh dân vân” như Hồ Chí Minh từng phê phán từ hơn 70
năm trước thì Đảng  không thể là Đảng chân chính cách mạng trong lòng dân. Dân vân phải gắn liền với dân
chủ, đoàn kết và tạo ra  sự đồng thuân. Người căn dặ n chúng ta phải nêu cao quyết tâm, giữ được tín
tâm, có sức hấp dẫn, thu hút lớn  bởi sức mạnh đồng tâm từ Đảng tới Dân. Nâng cao chất lượng, hiêu quả công
tác dân vậ n, đó là mộ t trong  những thước đo của xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho sự hài lòng của
người dân đối với cán bô đảng viên  tăng lên, làm cho niềm tin của Dân với Đảng được củng cố. Đó là môt
trong những bí quyết của thành công  theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Năm là, phát triển Đảng, làm tăng sinh lực của Đảng t thế hê tr , nhất là trong lực lượng vũ trang, trong
thanh niên trí thức, phát triển số lượng đi liền với nâng cao chất lượng, nhất là về đạo đức. Đó là công viêc quan
trọng
không được xem nhẹ trong xây dựng Đảng, đảm bảo tính kế thừa thế hê, tính liên tục từ truyền thống đến
hiệ n  đại trong lịch sử Đảng ta.
Làm tốt những vấn đề trên là trách nhiêm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng 
hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Đảng ngang tầm nhiệ m vụ, xứng đáng là mộ t Đảng
chân chính  cách mạng, lãnh đạo và cầm quyền.
lOMoARcPSD| 46988474
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Nền văn hóa, con người Việt Nam hiện đại là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
làm động lực cho sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế và phát triển con người toàn diện. Để vận dụng
được những yếu tố cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại; làm cho văn hóa trở thành động lực khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng đất nước Việt Nam hùng
cường, cần phải thực hiện có hiệu quả những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc
tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường
văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú
ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
hiện đại là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo. Tại Đại
hội XIII, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, lần đầu tiên Đảng ta nêu yêu cầu: “Từng bước
vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện đại càng phải vận dụng
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Giữ gìn và phát huy vốn
văn hóa quý báu của dân tộc, kế thừa những truyền thống tốt đẹp, đồng thời vận động Nhân dân xóa bỏ các tập
tục lạc hậu. Bên cạnh đó, cần có biện pháp hạn chế việc du nhập văn hóa một cách quá đà, thiếu chọn lọc dẫn
đến tình trạng “sùng ngoại” không còn thiết tha với văn hóa truyền thống trong nước. Với quan điểm dân tộc và
hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải
xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức; con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn
hóa nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn
hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa
mà chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà
xây dựng đời sống mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong
kiến quốc, luôn luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân tài, biết quý
trọng, tin cậy hiền tài.
Hai là, phát triển văn hóa gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là một bộ phận của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh nhận thức tư duy, hành vi cho mỗi cá nhân và cả xã hội, văn hóa
phải được gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế, xã hội; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Một mặt, văn
hóa chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, văn hóa có tác động trở lại to lớn đến kinh tế và
chính trị. Chính vì thế, mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội; mỗi bước của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là một bước để củng cố, giữ gìn, phát huy và phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong đó, phải nâng cao nhận thức, làm cho mọi người mà đặc biệt
là thế hệ trẻ hiểu đầy đủ nhất về các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, từ đó tuyên
truyền, phát triển và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước tình hình mới, trước sự tác động từ mặt trái
nền kinh tế thị trường.
lOMoARcPSD| 46988474
Ba là, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại va là mục tiêu, va là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, Đảng ta xác định cần có cơ chế, chính sách, giải pháp
để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của Nhân
dân. Đồng thời, thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”; chú trọng phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng môi
trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực sự là “định hướng giá trị” để: “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường
và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa
dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế.
Hiện nay, những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của
dân tộc. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam hiện đại,
cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào thực tiễn cách mạng nước ta, đồng thời
tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tiên tiến, khoa học, đại chúng, kiên quyết loại bỏ những hủ tục, tàn
dư, những sản phẩm phản văn hóa, sản phẩm độc hại từ bên ngoài để xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh
thần của xã hội, là sức mạnh góp phần phát triển bền vững đất nước.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀO NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng để hình thành người công dân tốt, do đó, giáo dục đạo đức có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành đạo đức, nhân cách con người. Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần
thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong thời gian tới, cần kế thừa, vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào thực hiện tốt một số định hướng nhằm
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân như sau:
Một là, thống nhất nhận thức và quán triệt sâu sắc về tầm quan trọng và nội dung của giáo dục đạo đức trong
toàn Đảng, toàn dân
Cần nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, đặc biệt là trong bối
cảnh có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân như
hiện nay. Trước hết, cần nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục đạo đức trong việc đào tạo các thế hệ
công dân ưu tú cho đất nước; tiếp đó là thống nhất nội dung giáo dục đạo đức phải bao gồm toàn diện các phẩm
chất như: Nhân, Dũng, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Đồng thời, phải đặt giáo dục đạo đức
trong mối quan hệ mật thiết với trí dục, thể dục, mỹ dục... nhằm hun đúc các thế hệ công dân Việt Nam phát
triển toàn diện về mọi mặt. Việc thống nhất và quán triệt quan điểm giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh phải
được thực hiện trên cơ sở thống nhất cao độ, theo tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, cùng
nỗ lực thực hiện một cách tốt nhất.
Hai là, chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng trong đ
i mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay.
Vì đạo đức là gốc, là cơ sở, nền tảng để hình thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, nên trong quá trình
lOMoARcPSD| 46988474
đổi mới giáo dục và đào tạo, cần coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng. “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, năng
lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo
dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam” như
Đại hội XIII đã xác định, để đào tạo các thế hệ công dân phát triển toàn diện, hội đủ đức và tài, vừa hồng vừa
chuyên, bản lĩnh chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, cả phẩm chất và kỹ năng.
Trong quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phải chú ý việc tạo môi trường thuận lợi cho
giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng, trong quá
trình đổi mới giáo dục và đào tạo, phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo dục trong nhà trường rất quan trọng, nhưng giáo dục của gia đình và xã hội cũng tác động rất lớn đến quá
trình hình thành, nâng cao đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Giáo dục trong nhà trường dù tốt
mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Ba là, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, giảng viên,
cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưng, nhằm tạo điều kiện, tiền đề, động lực thúc đẩy
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân đạt hiệu quả
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, trước hết phải nâng cao đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên phải
chuẩn mực, gương mẫu để quần chúng nhân dân noi theo.
Cần đặc biệt quan tâm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục như giáo viên,
giảng viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng. Tấm gương đạo đức sáng ngời của đội
ngũ này có khả năng thuyết phục, tạo động lực to lớn đối với người học trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện.
Người giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục không chỉ cần trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, thấm nhuần đạo đức cách mạng và luôn nêu gương tốt.
Như vậy, cùng với giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; phải xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành
nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI, SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm
2016 - 2020, đó là “xây dựng con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đây là một bước tiến quan trọng của Đảng ta không chỉ coi trọng
phát triển con người về mặt nhận thức, về mặt lý luận, mà còn biến thành nhiệm vụ cụ thể và hoạt động thực
tiễn. Căn cứ để đưa ra nhiệm vụ tổng quát dựa trên sự đúc kết những giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng tạo điều kiện để con
người giai đoạn hiện nay phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, tâm hồn, trách nhiệm xã
hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật một cách toàn diện. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý
thức tự hào dân tộc, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi những hành vi sai trái, tiêu
cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người, sự xuống cấp về đạo đức xã hội, để xây
dựng thành công một xã hội tốt đẹp, văn minh và phát triển.
lOMoARcPSD| 46988474
Thứ hai, gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con người.
Đại hội XII của Đảng khẳng định chủ trương gắn việc xây dựng văn hóa, con người với xây dựng và phát triển
đất nước. Đây là bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực phát triển con người sau 30 đổi mới.
Đại hội XII khẳng định phương hướng phát triển văn hóa là: “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người... Gắn
nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”(8), bởi vì con người vừa
là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình sáng tạo ra. Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, nói tới văn hóa là nói tới con người, con người giữ gìn phát huy giá trị văn
hóa, nhưng chính con người cũng có thể làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn hóa. Cho nên, việc xây dựng, phát
triển văn hóa không thể tách khỏi xây dựng, phát triển con người. Qua cách diễn đạt này, Đảng đã khẳng định
và nhấn mạnh vấn đề trọng tâm, cốt lõi của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện với nhân cách, lối sống, đạo đức tốt đẹp.
Thứ ba, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong sáu nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại
hội XII.
Ở nhiệm vụ thứ ba, về tập trung các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, Đảng ta yêu cầu tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, trong đó có: “Phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan điểm nguồn nhân lực là vốn quý của đất nước, trong nhiệm vụ thứ năm, Đại hội XII của Đảng xác
định: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân”. Khi đề cập tới vấn đề đạo đức,
lối sống, nhân cách của con người để xây dựng con người phát triển toàn diện, trong nhiệm vụ thứ sáu, Đảng ta
khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người
về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”. Việc cụ thể hóa những yêu cầu trong xây dựng và
phát triển con người toàn diện là thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn,
của quá trình hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của đời sống và
sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc
về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản
xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao động phát triển cả đạo đức và nhân cách.
Đó là đạo đức trung thực, đạo đức trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo đức cách mạng là
sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó
đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã hội mới, là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi
mới đất nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG TA “LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” - GIÁ TRỊ VẬN DỤNG
TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng
của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm
lOMoARcPSD| 46988474
lái có vững thì thuyền mới chạy. Cương lĩnh của Đảng khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một trong 5 quan điểm chỉ
đạo, đó là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”
(14)
. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay cần tập trung vào một số nội
dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - -nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xao
nhãng, lười biếng, ngại học tập là một khuyết điểm rất lớn, “khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác
mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã răn dạy. Phải chữa cái bệnh chủ quan
mà nguyên nhân là kém lý luận, khinh lý luận hoặc lý luận suông; đồng thời, phải bỏ tư tưởng học để lấy bằng
cấp. Lý luận phải thống nhất với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Đảng phải luôn luôn quán triệt quan điểm “theo đúng đường lối nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều lần chỉ dạy. Đảng phải quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tài sản lớn nhất, có giá trị nhất của Đảng là lòng dân. Xác định sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân là thước đo quan trọng nhất của một đảng đạo đức, văn minh.
Thứ ba, để Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” thì mỗi cán bộ, đảng viên phải là những người đạo đức, văn minh.
Với trọng trách là những người ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, mỗi
cán bộ, đảng viên phải tu thân, chính tâm, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực
trí tuệ, bản lĩnh, trau dồi, rèn luyện, bồi dưỡng phong cách gần gũi quần chúng, dân chủ, nêu gương trong công
việc; phải hằng ngày, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị;
trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân.
TTHCM VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương
Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với
nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương
con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho
những người cùng khổ.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ
hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ
trong tấm lòng nhân ái của Người.
lOMoARcPSD| 46988474
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung
của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng
phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không
phải đập cho tơi bời".
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình;
phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của
Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu
tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng
mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình
và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những
người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu
nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn
luyện của mỗi người.
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước
quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống.
lOMoARcPSD| 46988474
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành
mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao
đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc
“nội xâm” phá từ trong ra.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu
được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong
cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức
bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho
cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi
đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người.
Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành
sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng
mới.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm của Người về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đạo
đức đối với con người, xã hội và đối với cán bộ, đảng viên; những nội dung cơ bản về đạo đức mới, đạo đức
cộng sản, đạo đức cách mạng và hệ thống chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới để
cán bộ, đảng viên tự phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một tình cảm rộng lớn, cảm thông sâu sắc với mọi
khổ đau, bất hạnh của nhân loại, trước hết dành cho đồng bào, đồng chí của mình, cho đến những người cùng
khổ thuộc mọi màu da trên thế giới, người dân nô lệ bị mất nước, những người lao động bị áp bức, bốc lột, bất
công; đó là lòng thương yêu vô hạn đối với con người; đồng thời thể hiện mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với
mọi người bình thường trong quan hệ hằng ngày. Người luôn nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác;
có thái độ trân trọng con người, nâng đỡ con người sống tốt hơn và luôn quan tâm đến công tác, đời sống của
từng đồng chí; việc ăn, ở, học hành, giải trí của từng người dân.
Tư tưởng về đạo đức yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi đường cho Đảng và Nhân dân
Việt Nam trên con đường xây dựng mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đã và
đang khơi dậy được sự ngưỡng mộ, lòng biết ơn, quyết tâm học tập, rèn luyện và làm theo của các thế hệ cách
mạng, của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta về đạo đức yêu thương con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 46988474
VẬN DỤNG TTHCM VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Trong bối cảnh hiện nay, cách mạng giải phóng dân tộc chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác chính là tiến tới hiện thực hoá quan điểm xây dựng đất nước với phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng.
Từ quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và những thắng lợi đạt được của quá trình hiện
thực hoá tư tưởng ấy, trong công cuộc bảo vệ, đổi mới toàn diện đất nước hiện nay cần nắm vững một số kinh
nghiệm sau:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường.
Thứ hai, luôn lấy dân là gốc, con người là mục tiêu và là động lực của mọi sự phát triển. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là
người làm nên lịch sử; quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp
cách mạng, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thứ tư, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, phù hợp thực
tiễn và đặt lợi ích quốc gia dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN 2. Nêu gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
Một là, nêu gương về mục đích sống và động cơ tranh đấu.
Người nêu gương suốt đời hy sinh vì dân, luôn ý thức rằng, từ Chủ tịch Chính phủ đến nhân viên trong các công
sở cũng chỉ là người đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân, chỉ như một người lính vâng lệnh quốc dân
đồng bào ra trận. Chính phủ là chính phủ của dân nên phải là một chính phủ hành động, công tâm, liêm chính.
Chương trình của Chính phủ phải làm ngay những việc cấp bách, “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở và được học hành”. Vì dân mà phải chọn nhân tài giúp nước, chọn người đúng và giao việc
đúng. Dựa vào dân để dân giúp đỡ, dân đi tìm nhân tài, hiền tài ra giúp nước. Cũng không có chính phủ nào như
Chính phủ của Chủ tịchHồ Chí Minh lúc bấy giờ, Người đã trực tiếp gửi thư cho đồng bào toàn quốc để nhờ
đồng bào giới thiệu, tiến cử nhân tài, để Chính phủ trọng dụng.
Đức nêu gương về mục đích sống và động cơ tranh đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh và tỏa sáng trong
bản văn Di chúc mà Người để lại, có giá trị trường tồn.
Hai là, nêu gương về thái độ tôn trọng dân, phát huy dân chủ và đức khiêm tốn.
Lý tưởng tranh đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, đưa dân ta thoát ra khỏi tình cảnh nô lệ,
đạt tới độc lập tự do và nhân dân ở địa vị của người chủ và làm chủ. Tôn trọng nhân dân, Người có niềm tin
mãnh liệt vào vai trò sáng tạo của nhân dân trong tư cách chủ thể. Sức mạnh đoàn kết của toàn dân là sức mạnh
chiến thắng mọi cường quyền, đánh bại mọi thế lực ngoại xâm, dù chúng là “những đế quốc to”. Đó còn là sức
mạnh để “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”, đánh thắng cả nghèo nàn lạc hậu, xây dựng nước nhà
cường thịnh.
Ba là, nêu gương thực hành đoàn kết, đại đoàn kết, nêu cao tinh thần đại nghĩa, đoàn kết trên cơ sở dân
chủ, hướng tới đồng thuận, nêu cao đồng tâm, đồng ý, đồng chí, đồng lòng để đồng hành, đưa sự nghiệp
cách mạng vượt qua mọi gian nan thử thách, hy sinh đi tới thắng lợi.
lOMoARcPSD| 46988474
Người nêu gương đoàn kết, nhất trí trong Đảng, “từ Trung ương tới chi bộ, như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”, từ đoàn kết trong nước, trong Đảng, trong dân đến đoàn kết quốc tế, Người đau nỗi đau về sự bất đồng,
bất hòa. Người tin rồi tất cả các Đảng anh em, các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại. Người căn dặn
Đảng ta phải làm hết sức mình để củng cố tình đoàn kết giữa các Đảng anh em, các nước anh em trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, có lý, có tình.
Nêu gương đoàn kết, đại đoàn kết, Người đã trở thành biểu tượng kiệt xuất của tình đoàn kết chiến đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, vì đại nghĩa, phải tinh thần đoàn kết,
phải quang minh chính đại. Người quan niệm chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giữ vững nguyên tắc, linh hoạt mềm dẻo trong phương pháp, khôn ngoan sáng suốt trong sách lược, tất cả
vì mục đích và lý tưởng của sự nghiệp cách mạng - đó là cơ sở để thực hành đoàn kết và đồng thuận trong
Đảng, trong dân, trong nước và quốc tế. Cái đích cao nhất là hòa bình, là độc lập tự do, ấm no và hạnh phúc cho
nhân dân.
Bốn là, nêu gương về phương pháp và phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, chu đáo, lãnh đạo và quản
lý dựa trên các chuẩn mực dân chủ, khoa học, luật pháp, kỷ cương và sự gương mẫu về đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Theo Người, gương mẫu đó là cách lãnh đạo tốt nhất, hợp lòng dân nhất. Cả cuộc đời Người đã thực hành nêu
gương sáng đó. Người thường chủ trương nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm. Phong cách Hồ Chí Minh
không chỉ khoa học trong tư duy, nói và viết ngắn gọn, giản dị, sâu sắc, làm việc luôn luôn đúng giờ, giữ đúng
nề nếp, hài hòa… mà còn là hết sức tinh tế thuộc về văn hóa với những sắc thái độc đáo của triết lý và minh
triết mang dấu ấn Hồ Chí Minh:
- Nhà triết học vô ngôn.
- Nhà tư tưởng ở bậc hiền triết.
- Nhà chính khách, lãnh tụ với những thông điệp không lời…
Năm là, nêu gương ứng xử tinh tế, thực hành lối ứng xử thấm nhuần văn hóa khoan dung.
Đây là tổng hợp tất cả tư tưởng - đạo đức và phong cách của Người trong công việc, trong quan hệ con người,
trong cư xử với anh em, đồng chí, bạn bè, cả trong nước và quốc tế, nhất là trong quan hệ với nhân dân.
Tấm gương ấy toát lên một vẻ đẹp cao quý của nhân cách Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn Hồ
Chí Minh. Người còn thấm nhuần chất nhân bản, vĩ nhân mà vẫn rất con người, con người của mọi con người
đời thường. Giản dị, hồn nhiên, chân thành, lịch thiệp, tinh tế, con người mang tầm vóc vĩ nhân, hình ảnh của
dân tộc, lương tâm, khí phách của dân tộc và thời đại (lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng).
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần thấm nhuần những điểm đặc sắc đó trong
văn hóa nêu gương của Người.
VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO TTHCM VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VN
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nội dung cơ bản, cốt lõi,
thể hiện sự sáng tạo rất lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng, quán triệt lý luận Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải không ngừng
bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở bảo
đảm các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với đặc điểm của dân
tộc, với xu thế của thời đại.
lOMoARcPSD| 46988474
Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có những bước
tiến mạnh mẽ trong nhận thức tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều đó
được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ quan
niệm của Đảng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng, trong đó mục tiêu bao trùm (đặc
trưng tổng quát), thể hiện bản chất của chế độ là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(19).
Thực tế công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rằng, chính nhờ đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta mà trước tình hình các nước
XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam vẫn kiên định và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện và đặt ra yêu cầu mới cần phải nhận thức
đúng đắn, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội, nhằm tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng. Thực chất của công cuộc đổi mới là “chống
lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, là tìm tòi phương thức (con đường)
xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam hiện nay “Tình hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới,
phương châm mới, sách lược mới… Trước tình hình mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ”.
Trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải nắm vững mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội; nắm vững tinh thần và
phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm tòi, phát hiện ra những quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam, sáng tạo ra những nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện của
đất nước và xu thế của thời đại; biến mục tiêu, lý tưởng của Người từng bước trở thành hiện thực trên đất nước
ta.
ĐỂ XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỰC SỰ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, BẢO
ĐẢM QUẢN LÝ THỐNG NHẤT, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CẦN PHẢI LÀM GÌ?
Để xây dựng nền hành chính nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực,
hiệu quả, cần phải:
Thứ nhất, đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật,
nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ có hiệu quả giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ hai, tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hoá nền hành
chính quốc gia.
Thứ ba, tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ, nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô, nhất là chất lượng quy
hoạch, xây dựng thể chế, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
Thứ tư, tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập
mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền, sát thực tế, hiệu lực,
hiệu quả.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và những định hướng phát
triển, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng
cao năng lực của từng cấp, từng ngành. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
lOMoARcPSD| 46988474
Thứ bảy, đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai
trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục
hành chính; giảm mạnh các thủ tục hiện hành.
Thứ tám, công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Tăng cường
tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ.
Thứ chín, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà
nước các cấp.
VẬN DỤNG ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Một là, kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngng nâng cao bản
lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lãnh đạo cách mạng, trước hết phải xác lập được đường lối chính trị đúng đắn. Đó là nhân tố quan trọng
để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, điều kiện tiên quyết đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy,
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Mặt khác, lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng cũng chứng minh, khi nào Đảng ta chậm đổi mới tư duy, giáo
điều, rập khuôn máy móc trong vận dụng lý luận hoặc kinh nghiệm nước ngoài, lúc đó cách mạng gặp khó khăn
tổn thất. Do đó, “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực
tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra”.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, t
chức và cán bộ.
Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng, bảo vệ nền tảng của Đảng, nâng cao trí tuệ của Đảng. Theo đó, Đảng
nhất thiết phải là một tổ chức tiêu biểu về trí tuệ của dân tộc. Đảng phải là lực lượng đủ trí tuệ để giải quyết kịp
thời những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, đưa ra những luận cứ khoa học và cách mạng làm đường hướng cho sự
phát triển của đất nước, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phải biết phát huy trí tuệ của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Trí tuệ của Đảng phải thể hiện
ở năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo sáng suốt, cùng năng lực dự báo các khả năng và triển vọng phát triển
của đất nước, của quốc tế.v.v.
Xây dựng Đảng về chính trị được biểu hiện tập trung ở đường lối, chủ trương và hệ thống nghị quyết của Đảng
phải mang tính khoa học, tính thực tiễn cao để lãnh đạo đất nước đi lên. Xây dựng Đảng về chính trị còn được
biểu hiện ở mục đích và lập trường của một đảng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn chúng ta
không bao giờ được quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Lập trường kiên định của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ là sự thấm nhuần những tư tưởng trên để xây dựng bộ máy Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; là xây dựng văn hóa tự phê bình và phê bình, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh, tự giác, góp
phần tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ; quản lý chặt chẽ
đảng viên. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành hình mẫu, nét đẹp của “văn hóa
công vụ”, “văn hóa trách nhiệm”, xứng đáng với vị trí vừa là người lãnh đạo xã hội, vừa là “người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”.
Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, thực hành văn hóa nêu gương, văn hóa gần dân, văn hóa trọng
dân.
lOMoARcPSD| 46988474
Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng “nền gốc” tinh thần vững chắc của Đảng, là xây dựng sức mạnh nội
sinh của cách mạng. Trong đó, “gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh
đạo của Đảng”. Do vậy, sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng chính là xây dựng Đảng
về đạo đức. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị phải luôn làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, mọi việc;
nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều để quần chúng noi theo.
Cùng với đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, cho Nhân dân tin tưởng, ủng
hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng.
Bốn là, tiếp tục đ
i mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, bằng giáo dục và thuyết phục chứ không phải bằng áp đặt
mệnh lệnh hành chính, quan liêu. Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhưng không chuyên quyền, độc đoán, không rơi
vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc
dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân. Vì vậy, phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Năm là, tích cực đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta phải luôn kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội,
thực dụng, phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ cương lĩnh, đường lối, bảo vệ vững chắc chế độ xã
hội chủ nghĩa và Tổ quốc Việt Nam. Kiên quyết phê phán, bác bỏ những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc
về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, phải trên cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn tính chất,
hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46988474
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định rất rõ phương hướng đổi mới Nhà nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Phương hướng chung, khái quát này được cụ thể
hoá thành các nội dung chính sau đây:
- Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, từng bước xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đây là quan điểm chỉ đạo có tính nguyên
tắc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
- Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách đồng bộ, bao gồm cả cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất, có năng lực.
- Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của
nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- Củng cố, tăng cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức...
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất công nhân quy định nội
dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất công nhân
của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, bộc lộ rõ nét. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước gắn
liền với bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, cần quán triệt những
vấn đề có tính nguyên tắc sau.
Thứ nhất, xây dựng, tổ chức và hoàn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở các nguyên lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, áp dụng vào điều kiện, đặc điểm nước ta để
có hình thức và cơ chế vận hành thích hợp. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ làm biến dạng nhà nước, lu mờ bản
chất giai cấp và chệch hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng lý
luận để xây dựng mô hình nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động. Quan điểm có tính nguyên
tắc này được Hồ Chí Minh khẳng định vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, được Người quán triệt trong lãnh
đạo nhà nước suốt 24 năm và ngày nay vẫn là nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc số một bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Về mặt lịch sử, Đảng Cộng sản lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh giành chính quyền, sau đó trở thành Đảng cầm quyền. Chính quyền nhà nước ở
Việt Nam xét đến cùng là kết quả phấn đấu bền bỉ của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở thực hiện ý nguyện
của nhân dân và của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo Nhà nước của Đảng được quy định bởi các nhân tố lịch sử nhằm lOMoAR cPSD| 46988474
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc, đem đến cho nhân dân một cuộc sống “ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với Nhà nước dân chủ nhân dân”.
Thứ ba, thiết chế, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này
bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc tổ chức đặc thù của nhà nước kiểu mới. Thực chất của
nguyên tắc tập trung dân chủ được Hồ Chí Minh lý giải như sau: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ.
Thực hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trên đây sẽ duy trì và bảo đảm bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản đó vẫn chỉ đạo
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
XÂY DỰNG BỘ MÁY, ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC
5.1. Xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc
và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận lại có một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của nhân dân.
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: -
Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc hội giải quyết những vấn đề
chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp luật, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài,
biểu quyết ngân sách, danh sách Thủ tướng và các Bộ trưởng. -
Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của
Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước. -
Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Trong quan niệm của
mình, HồChí Minh rất chú ý mối quan hệ giữa chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy
thuộc ở việc xử lý mối quan hệ đó.
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt, phù hợp điều kiện lịch sử
trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự xơ cứng, trì trệ, giáo điều, rập khuôn. Có thể xem đó là chuẩn mực,
kiểu mẫu để tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, nền hành chính quốc gia giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức. Theo Người, “cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc;
công việc thành công hay thất bại do cán bộ quyết định. Vì thế, chất lượng, năng lực, hiệu lực của Nhà nước
phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đề cập
đến những nội dung cốt lõi cơ bản.
Quan điểm của Hồ Chí Minh xác định rõ tính cách chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức nghiệp. lOMoAR cPSD| 46988474
- Xây dựng hệ tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công chức
nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc. Người nhấn mạnh đến các tiêu
chuẩn trung thành và hăng hái, liên lạc mật thiết với quần chúng nhân dân, thạo việc, dám phụ trách giải quyết
những vấn đề trong lúc khó khăn, khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành
nghị quyết thì gan góc, kiên quyết.
Cán bộ công chức nhà nước phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tri thức và học
thức, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chính trị và khoa học, chấp hành đúng pháp luật. Nắm vững pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn luật pháp để
giải quyết đúng công việc hàng ngày là đòi hỏi không thể thiếu đối với cán bộ, công chức.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng người, tạo điều kiện cho nhân viên
phát huy được tài năng và phẩm chất của mình.
Xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, công chức nhà nước.
Đội ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt mục tiêu đó, Người đã xây dựng một
chế độ thi tuyển cán bộ, công chức vào các ngạch, bậc của ngành hành chính. Chế độ thi tuyển này rất chặt chẽ
về cách làm, hình thức và nội dung. Các môn thi bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử, địa lý, ngoại
ngữ. Nội dung từng môn thi phải căn cứ vào yêu cầu và thực tiễn cụ thể mà quy định nhằm mục đích tạo cho
cán bộ, công chức một nền tảng tri thức ổn định, đủ sâu, rộng để giải quyết vấn đề có liên quan đến quản lý đất
nước, xã hội. Kết quả kỳ thi phản ánh năng lực, trình độ chuyên môn của từng người, là căn cứ quan trọng để tuyển chọn, bổ nhiệm.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân về tinh thần đoàn kết của dân tộc
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, nhất là vào
những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh của đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người
dân thấy được tinh thần đoàn kết là vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp. Theo đó,
cần đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để mọi người được tham gia, phát
huy năng lực, sở trường, thế mạnh của mình; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có năng lực, phẩm chất uy tín về
đạo đức, lối sống được nhân dân kính trọng, nể phục; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trong tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng vào các phong trào thi đua do Đảng, Nhà
nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường của người dân, như gia đình
khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có điều kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân
thành đạt ủng hộ cho người nghèo, không có công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động,
thông qua hoạt động từ thiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay quyên góp cho nhân dân bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, hạn hán, dịch bệnh; xây dựng đức tính nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con
người trong hoạn nạn, khó khăn; theo từng địa phương, vùng, miền tổ chức phát động phong trào thi đua yêu
nước để gắn kết con người; xây dựng môi trường thi đua trong sáng, lành mạnh, phong phú, không có sự ganh
đua, cạnh tranh, đố kỵ, ganh ghét giữa con người với con người...
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua công tác tuyên truyền, giáo
dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao tinh thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc;
thông qua xây dựng những gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin lOMoAR cPSD| 46988474
truyền thông ở các địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực hành, nêu gương trước quần chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn, đồng hành cùng với nhân dân
tham gia vào các hoạt động chung của xã hội
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu. Theo đó,
đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị, địa phương phải phát huy tốt vai trò, trách
nhiệm của mình là hạt nhân đoàn kết, bám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ
với khó khăn, vất vả của người dân, tuyệt nhiên không được khinh thường nhân dân, người lao động chân tay;
gắn việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với quá trình công tác của đội ngũ cán bộ các cấp để phát hiện,
xử lý kịp thời theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ vi phạm nguyên tắc, Điều lệ, Cương lĩnh của
Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm”
để giải quyết các mối quan hệ, ứng xử, xây dựng tác phong gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bộ và giữa
cán bộ với nhân dân. Đó không chỉ góp phần đưa nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đi vào thực tiễn cuộc sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội. Kết luận
Trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rằng: “Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” 8.
Thông qua hình ảnh ví von ấy, Người muốn nhấn mạnh rằng, mỗi cán bộ Đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết vì
nó vô cùng thiêng liêng, cao cả. Tuyệt đối không gây mất đoàn kết trong Đảng, vì như vậy là tự mình làm hại
đến sức mạnh và truyền thống của Đảng. Do vậy, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải
giữ cho được đoàn kết, thống nhất từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, đó là sẽ là bảo bối quan trọng để chúng
ta vượt khó khăn, hoạn nạn, chiến thắng tất cả.
VẬN DỤNG TTHCM VỀ ĐOÀN KẾT, HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VN HIỆN NAY
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc, nhất là tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời cơ thuận lợi
và khó khăn, thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá
trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế đạt kết quả, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ thế nào là “vận dụng”, thế nào là “phát triển”; đồng thời, cần nắm vững đối
tượng để “vận dụng” và “phát triển”. Vấn đề đặt ra đối với sự “vận dụng” là phải đúng đắn, sáng tạo; “phát
triển” cần bảo đảm tính kế thừa, đúng hướng. Phát triển là cập nhật nội dung mới, nâng tầm nội dung của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền và làm phong phú các nội dung nhằm mang lại
hiệu quả thiết thực trên không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến hiệu quả,
tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung tuyên truyền cần phù hợp với từng đối tượng trong xã hội, trong
đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ, như thanh, thiếu niên, sinh viên. lOMoAR cPSD| 46988474
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi
ích quốc gia, dân tộc.

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế ở nước ta hiện nay phải
thống nhất hai mặt của mối quan hệ biện chứng: vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về
đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, để
ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của đất nước phù hợp với luật pháp
quốc tế. Một trong những yêu cầu then chốt nhằm bảo đảm môi trường hòa bình là phải luôn kiên trì, bình tĩnh,
sáng suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Đây là
“nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành ngoại giao là những người đi đầu”(15).
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn
hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các
hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với
các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và
hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng
tôn pháp luật. Tiếp tục duy trì các mối quan hệ với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và các nước
lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị,
thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu
nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”.
Di sản đường lối đối ngoại, trong đó có tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta là một kho tàng vô cùng quý giá. Vận dụng sáng tạo và hiệu quả tư tưởng của Người trong công
tác đối ngoại hiện nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ ̣
nghĩa và hê thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kết hợp hài hòa, chặ t chẽ và có hiệ u quả giữa xây dựng
với ̣ chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng và bảo vê Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới
phương ̣ thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiên mới”.̣
Trước hết, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị. Kiên định lâp trường, quan điểm và nguyên tắc theo lý ̣
tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hôi. Bảo vệ
vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng, ̣ đấu tranh không khoan nhượng với những quan điểm sai trái, xuyên tạc, chống đối của các thế lực thù
địch, giữ vững niềm tin khoa học, đạo đức trong sáng và bản lĩnh chính trị vững vàng, không cho phép ai được
ngả nghiêng, dao đông. Đây là bảo đảm tối cần thiết để định hướng xã hộ i chủ nghĩa của sự nghiệ p đổi
mới được ̣ giữ vững và phát huy, không rơi vào chêch hướng, vượt qua nguy cơ, thách thức đối với Đảng cầm
quyền. Hơn ̣ lúc nào hết, trong bối cảnh và tình hình phức tạp hiên nay, việ c nâng cao tiềm lực tư tưởng, trí tuệ
và bản lĩnh ̣ của Đảng đòi hỏi phải gắn liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị với tư tưởng và đạo đức.
Viêc nhấn ̣ mạnh, tâp trung xây dựng Đảng về đạo đức bao hàm ý nghĩa coi đây là khâu độ t phá, phải ra lOMoAR cPSD| 46988474 sức nâng cao nhậ
n ̣ thức và thực hành đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, nhất là tinh thần trách nhiêm
và nêu gương, đó là sức ̣ mạnh để phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hai là, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự là khâu then chốt thì phải ra sức xây dựng Đảng về t chức và
cán bô, nhất là độ
i ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh
dám ̣ nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách nhiêm. Đảng ta coi đây là “then chốt của then chốt”, như Chủ
tịch ̣ Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “cán bô là cái gốc của mọi công việ c”, “đào tạo, huấn luyệ n cán bộ là công việ
c ̣ gốc của Đảng”. Để xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức và cán bô thực sự có hiệ
u quả, tạo chuyển biến mạnh ̣ mẽ về mọi mặt vào lúc này, Đảng cần tâp trung nỗ lực và hành độ ng đồng bộ , quyết liệ
t trong đổi mới thể chế, ̣ tăng cường kỷ luât, kỷ cương, thực hành dân chủ rộ ng rãi, thực
chất trong Đảng; nhất là tuân thủ nghiêm ngặ
t ̣ nguyên tắc tâp trung dân chủ và thường xuyên kiểm tra, giám sát, kỷ luậ
t Đảng dựa trên Điều lệ
Đảng. Trách ̣ nhiêm và nêu gương là sức mạnh, sự lan tỏa
tính thuyết phục của Đảng đối với Nhân dân. Chức vụ càng cao, ̣ trách nhiêm càng lớn, càng phải chú trọng sự
nêu gương, nhất là gương mẫu về đạo đức.̣
Ba là, để thực hiên lời dạy của Bác ̣ “Đảng là đạo đức, là văn minh”, phải ra sức đưa các giá trị văn hóa vào
trong chính trị, trong đời sống của Đảng và Nhà nước vào hoạt đông của các t chức, đoàn thể trong hệ
thống ̣ chính trị
. Quyết tâm của Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diên, hệ thống chính
trị cũng phải ̣ trong sạch, vững mạnh. Có như vây mới có sức mạnh tổng hợp đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, tệ
nạn và tiêu cực ̣ xã hôi. Điều đó chỉ có thể thực hiệ n được bằng sức mạnh nộ i sinh từ văn hóa.̣
Phải tâp trung mọi nỗ lực trong Đảng với sự tham gia xây dựng Đảng của toàn dân để xây dựng Đảng về văn ̣
hóa, xây dựng văn hóa của Đảng cầm quyền. Do vậy, cần phải làm cho hình tượng văn hóa của Đảng Công sản ̣
cầm quyền là tiêu biểu cho văn hóa, tinh hoa văn hóa của dân tôc và thời đại mà Văn hóa Hồ Chí Minh là mộ
t ̣ mẫu mực điển hình. Đạo đức là cốt lõi của văn hóa cho nên trong Đảng phải thường xuyên đẩy mạnh giáo
dục, thực hành văn hóa, chú trọng giáo dục trong toàn Đảng về phẩm giá, lòng tân tụy, danh dự, liêm sỉ. Nói
như Hồ ̣ Chí Minh: phải dùng văn hóa để chữa thói phù hoa, xa xỉ, tham nhũng. Cần phải coi đây là nhiêm vụ
cơ bản, lâụ dài, có tầm chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, mối liên hê máu thịt giữa Đảng với Dân là bảo đảm cho sự nuôi dưỡng và phát triển bền vững cơ sở xã ̣ hôi quan trọng bậ
c nhất của Đảng̣
, đó là lòng dân, sức dân, niềm tin và sự ủng hô của nhân dân với Đảng, là cộ
ị nguồn sức mạnh bảo vê Đảng. Do đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đặ c biệ t chú trọng công tác dân vậ
n. ̣ Không tẩy sạch thói “xem khinh dân vân” như Hồ Chí Minh từng phê phán từ hơn 70
năm trước thì Đảng ̣ không thể là Đảng chân chính cách mạng trong lòng dân. Dân vân phải gắn liền với dân
chủ, đoàn kết và tạo ra ̣ sự đồng thuân. Người căn dặ
n chúng ta phải nêu cao quyết tâm, giữ được tín
tâm, có sức hấp dẫn, thu hút lớn ̣ bởi sức mạnh đồng tâm từ Đảng tới Dân. Nâng cao chất lượng, hiêu quả công tác dân vậ n, đó là mộ
t trong ̣ những thước đo của xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho sự hài lòng của
người dân đối với cán bô đảng viên ̣ tăng lên, làm cho niềm tin của Dân với Đảng được củng cố. Đó là môt
trong những bí quyết của thành công ̣ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Năm là, phát triển Đảng, làm tăng sinh lực của Đảng từ thế hê trẹ , nhất là trong lực lượng vũ trang, trong
thanh niên trí thức, phát triển số lượng đi liền với nâng cao chất lượng, nhất là về đạo đức. Đó là công viêc quan
trọng ̣ không được xem nhẹ trong xây dựng Đảng, đảm bảo tính kế thừa thế hê, tính liên tục từ truyền thống đến hiệ
n ̣ đại trong lịch sử Đảng ta.
Làm tốt những vấn đề trên là trách nhiêm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ̣
hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Đảng ngang tầm nhiệ
m vụ, xứng đáng là mộ t Đảng
chân chính ̣ cách mạng, lãnh đạo và cầm quyền. lOMoAR cPSD| 46988474
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Nền văn hóa, con người Việt Nam hiện đại là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
làm động lực cho sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế và phát triển con người toàn diện. Để vận dụng
được những yếu tố cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại; làm cho văn hóa trở thành động lực khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng đất nước Việt Nam hùng
cường, cần phải thực hiện có hiệu quả những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc
tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường
văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú
ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
hiện đại là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo. Tại Đại
hội XIII, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, lần đầu tiên Đảng ta nêu yêu cầu: “Từng bước
vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện đại càng phải vận dụng
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Giữ gìn và phát huy vốn
văn hóa quý báu của dân tộc, kế thừa những truyền thống tốt đẹp, đồng thời vận động Nhân dân xóa bỏ các tập
tục lạc hậu. Bên cạnh đó, cần có biện pháp hạn chế việc du nhập văn hóa một cách quá đà, thiếu chọn lọc dẫn
đến tình trạng “sùng ngoại” không còn thiết tha với văn hóa truyền thống trong nước. Với quan điểm dân tộc và
hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải
xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức; con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn
hóa nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn
hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa
mà chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà
xây dựng đời sống mới, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong
kiến quốc, luôn luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân tài, biết quý
trọng, tin cậy hiền tài.
Hai là, phát triển văn hóa gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là một bộ phận của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh nhận thức tư duy, hành vi cho mỗi cá nhân và cả xã hội, văn hóa
phải được gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế, xã hội; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Một mặt, văn
hóa chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, văn hóa có tác động trở lại to lớn đến kinh tế và
chính trị. Chính vì thế, mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội; mỗi bước của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là một bước để củng cố, giữ gìn, phát huy và phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong đó, phải nâng cao nhận thức, làm cho mọi người mà đặc biệt
là thế hệ trẻ hiểu đầy đủ nhất về các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, từ đó tuyên
truyền, phát triển và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước tình hình mới, trước sự tác động từ mặt trái
nền kinh tế thị trường. lOMoAR cPSD| 46988474
Ba là, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện
đại vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, Đảng ta xác định cần có cơ chế, chính sách, giải pháp
để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của Nhân
dân. Đồng thời, thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”; chú trọng phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng môi
trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực sự là “định hướng giá trị” để: “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường
và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa
dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế.
Hiện nay, những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của
dân tộc. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam hiện đại,
cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào thực tiễn cách mạng nước ta, đồng thời
tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tiên tiến, khoa học, đại chúng, kiên quyết loại bỏ những hủ tục, tàn
dư, những sản phẩm phản văn hóa, sản phẩm độc hại từ bên ngoài để xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh
thần của xã hội, là sức mạnh góp phần phát triển bền vững đất nước.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀO NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng để hình thành người công dân tốt, do đó, giáo dục đạo đức có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành đạo đức, nhân cách con người. Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần
thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Trong thời gian tới, cần kế thừa, vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào thực hiện tốt một số định hướng nhằm
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân như sau:
Một là, thống nhất nhận thức và quán triệt sâu sắc về tầm quan trọng và nội dung của giáo dục đạo đức trong
toàn Đảng, toàn dân
Cần nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, đặc biệt là trong bối
cảnh có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân như
hiện nay. Trước hết, cần nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục đạo đức trong việc đào tạo các thế hệ
công dân ưu tú cho đất nước; tiếp đó là thống nhất nội dung giáo dục đạo đức phải bao gồm toàn diện các phẩm
chất như: Nhân, Dũng, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Đồng thời, phải đặt giáo dục đạo đức
trong mối quan hệ mật thiết với trí dục, thể dục, mỹ dục... nhằm hun đúc các thế hệ công dân Việt Nam phát
triển toàn diện về mọi mặt. Việc thống nhất và quán triệt quan điểm giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh phải
được thực hiện trên cơ sở thống nhất cao độ, theo tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, cùng
nỗ lực thực hiện một cách tốt nhất.
Hai là, chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng trong đ i mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay.
Vì đạo đức là gốc, là cơ sở, nền tảng để hình thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, nên trong quá trình lOMoAR cPSD| 46988474
đổi mới giáo dục và đào tạo, cần coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng. “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, năng
lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo
dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam” như
Đại hội XIII đã xác định, để đào tạo các thế hệ công dân phát triển toàn diện, hội đủ đức và tài, vừa hồng vừa
chuyên, bản lĩnh chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, cả phẩm chất và kỹ năng.
Trong quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phải chú ý việc tạo môi trường thuận lợi cho
giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng, trong quá
trình đổi mới giáo dục và đào tạo, phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo dục trong nhà trường rất quan trọng, nhưng giáo dục của gia đình và xã hội cũng tác động rất lớn đến quá
trình hình thành, nâng cao đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Giáo dục trong nhà trường dù tốt
mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Ba là, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, giảng viên,
cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nhằm tạo điều kiện, tiền đề, động lực thúc đẩy
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân đạt hiệu quả

Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, trước hết phải nâng cao đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên phải
chuẩn mực, gương mẫu để quần chúng nhân dân noi theo.
Cần đặc biệt quan tâm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục như giáo viên,
giảng viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng. Tấm gương đạo đức sáng ngời của đội
ngũ này có khả năng thuyết phục, tạo động lực to lớn đối với người học trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện.
Người giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục không chỉ cần trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, thấm nhuần đạo đức cách mạng và luôn nêu gương tốt.
Như vậy, cùng với giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; phải xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành
nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI, SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm
2016 - 2020, đó là “xây dựng con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đây là một bước tiến quan trọng của Đảng ta không chỉ coi trọng
phát triển con người về mặt nhận thức, về mặt lý luận, mà còn biến thành nhiệm vụ cụ thể và hoạt động thực
tiễn. Căn cứ để đưa ra nhiệm vụ tổng quát dựa trên sự đúc kết những giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng tạo điều kiện để con
người giai đoạn hiện nay phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, tâm hồn, trách nhiệm xã
hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật một cách toàn diện. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý
thức tự hào dân tộc, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi những hành vi sai trái, tiêu
cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người, sự xuống cấp về đạo đức xã hội, để xây
dựng thành công một xã hội tốt đẹp, văn minh và phát triển. lOMoAR cPSD| 46988474
Thứ hai, gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con người.
Đại hội XII của Đảng khẳng định chủ trương gắn việc xây dựng văn hóa, con người với xây dựng và phát triển
đất nước. Đây là bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực phát triển con người sau 30 đổi mới.
Đại hội XII khẳng định phương hướng phát triển văn hóa là: “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người... Gắn
nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”(8), bởi vì con người vừa
là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình sáng tạo ra. Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, nói tới văn hóa là nói tới con người, con người giữ gìn phát huy giá trị văn
hóa, nhưng chính con người cũng có thể làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn hóa. Cho nên, việc xây dựng, phát
triển văn hóa không thể tách khỏi xây dựng, phát triển con người. Qua cách diễn đạt này, Đảng đã khẳng định
và nhấn mạnh vấn đề trọng tâm, cốt lõi của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện với nhân cách, lối sống, đạo đức tốt đẹp.
Thứ ba, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong sáu nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII.
Ở nhiệm vụ thứ ba, về tập trung các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, Đảng ta yêu cầu tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, trong đó có: “Phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan điểm nguồn nhân lực là vốn quý của đất nước, trong nhiệm vụ thứ năm, Đại hội XII của Đảng xác
định: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân”. Khi đề cập tới vấn đề đạo đức,
lối sống, nhân cách của con người để xây dựng con người phát triển toàn diện, trong nhiệm vụ thứ sáu, Đảng ta
khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người
về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”. Việc cụ thể hóa những yêu cầu trong xây dựng và
phát triển con người toàn diện là thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn,
của quá trình hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của đời sống và
sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức
khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc
về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản
xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao động phát triển cả đạo đức và nhân cách.
Đó là đạo đức trung thực, đạo đức trong hành động, tự giác trong lao động. Biểu hiện của đạo đức cách mạng là
sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó
đáp ứng được chuẩn mực đạo đức của xã hội mới, là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công cuộc đổi
mới đất nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG TA “LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” - GIÁ TRỊ VẬN DỤNG
TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng
của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lOMoAR cPSD| 46988474
lái có vững thì thuyền mới chạy. Cương lĩnh của Đảng khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một trong 5 quan điểm chỉ
đạo, đó là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(14). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xao
nhãng, lười biếng, ngại học tập là một khuyết điểm rất lớn, “khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác
mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã răn dạy. Phải chữa cái bệnh chủ quan
mà nguyên nhân là kém lý luận, khinh lý luận hoặc lý luận suông; đồng thời, phải bỏ tư tưởng học để lấy bằng
cấp. Lý luận phải thống nhất với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Đảng phải luôn luôn quán triệt quan điểm “theo đúng đường lối nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều lần chỉ dạy. Đảng phải quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tài sản lớn nhất, có giá trị nhất của Đảng là lòng dân. Xác định sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân là thước đo quan trọng nhất của một đảng đạo đức, văn minh.
Thứ ba, để Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” thì mỗi cán bộ, đảng viên phải là những người đạo đức, văn minh.
Với trọng trách là những người ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, mỗi
cán bộ, đảng viên phải tu thân, chính tâm, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực
trí tuệ, bản lĩnh, trau dồi, rèn luyện, bồi dưỡng phong cách gần gũi quần chúng, dân chủ, nêu gương trong công
việc; phải hằng ngày, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị;
trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân.
TTHCM VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương
Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với
nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương
con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ
hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ
trong tấm lòng nhân ái của Người. lOMoAR cPSD| 46988474
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung
của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng
phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không
phải đập cho tơi bời".
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình;
phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của
Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu
tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng
mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình
và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những
người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu
nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước
quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống. lOMoAR cPSD| 46988474
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành
mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao
đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc
“nội xâm” phá từ trong ra.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu
được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong
cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức
bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho
cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi
đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người.
Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành
sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm của Người về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đạo
đức đối với con người, xã hội và đối với cán bộ, đảng viên; những nội dung cơ bản về đạo đức mới, đạo đức
cộng sản, đạo đức cách mạng và hệ thống chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới để
cán bộ, đảng viên tự phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một tình cảm rộng lớn, cảm thông sâu sắc với mọi
khổ đau, bất hạnh của nhân loại, trước hết dành cho đồng bào, đồng chí của mình, cho đến những người cùng
khổ thuộc mọi màu da trên thế giới, người dân nô lệ bị mất nước, những người lao động bị áp bức, bốc lột, bất
công; đó là lòng thương yêu vô hạn đối với con người; đồng thời thể hiện mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với
mọi người bình thường trong quan hệ hằng ngày. Người luôn nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác;
có thái độ trân trọng con người, nâng đỡ con người sống tốt hơn và luôn quan tâm đến công tác, đời sống của
từng đồng chí; việc ăn, ở, học hành, giải trí của từng người dân.
Tư tưởng về đạo đức yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi đường cho Đảng và Nhân dân
Việt Nam trên con đường xây dựng mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đã và
đang khơi dậy được sự ngưỡng mộ, lòng biết ơn, quyết tâm học tập, rèn luyện và làm theo của các thế hệ cách
mạng, của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta về đạo đức yêu thương con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 46988474
VẬN DỤNG TTHCM VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Trong bối cảnh hiện nay, cách mạng giải phóng dân tộc chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác chính là tiến tới hiện thực hoá quan điểm xây dựng đất nước với phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng.
Từ quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và những thắng lợi đạt được của quá trình hiện
thực hoá tư tưởng ấy, trong công cuộc bảo vệ, đổi mới toàn diện đất nước hiện nay cần nắm vững một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường.
Thứ hai, luôn lấy dân là gốc, con người là mục tiêu và là động lực của mọi sự phát triển. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là
người làm nên lịch sử; quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp
cách mạng, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thứ tư, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, phù hợp thực
tiễn và đặt lợi ích quốc gia dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN 2. Nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Một là, nêu gương về mục đích sống và động cơ tranh đấu.
Người nêu gương suốt đời hy sinh vì dân, luôn ý thức rằng, từ Chủ tịch Chính phủ đến nhân viên trong các công
sở cũng chỉ là người đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân, chỉ như một người lính vâng lệnh quốc dân
đồng bào ra trận. Chính phủ là chính phủ của dân nên phải là một chính phủ hành động, công tâm, liêm chính.
Chương trình của Chính phủ phải làm ngay những việc cấp bách, “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở và được học hành”. Vì dân mà phải chọn nhân tài giúp nước, chọn người đúng và giao việc
đúng. Dựa vào dân để dân giúp đỡ, dân đi tìm nhân tài, hiền tài ra giúp nước. Cũng không có chính phủ nào như
Chính phủ của Chủ tịchHồ Chí Minh lúc bấy giờ, Người đã trực tiếp gửi thư cho đồng bào toàn quốc để nhờ
đồng bào giới thiệu, tiến cử nhân tài, để Chính phủ trọng dụng.
Đức nêu gương về mục đích sống và động cơ tranh đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh và tỏa sáng trong
bản văn Di chúc mà Người để lại, có giá trị trường tồn.
Hai là, nêu gương về thái độ tôn trọng dân, phát huy dân chủ và đức khiêm tốn.
Lý tưởng tranh đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, đưa dân ta thoát ra khỏi tình cảnh nô lệ,
đạt tới độc lập tự do và nhân dân ở địa vị của người chủ và làm chủ. Tôn trọng nhân dân, Người có niềm tin
mãnh liệt vào vai trò sáng tạo của nhân dân trong tư cách chủ thể. Sức mạnh đoàn kết của toàn dân là sức mạnh
chiến thắng mọi cường quyền, đánh bại mọi thế lực ngoại xâm, dù chúng là “những đế quốc to”. Đó còn là sức
mạnh để “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”, đánh thắng cả nghèo nàn lạc hậu, xây dựng nước nhà cường thịnh.
Ba là, nêu gương thực hành đoàn kết, đại đoàn kết, nêu cao tinh thần đại nghĩa, đoàn kết trên cơ sở dân
chủ, hướng tới đồng thuận, nêu cao đồng tâm, đồng ý, đồng chí, đồng lòng để đồng hành, đưa sự nghiệp
cách mạng vượt qua mọi gian nan thử thách, hy sinh đi tới thắng lợi.
lOMoAR cPSD| 46988474
Người nêu gương đoàn kết, nhất trí trong Đảng, “từ Trung ương tới chi bộ, như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”, từ đoàn kết trong nước, trong Đảng, trong dân đến đoàn kết quốc tế, Người đau nỗi đau về sự bất đồng,
bất hòa. Người tin rồi tất cả các Đảng anh em, các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại. Người căn dặn
Đảng ta phải làm hết sức mình để củng cố tình đoàn kết giữa các Đảng anh em, các nước anh em trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, có lý, có tình.
Nêu gương đoàn kết, đại đoàn kết, Người đã trở thành biểu tượng kiệt xuất của tình đoàn kết chiến đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, vì đại nghĩa, phải tinh thần đoàn kết,
phải quang minh chính đại. Người quan niệm chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giữ vững nguyên tắc, linh hoạt mềm dẻo trong phương pháp, khôn ngoan sáng suốt trong sách lược, tất cả
vì mục đích và lý tưởng của sự nghiệp cách mạng - đó là cơ sở để thực hành đoàn kết và đồng thuận trong
Đảng, trong dân, trong nước và quốc tế. Cái đích cao nhất là hòa bình, là độc lập tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn là, nêu gương về phương pháp và phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, chu đáo, lãnh đạo và quản
lý dựa trên các chuẩn mực dân chủ, khoa học, luật pháp, kỷ cương và sự gương mẫu về đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Theo Người, gương mẫu đó là cách lãnh đạo tốt nhất, hợp lòng dân nhất. Cả cuộc đời Người đã thực hành nêu
gương sáng đó. Người thường chủ trương nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm. Phong cách Hồ Chí Minh
không chỉ khoa học trong tư duy, nói và viết ngắn gọn, giản dị, sâu sắc, làm việc luôn luôn đúng giờ, giữ đúng
nề nếp, hài hòa… mà còn là hết sức tinh tế thuộc về văn hóa với những sắc thái độc đáo của triết lý và minh
triết mang dấu ấn Hồ Chí Minh:
- Nhà triết học vô ngôn.
- Nhà tư tưởng ở bậc hiền triết.
- Nhà chính khách, lãnh tụ với những thông điệp không lời…
Năm là, nêu gương ứng xử tinh tế, thực hành lối ứng xử thấm nhuần văn hóa khoan dung.
Đây là tổng hợp tất cả tư tưởng - đạo đức và phong cách của Người trong công việc, trong quan hệ con người,
trong cư xử với anh em, đồng chí, bạn bè, cả trong nước và quốc tế, nhất là trong quan hệ với nhân dân.
Tấm gương ấy toát lên một vẻ đẹp cao quý của nhân cách Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn Hồ
Chí Minh. Người còn thấm nhuần chất nhân bản, vĩ nhân mà vẫn rất con người, con người của mọi con người
đời thường. Giản dị, hồn nhiên, chân thành, lịch thiệp, tinh tế, con người mang tầm vóc vĩ nhân, hình ảnh của
dân tộc, lương tâm, khí phách của dân tộc và thời đại (lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng).
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần thấm nhuần những điểm đặc sắc đó trong
văn hóa nêu gương của Người.
VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO TTHCM VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VN
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nội dung cơ bản, cốt lõi,
thể hiện sự sáng tạo rất lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng, quán triệt lý luận Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải không ngừng
bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở bảo
đảm các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với đặc điểm của dân
tộc, với xu thế của thời đại. lOMoAR cPSD| 46988474
Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có những bước
tiến mạnh mẽ trong nhận thức tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều đó
được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ quan
niệm của Đảng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng, trong đó mục tiêu bao trùm (đặc
trưng tổng quát), thể hiện bản chất của chế độ là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(19).
Thực tế công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rằng, chính nhờ đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta mà trước tình hình các nước
XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam vẫn kiên định và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện và đặt ra yêu cầu mới cần phải nhận thức
đúng đắn, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội, nhằm tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng. Thực chất của công cuộc đổi mới là “chống
lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”, là tìm tòi phương thức (con đường)
xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam hiện nay “Tình hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới,
phương châm mới, sách lược mới… Trước tình hình mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ”.
Trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải nắm vững mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội; nắm vững tinh thần và
phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm tòi, phát hiện ra những quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam, sáng tạo ra những nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện của
đất nước và xu thế của thời đại; biến mục tiêu, lý tưởng của Người từng bước trở thành hiện thực trên đất nước ta.
ĐỂ XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỰC SỰ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, BẢO
ĐẢM QUẢN LÝ THỐNG NHẤT, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CẦN PHẢI LÀM GÌ?
Để xây dựng nền hành chính nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, cần phải:
Thứ nhất, đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật,
nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ có hiệu quả giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ hai, tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hoá nền hành chính quốc gia.
Thứ ba, tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ, nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô, nhất là chất lượng quy
hoạch, xây dựng thể chế, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập
mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và những định hướng phát
triển, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng
cao năng lực của từng cấp, từng ngành. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. lOMoAR cPSD| 46988474
Thứ bảy, đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai
trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục
hành chính; giảm mạnh các thủ tục hiện hành.
Thứ tám, công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Tăng cường
tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ.
Thứ chín, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước các cấp.
VẬN DỤNG ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Một là, kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao bản
lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lãnh đạo cách mạng, trước hết phải xác lập được đường lối chính trị đúng đắn. Đó là nhân tố quan trọng
để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, điều kiện tiên quyết đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy,
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Mặt khác, lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng cũng chứng minh, khi nào Đảng ta chậm đổi mới tư duy, giáo
điều, rập khuôn máy móc trong vận dụng lý luận hoặc kinh nghiệm nước ngoài, lúc đó cách mạng gặp khó khăn
tổn thất. Do đó, “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực
tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra”.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, t chức và cán bộ.
Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng, bảo vệ nền tảng của Đảng, nâng cao trí tuệ của Đảng. Theo đó, Đảng
nhất thiết phải là một tổ chức tiêu biểu về trí tuệ của dân tộc. Đảng phải là lực lượng đủ trí tuệ để giải quyết kịp
thời những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, đưa ra những luận cứ khoa học và cách mạng làm đường hướng cho sự
phát triển của đất nước, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phải biết phát huy trí tuệ của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Trí tuệ của Đảng phải thể hiện
ở năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo sáng suốt, cùng năng lực dự báo các khả năng và triển vọng phát triển
của đất nước, của quốc tế.v.v.
Xây dựng Đảng về chính trị được biểu hiện tập trung ở đường lối, chủ trương và hệ thống nghị quyết của Đảng
phải mang tính khoa học, tính thực tiễn cao để lãnh đạo đất nước đi lên. Xây dựng Đảng về chính trị còn được
biểu hiện ở mục đích và lập trường của một đảng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn chúng ta
không bao giờ được quên rằng, mục đích cuối cùng của Đảng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Lập trường kiên định của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ là sự thấm nhuần những tư tưởng trên để xây dựng bộ máy Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; là xây dựng văn hóa tự phê bình và phê bình, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh, tự giác, góp
phần tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ; quản lý chặt chẽ
đảng viên. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành hình mẫu, nét đẹp của “văn hóa
công vụ”, “văn hóa trách nhiệm”, xứng đáng với vị trí vừa là người lãnh đạo xã hội, vừa là “người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”.
Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, thực hành văn hóa nêu gương, văn hóa gần dân, văn hóa trọng dân. lOMoAR cPSD| 46988474
Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng “nền gốc” tinh thần vững chắc của Đảng, là xây dựng sức mạnh nội
sinh của cách mạng. Trong đó, “gương mẫu là một nội dung, một phương thức trọng yếu trong công việc lãnh
đạo của Đảng”. Do vậy, sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng chính là xây dựng Đảng
về đạo đức. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị phải luôn làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, mọi việc;
nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều để quần chúng noi theo.
Cùng với đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, cho Nhân dân tin tưởng, ủng
hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng.
Bốn là, tiếp tục đ i mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, bằng giáo dục và thuyết phục chứ không phải bằng áp đặt
mệnh lệnh hành chính, quan liêu. Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhưng không chuyên quyền, độc đoán, không rơi
vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc
dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân. Vì vậy, phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Năm là, tích cực đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta phải luôn kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội,
thực dụng, phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ cương lĩnh, đường lối, bảo vệ vững chắc chế độ xã
hội chủ nghĩa và Tổ quốc Việt Nam. Kiên quyết phê phán, bác bỏ những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc
về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, phải trên cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn tính chất,
hiệu quả từng bước đi, từng sách lược xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.