Văn mẫu 11: Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt | Kết nối tri thức
Văn mẫu 11: Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích nhân vật Thị Dàn ý số 1 I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu
sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
● Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của
ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt. II. Thân bài 1. Lai lịch
● Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
● Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói. 2. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự
hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo. - Lần thứ hai:
● Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi
được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
● Khi nghe tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi
trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con
người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với Thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy. 3. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
● Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
● Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”,
Thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
● Trên đường về, Thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
● Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong gia đình.
● Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
● Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
● Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
- Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích. III. Kết bài
● Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng
hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, ...
● Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và
cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói,
tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực. Dàn ý số 2 a) Mở bài
- Giới thiệu sơ qua về tác giả, tác phẩm, hình tượng nhân vật người "vợ nhặt" b) Thân bài
* Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh
– Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt
vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu
vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con
mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng
nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn
tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua
ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến
thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn.
Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
* Người “vợ nhặt” có một lòng ham sống mãnh liệt
- Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi
ta cùng về” thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý).
- Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu
như thế nào, gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể
theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư?
- Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng
khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp
nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn
bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình.
=> Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim
Lân: ”Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
* Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều
- Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét.
+ Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì
người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa,
chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu
cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.
+ Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao
ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại
là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày
mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải
chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây
dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
+ Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“ngồi mớm” – thế
ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào
bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước
trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
* Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính
cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người
đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì
hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi
tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu,
đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực
của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng,
mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.
+ Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng
trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.
+ Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà
anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía
trước có lá cờ đỏ to lắm”.
-> Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
=> Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi
ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của
nhà văn thể hiện ở đây.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống truyện
độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị,
phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
=> Người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn
đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp: Con người Việt Nam dù sống trong hoàn
cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống. c) Kết bài
- Qua sự thay đổi của người vợ nhặt, ta có thể thấy người đàn bà ấy có khát vọng sống,
khát khao hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Đó cũng là những khát vọng chính đáng
của con người dẫu bị đặt vào hoàn cảnh éo le nhất. Dàn ý số 3 a) Mở bài
- Giới thiệu: truyện ngắn Vợ nhặt và tác giả Kim Lân
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: nhân vật người "vợ nhặt" b) Thân bài
* Tóm tắt nội dung cốt truyện
- Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là
Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạn đói
tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài
ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ, người mẹ giàu tình thương người, xót
cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều
lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương
tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ,
niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
* Cảm nhận về hình tượng nhân vật người vợ nhặt
- Ngoại hình: gầy ốm, xơ xác, tiều tụy.
- Thân phận: cô gái lang thang, nhặt thóc vãi, không tên tuổi, không gia đình, không quê quán.
- Ấn tượng ban đầu về thị: chao chát, chỏng lỏn, không biết xấu hổ là gì. Chỉ với vài
lần gặp, một bữa bánh đúc, vài câu nói bông mà đã theo không người ta về làm vợ ->
cái đói đã làm cho thị trở nên trơ trẽn.
- Hành động: chịu lấy Tràng -> ý thức bám lấy sự sống.
- Diễn biến tâm lí, hành động khi về nhà Tràng •
Trên đường về nhà cùng Tràng: ngượng ngùng, lo âu, hồi hộp. •
Khi gặp mẹ Tràng: khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” và tâm trạng
lo âu, băn khoăn, hồi hộp. •
Buổi sáng hôm sau: dậy sớm, quét dọn -> người vợ hiền dâu thảo. •
Trong bữa cơm ngày đói: tạo niềm tin cho cả nhà khi kể câu chuyện người ta
phá thóc kho Nhật cứu đói.
=> Niềm khao khát hạnh phúc gia đình
* Nhận xét đánh giá về nhân vật
- Người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã
thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Đây là
một thành công lớn của nhà văn.
- Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy, cũng không hề hào nhoáng nhưng lại
gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng nhân vật thị đã mang đến một làn
gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết…. c) Kết bài
- Nêu cảm nhận, đánh giá, nhìn nhận chung về nhân vật
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân Dàn ý số 4 1. Mở bài
• Giới thiệu tác giả Kim Lân
• Giới thiệu tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, chủ đề của tác phẩm “Vợ nhặt”
• Giới thiệu nhân vật người vợ nhặt, nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt 2. Thân bài
1. Thân phận và cảnh ngộ của người Vợ nhặt
• Vợ nhặt được giới thiệu là một người không tên tuổi, không quê quán họ hàng,
xuất hiện giữa chợ tỉnh.Quần áo rách như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
• Là người phụ nữ không họ tên, Thị là hình ảnh tiêu biểu cho những người dân đói khổ khi đó.
• Không có việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, cái đói đã hành hạ và đẩy chị
đến bờ vực của cái chết. Chỉ vài ba câu nói bâng quơ của Tràng mà Thị theo
Tràng về làm vợ. Cái đói đã biến Thị trở thành kẻ trơ tráo liều lĩnh cùng đường.
2. Tâm trạng của người vợ nhặt
* Trên con đường trở về nhà với chồng
• Chị về nhà chồng trong tình cảnh thật thảm hại, theo không Tràng vì Tràng cho
ăn đó là hành động thật liều lĩnh. Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm cho chị
đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng.
• Trên con đường trở về nhà chồng, người phụ nữ này không tự tin vì thân phận
của mình, đồng thời có cả sự tủi phận, ngại ngùng, lo âu. Thị cảm thấy khó
chịu trước lời chêu chọc của những người dân xóm ngụ cư: “người đàn bà có
vẻ khó chịu lắm, chị nhíu đôi lông mày lại, sắp lại tà áo, chân nọ bước díu vào
chân kia”, tâm trạng ấy thể hiện người con gái này suy tư về con đường ở trước
mắt, đồng thời không dấu được niềm khao khát hạnh phúc.
• Thị thay đổi hẳn, vẻ đanh đá, cong cớn đã biến mất (đó chỉ là vẻ bề ngoài để
chống chọi với đời) con người thật của Thị hoàn toàn khác. * Về đến nhà
• Thị mang một tâm trạng ngại ngùng của một nàng dâu mới, buồn thủi cho gia
cảnh nhà chồng “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng
rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung
quanh cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”
• Thị buồn và thất vọng, lo lắng khi thấy gia cảnh nghèo khó của Tràng, vì khi
theo Tràng chị muốn trốn chạy cái đói nhưng cái đói không chừa một ai. * Sáng hôm sau
• Chỉ qua một đêm về làm dâu, ở người con gái này đã có sự thay đổi rất nhanh,
Thị đã trở thành người đàn bà nhanh nhẹn, tự tin, Thị chủ động dọn dẹp quét
tước nhà cử. Hơn thế nữa, sự có mặt của người đàn bà trong ngôi nhà này chính
là mối gắn kết tình cảm trong gia đình. Với khả năng của mình, Thị đã đem lại
hạnh phúc cho gia đình này. Ở Thị còn có thái độ lễ phép với mẹ chồng.
• Thị nhanh chóng hòa nhập vào không khí gia đình. Thị cảm nhận được tình
thương của mẹ chồng, dù nghèo nhưng hiểu và thương Thị
• Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận bát cháo cám “hai con mắt Thị tối lại” “Thị
điềm nhiên và vào miệng” vì không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của
người mẹ già khốn khổ.
• Thị là người đã dấy lên niềm tin mới về cách mạng, tạo niềm tin hi vọng cho
chồng khi kể chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không còn đóng thuế
nữa và Việt Minh đi phá kho thóc Nhật chia cho người đói.
* Thị là nhân vật đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm 3. Nghệ thuật
• Xây dựng tình huống truyện độc đáo
• Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc
• Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí nhân vật
• Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi III. Kết bài
Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn
biến tâm lí nhân vật một cách cụ thể. Kim Lân đã cho người đọc thấy được hình ảnh
của người nông dân nghèo nhưng luôn giàu tình yêu thương. Bóng dáng Thị hiện ra
tuy không lộng lẫy, không hào nhoáng nhưng gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.
Nhân vật ThỊ đã mang đến một làn gió mới cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ.
Xem thêm: Dàn ý phân tích người vợ nhặt
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt hay nhất - Mẫu 1
Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thật, hình ảnh người
phụ nữ luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ trong văn học. Chúng ta đã gặp không ít những số
phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng
Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị Dậu tủi hờn... Nhưng khi tiếp
cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy lại được trao
cho sức sống mới mạnh mẽ, đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nhân vật
văn học nữ tiêu biểu cho hình ảnh đó là thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt của” Kim Lân.
Thị được khắc họa và hình dung rõ những nét tâm lý, diễn biến tâm trạng trong đoạn
theo Tràng về nhà tối trước đến sáng hôm sau. Qua nhân vật này, ta thấy được phần
nào vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng.
Được nhắc đến như một cây bút chuyên viết truyện ngắn, Kim Lân rất có duyên viết
về con người và làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Dù viết về
phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc
sống con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà,
chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của
Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện ngắn là tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và bị
thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1954, ông dựa vào một phần cốt
truyện cũ để viết truyện ngắn này. Truyện xoay quanh nhân vật Tràng - nghèo khó,
xấu xí nhưng lại nhặt được vợ - thị giữa những năm tháng của nạn đói. Diễn biến tâm
trạng thị từ khi theo Tràng về vào đêm hôm trước đến sáng hôm sau có nhiều chuyển
biến phức tạp, đồng thời bộc lộ nhiều vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng.
Khi viết về nhân vật thị, Kim Lân có vẻ khá kiệm lời. Thị hiện lên trong tác phẩm với
con số không tròn trĩnh: Không tên tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, không
người thân, không gia đình. Vẻ ngoài của thị được miêu tả vô cùng thảm hại: “Áo
quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy
hai con mắt”. Chỉ qua hai lần gặp gỡ, bốn bát bánh đúc, mấy câu bông đùa, thị đã theo
không Tràng về làm vợ. Thị bấu víu lấy Tràng như người sắp chết đuối vớ được phao
trong bể lũ nạn đói khốn khổ. Trên đường về nhà Tràng, thị bị trẻ con và người dân
trong xóm nhòm ngó, chỉ trỏ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”.
Hành động và tâm trạng của thị được tác giả mở ra và đào sâu từ đó.
Nếu ở những lần đầu gặp gỡ, thị hiện lên là một người phụ nữ chao chát, chỏng lỏn,
không có ý tứ thì khi trở thành vợ Tràng, thị có những thay đổi bất ngờ. Về đến nơi,
thị “lẳng lặng theo hắn vào trong nhà”, đảo mắt nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Thị nén một tiếng thở dài. Không
hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị
chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về
nhưng trong lòng vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi
đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp
nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài là không
tránh khỏi. Thị “nén” tiếng thở dài. Đó là hành động ý nhị, giữ cho Tràng chút thể
diện, cũng là để an ủi mình chấp nhận số phận. Khi bước vào nhà, sau tấm phên rách,
“những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất” đập vào mắt thị. Nghe
Tràng giải thích: “Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!”, thị chỉ “nhếch mép cười
nhạt nhẽo”. Hành động của thị là khinh bỉ ư? Không phải. Chính Kim Lân trong một
lần phỏng vấn đã thanh minh cho thị. Ông nói: “Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo vì ý khác.
Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng chỉ
vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người đàn bà trong gia đình Tràng
vừa gán cho”. Rõ ràng, thị là người đàn bà có suy nghĩ sâu xa, ý thức sâu sắc về thân
phận của mình. Dẫu có thất vọng đôi chút về hoàn cảnh của người tự khoe “rích bố
cu” nhưng thị hiểu rằng ngoài Tràng, sẽ chẳng có ai cứu vớt thị, chẳng có ai dám “đèo
bòng” trong cái “tao đoạn” này.
Trong khi Tràng suốt ruột chờ mẹ về để thưa chuyện, thị ở trong nhà chỉ dám “ngồi
mớm ở mép giường”. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận
hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép
giường. Tư thế “ngồi mớm ở mép giường” và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng
tỏ thị hơn ai hết hiểu rõ số phận của mình. Cái dáng ngồi cũng chênh vênh như cuộc
đời thị lúc này. Hẳn thị đang lo lắng và cả đôi chút sợ hãi. Sợ khi ở một nơi hoàn toàn
xa lạ, lo vì chắc gì mẹ Tràng đã chấp nhận cho thị về làm vợ Tràng. Nếu mẹ Tràng
không đồng ý, cuộc đời thị sẽ đi về đâu. Thị làm ta nhớ đến số phận long đong của
những người phụ nữ, nhất là phụ nữ trong xã hội xưa:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu” Hay
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”
Kiều, thị hay bao người con gái vô danh trong ca dao đều có số phận mong manh, trôi
nổi, đều bị những cơn sóng dữ của cuộc đời xô đẩy không thương tiếc. Những khác
với những người con gái trong xã hội cũ chỉ biết cam chịu và chấp nhận, thị đã mạnh
mẽ đứng lên tự giành lấy sự sống cho mình. Đây cũng là vẻ đẹp mới của con người,
nhất là người phụ nữ trong văn học hiện đại khác với văn học thời kì trước đó.
Khi mẹ Tràng về, thị không ngồi nữa mà đứng dậy vừa thể hiện tâm trạng lo lắng, vừa
cho thấy thái độ tôn trọng bà cụ Tứ của thị. Thị chào hai lần, lễ phép. Không còn thấy
thị vồ vập, vô duyên khi bị cái đói dồn ép nữa, bây giờ thị mẫu mực, lễ phép, ngoan
hiền, mang tâm trạng của một nàng dâu mới khép nép trước mặt mẹ chồng. Đứng
trước bà cụ Tứ, trông thị rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách
bợt". Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" thị
"vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng
không một quả cau, một lá trầu, không lễ rước cưới hỏi. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho
duyên số. Thật đáng thương bao! Chỉ trong một buổi tối ngắn ngủi, thông qua diễn
biến tâm trạng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được những những vẻ đẹp khuất lấp
của thị. Thị hiện lên trong tâm thức người đọc là nạn nhân cái đói nhưng ẩn sâu trong
vỏ bọc xấu xí và khốn khổ là một cô gái sâu sắc, lễ phép, ý tứ, thấu hiểu lẽ đời. Thị là
đại diện cho vẻ đẹp thuần hậu, chất phác những cô gái Việt Nam từ bao đời:
“Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”
Tối theo Tràng về, thị đã bộc lộ nhiều nét tính cách tốt đẹp. Đến sáng hôm sau, tâm
trạng và hành động của thị càng thể hiện rõ điều đó. Nàng dâu mới rất biết ý tứ: Dậy
sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh
phúc. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng: “Tràng nom thị hôm nay
khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực....” Tiếng chổi quét sân của Thị
"kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị? Thị "lẳng
lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Nhà văn không miêu tả kĩ nội tâm nhân vật thị, chỉ
để hình ảnh thị hiện lên qua con mắt và cảm nhận của những nhân vật khác. Tràng
cảm thấy vợ mình “khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực”. Bà cụ Tứ
đã có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời
cuộc cho mẹ con Tràng. Hẳn tâm trạng thị cũng thoải mái và vui vẻ thì mới có thể
truyền cảm giác ấy đến mẹ con Tràng.
Trong bữa cơm ngày đói đón nàng dâu dù chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được hai bát lưng đã hết nhẵn” nhưng không khí gia đình vẫn rất đầm ấm. Khi được
mẹ chồng đãi món “chè khoán” “ngon đáo để”. “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa
lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thị nhận ra ngay đó là cháo cám rất đắng, chát,
khó ăn nhưng thị không biểu hiện gì là không vui hay không vừa ý. Thị vẫn “điềm
nhiên và vào miệng”. Đây là một chi tiết rất đắt, vừa thể hiện sự tinh tế, sâu sắc trong
nhận thức vừa là sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ.
Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của
người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền
lòng. Hơn nữa trong sâu thẳm suy nghĩ của thị, thị chấp nhận cuộc sống khổ cực dẫu
tương lai còn mờ tịt. Để có bữa cháo cám này, để giành giật lấy sự sống này, thị đã
phải đánh đổi cả danh dự và nhân phẩm. Bởi vậy hơn ai hết, thị khát khao được sống,
khát khao có được hạnh phúc, khát khao được yêu thương. Thị bây giờ mang một tâm
thế khác, tâm thế của một người vợ, một cô con dâu đảm đang, đúng mực, vun vén
cho gia đình nhỏ của mình. Thị hướng tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ
này chính là người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Thị đã
khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ
đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi trong tâm trí của Tràng. Ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng,
"nàng dâu mới" cũng là người truyền tin cách mạng. Bỏ qua hết những khó khăn, hiện
lên nơi thị, lan tỏa đến Tràng, bà cụ tứ là niềm vui, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.
Mặc dù nhân vật thị không được nhà văn Kim Lân tập trung nhiều bút lực, nhưng
thông qua tâm trạng thị, ta thấy ánh lên vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng.
Nhà văn không đặt tên cho thị, đó cũng là một dụng ý nghệ thuật. Không có tên tuổi
nhưng thị là hiện thân, là đại diện cho những người dân bình dị. Cái đói là một phép
thử khắc nghiệt của nhân cách. Ở đó, người lao động hiện lên với tình người, với lòng
ham sống mãnh liệt. Tràng hay bà cụ Tứ, đặc biệt là thị đều hướng mình tới một tương
lai tươi sáng hơn. Trước cách mạng, người nông dân chưa có đường lối, chưa được
định hướng rõ ràng về con đường giải phóng nhưng họ vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ
và tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Thị siêng năng trong công việc nhà cửa, lễ
phép, đúng mực với bà cụ Tứ, nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc. Đó chính cũng chính là
những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động Việt Nam. Thể hiện vẻ đẹp của con
người lao động là biểu hiện cơ bản của giá trị nhân đạo - giá trị cốt lõi mà Kim Lân
muốn thông qua tác phẩm, thông qua nhân vật truyền tải đến bạn đọc. Với "Vợ nhặt",
Kim Lân từng tâm sự: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi
thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ
đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng,
dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con
người". Thị vẫn sống, sống cho ra một con người như thế.
Bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không
kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc
cùng với ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn
Bắc Bộ và bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế. Kim Lân đã khéo
léo xuất hiện mà bộc lộ hết tâm trạng và những phẩm chất tốt đẹp của mình. Kim Lân
chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được
tâm lý của người phụ nữ.Thị tuy bị cái đói làm méo mó cả nhân hình và nhân cách
nhưng khi được sống trong tình người, tâm trạng thị đi từ buồn tủi, lo lắng, mặc cảm
đến tràn đầy hy vọng, thị được trở lại với bản chất tốt đẹp của mình, cũng là vẻ đẹp
của người lao động Việt Nam trước cách mạng.
Kim Lân là nhà văn viết ít, nhưng các tác phẩm của ông đều đem đến những giá trị to
lớn. Nói như nhà văn Nam Cao thì “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên
tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”. Trong truyện
ngắn “Vợ nhặt” quả thực Kim Lân để thị “đau đớn” trong cái đói và vượt qua bờ cõi
giới hạn của nhân phẩm và danh dự để rồi được trở về “phấn khởi” trong vòng tay bác
ái của Tràng, của bà cụ Tứ . Thông qua tình huống nhặt vợ trớ trêu, dở khóc dở cười,
tác giả ngầm khẳng định một chân lý: “Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện
hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”. (Nguyễn Khải)
Phân tích về nhân vật Thị - Mẫu 2
Đề tài về số phận của người phụ nữ luôn được ví như "mảnh đất màu mỡ", được nhiều
tác giả khai thác trong các tác phẩm của mình. Đến với văn chương trung đại, ta được
thấy sự đức hạnh, tài hoa mà cũng thật bi thương, bất hạnh của họ qua "Chuyện người
con gái Nam Xương", "Truyện Kiều". Trong kháng chiến, ta ca ngợi vẻ đẹp của
những người phụ nữ kiên cường, anh dũng, trung hậu qua "Người mẹ cầm súng",
"Bếp lửa", "Những ngôi sao xa xôi",... Nhà văn Kim Lân thì có một góc nhìn khác.
Với "Vợ nhặt", ông đã đưa đến hình ảnh của người con gái có số phận đáng thương,
gần như bị tha hóa bởi nạn đói nhưng vẫn luôn khao khát, hi vọng về tương lai. Đó
chính là "thị", một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Xuyên suốt truyện ngắn, Kim Lân không hề giới thiệu thị là ai. Cô không có quê
hương, gia đình, không có hoàn cảnh xuất thân hay danh tính rõ ràng. Cô xuất hiện
trong đám con gái "ngồi vêu ra" trước cửa nhà kho để nhặt những hạt rơi vãi, hay ai có
việc gì cần thì gọi đi làm. Đến cả cái tên cô cũng không có. Nhà văn chỉ gọi cô là "thị"
- một danh từ chung dùng cho tất cả những người phụ nữ. Người đọc có thể hiểu được
thị chính là đại diện cho số phận của rất nhiều những cô gái khác trong nạn đói, phải
lưu lạc đầu đường xó chợ, không nơi nương tựa. Nhưng may mắn hơn, thị được anh
cu Tràng "nhặt" về làm vợ. Từ "nhặt" đã cho ta thấy sự rẻ mạt của con người trong
thời kì đó. Con người như vật vô giá trị sống lang thang, được "nhặt" về như cọng rơm, cọng rác ngoài đường.
Chính vì nạn đói mà ngoại hình của thị chẳng thể nào khá được. Dáng người của thị
"gầy sọp", "quần áo thì tả tơi như tổ địa". Trên "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt" chỉ nhìn
thấy hai con mắt. Ngực thì gầy lép. Thị cũng giống như rất nhiều người dân khác lúc
đó, vì không có cái ăn nên người trông ốm yếu, nghèo nàn, đáng thương.
Cái đói, cái nghèo không chỉ làm cho ngoại hình của con người biến dạng, xấu xí mà
cả tính cách cũng trở nên ích kỉ, chua ngoa hơn. Thị cũng thế. Khi Tràng buông lời
trêu chọc, thị cong cớn không tin. Thế nhưng chỉ cần có "cơm trắng mấy giò", cô liền
"lon ton lại đẩy xe cho Tràng", lại còn "liếc mắt cười" đầy tình tứ. Lần thứ hai gặp lại,
thị "chạy sầm sập đến" chỗ Tràng, "đứng trước mặt hắn sưng sỉa", chất vấn anh tại sao
lại nuốt lời. Thậm chí, thị còn từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, làm
no cái bụng đang đói meo của mình. Sau khi nghe thấy lời mời "Đấy, muốn ăn gì thì
ăn", thị lại "đon đả", hai con mắt lập tức "sáng lên". Rồi, Thị ăn một chập bốn bát
bánh đúc. Ăn xong, Thị lại chấp nhận lời bông đùa của Tràng mà theo anh về làm vợ.
Đọc đến đây, độc giả nhận thấy rằng thị chắc hẳn là người đàn bà đanh đá, chua ngoa,
sẵn sàng vì miếng ăn mà đánh đổi, chẳng còn để tâm đến thể diện hay thái độ ý tứ, nết
na mà người con gái cần có. Thế nhưng ẩn sâu bên trong cô lại là nét hiền thục, e thẹn
đã bị cái đói làm cho lu mờ đi. Tính cách ấy chỉ được bộc lộ khi thị theo Tràng về nhà.
Trên đường đi về, cô vô cùng ngượng nghịu "đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt", "Thị có vẻ rón rén, e thẹn", "chân nọ bước díu
cả vào chân kia". Vào đến nhà, cô chỉ dám ngồi ở mép giường. Gặp bà cụ Tứ, cô cũng
rất ngại ngùng, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Trải qua một ngày có quá nhiều thay đổi,
sáng hôm sau, thị trở thành người vợ hiền hậu, đúng mực. Cô chẳng còn vẻ chao chát,
chỏng lỏn ngày trước mà cùng mẹ chồng dọn dẹp lại ngôi nhà. Nghe lời mẹ "lẳng lặng
đi vào bếp" lấy đồ ăn. Thậm chí, nhìn thấy nồi cháo cám, "mắt thị tối lại" nhưng cô
vẫn điềm nhiên cho vào miệng. Chi tiết này đã thể hiện sự ý tứ, tôn trọng mẹ chồng
của thị. Chính ra, thị cũng là người con gái nết na, hiền thục. Nhưng có lẽ những tháng
ngày lang thang đã cướp đi vẻ đẹp ấy của cô, biến cô trở thành người đàn bà chua
ngoa, đanh đá, không có lòng tự trọng. Từ đó, người đọc thấy được cái nghèo, cái đói
có thể che lấp đi mặt tốt của con người nhưng không thể hoàn toàn xóa bỏ những điều tốt đẹp ấy.
Tuy khó khăn là thế nhưng ta vẫn phải dành lời khen cho thị vì cô luôn giữ được khát
vọng sống mãnh liệt. Tuy mới chỉ gặp Tràng hai lần, không biết anh ta là ai nhưng Thị
vẫn chấp nhận theo anh về nhà. Cô biết rằng người đàn ông cho mình ăn này sẽ là
"cọng rơm" cứu mạng cô, cưu mang cô trong nạn đói. Miễn chỉ cần có một chỗ trú khi
trời mưa giông bão, cô không cần đến sính lễ hay đám cưới. Khi nhìn thấy gia cảnh
nhà Tràng, tuy thất vọng nhưng Thị vẫn "nén một tiếng thở dài", chấp nhận lựa chọn
của để mình có cơ hội sống tiếp. Không chỉ có khát vọng sống mãnh liệt, thị còn có
niềm tin vào tương lai tươi sáng. Cô đã kể lại câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của
Nhật trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang cho Tràng và bà cụ Tứ nghe. Từ đó, gieo vào
lòng họ hi vọng về tương lai ấm no, hạnh phúc.
Để miêu tả thị một cách chân thực, Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc
sảo, lối kể chuyện tự nhiên, độc đáo cùng với những ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
Ngoài ra, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn cũng giúp cho nhân vật bộc lộ những nét
tính cách, phẩm chất thú vị. Lai lịch, ngoại hình và sự biến đổi trong tính cách của thị
cũng phần nào cho ta thấy được hiện thực xã hội khi đó. Nhân dân ta bị thực dân Pháp
và phát xít Nhật bóc lột nặng nề. Mạng sống con người như rơm rác, cái đói khiến con
người bị tha hóa về cả ngoại hình lẫn tính cách. Từ nhân vật thị, nhà văn cũng muốn
thể hiện khát khao về quyền được sống, về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc đời ấm no,
hạnh phúc của tất cả người dân thời bấy giờ.
Thị là một nhân vật độc đáo, khác lạ trong truyện ngắn của Kim Lân nói chung và nền
văn học Việt Nam nói riêng. Không đi theo logic về những số phận bi kịch thông
thường, cô được nhà văn xây dựng với một hình tượng đáng thương nhưng vẫn sáng
lên khát vọng mãnh liệt. Tuy chỉ là người vợ được "nhặt" về nhưng chính Thị đã khiến
anh cu Tràng trở thành người đàn ông chín chắn, đem lại làn gió mới cho xóm ngụ cư,
cho gia đình bà cụ Tứ. Từ đó, tác giả muốn gửi gắm niềm hi vọng vào sức mạnh của
tình người, của tương lai tươi sáng cho dân tộc.
Phân tích Người vợ nhặt ngắn gọn - Mẫu 3
Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật
trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể
nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.
Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để
kiếm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt
toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ
quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm thương: “cái ngực lép
nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức sống “trũng hoáy” lại. Trong không
khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người” “người chết như ngả rạ” “người sống xanh xám như những bóng ma”. Và
dường như cánh cửa thần chết cũng đang dần mở ra với thị.
Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những
thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể
ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần
đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt cười tình. Nhưng
sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại, thị “sưng sỉa” chạy thẳng
đến chỗ Tràng mà mắng.
Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi
đâu mất cả, thi cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò
chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ
lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định
thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một
con người khủng khiếp đến vậy sao?
Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới
gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Lòng ham
sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám
víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái.
Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham
sống của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự
độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.
Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không
hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy
ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái
thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc
biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi.
Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra:
“Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực
không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời,
thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà
cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.
Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là
người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ
tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm
tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao
trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt.
Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là
nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về
tương lai, về hy vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói
và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt
của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch
giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo
thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.
Nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 4
Khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ
tài sắc mà số phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng. Ta từng bắt gặp những người phụ
nữ lận đận trong ca dao, một nàng Kiều trong những lời thơ của Nguyễn Du, hay hình
ảnh chị Dậu trong đêm tối không lối thoát… Nhưng với Kim Lân, nhà văn lại chọn
một hình tượng người phụ nữ đặc biệt. Đó là hình ảnh một người phụ nữ được nhìn
nhận trong nạn đói khủng khiếp, vì miếng cơm mà sẵn sàng đánh đổi cả lòng tự trọng,
liều mình theo một người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với bốn bát bánh đúc. Thế
nhưng, ở người phụ nữ ấy, Kim Lân vẫn phát hiện ra những vẻ đẹp tưởng chừng như
đã bị cái đói che khuất đi. Cùng phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác năm 1954 với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
Tác phẩm viết về cái đói và hiện thực khốc liệt của nạn đói 1945 nhưng thể hiện niềm
tin vào cuộc sống và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo
khổ như chính Kim Lân đã nói “Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những
người nói dù thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin
tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.
Vợ nhặt kể về một gia đình nghèo trong nạn đói năm 1945. Tràng là một thanh niên
chưa vợ, sống cùng mẹ trong xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói lên đến đỉnh điểm và tung
hoành khắp nơi, anh lại dắt về một người vợ. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng rất bất ngờ
về điều này nhưng bà nhanh chóng hiểu ra mọi chuyện và chấp nhận người đàn bà xa lạ này là con dâu.
Có nàng dâu mới cuộc sống gia đinh Tràng bắt đầu có sự thay đổi. Dù bữa cơm ngày
đói thảm hại nhưng cũng không khiến cho mọi người mất niềm tin vào tương lai. Đặc
biệt, niềm tin ấy càng được tô đậm hơn qua câu chuyện người vợ nhặt kể về đoàn
người phá kho thóc cứu đói. Và người vợ nhặt, trong câu chuyện này, đóng một vai
trò rất quan trọng vừa lại nạn nhân bi thảm của nạn đói, vừa là người mang đến niềm
tin ánh sáng tương lai cho gia đình bà cụ Tứ.
Trong quá trình phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy người phụ nữ này hiện
lên với một số điểm chính. Thị là người có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói,
là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc, khao khát cuộc sống bình dị. Bên cạnh đó,
Thị cũng là người làm thay đổi cách nghĩ của Tràng và cũng là người mang đến niềm tin cho cả gia đình.
Nhân vật thị xuất hiện không tên tuổi, không gốc gác, không gia đình. Tất cả những
thông tin về thị đều là một số không tròn trĩnh, thậm chí là không có một cái tên rõ
ràng chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây dựng nhân vật như vậy gợi một
thân phận mờ nhạt, đáng thương. Và có lẽ thân phận ấy không chỉ của riêng thị mà
còn của rất người những con người khác trong nạn đói. Thị chỉ như một mảnh đời trôi
dạt, vô danh và hèn mọn.
Cái đói đã làm cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, lần
trước gặp Tràng, thị còn hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần
thứ hai thì chính Tràng cũng ngạc nhiên về sự thay đổi của thị “hôm nay thị rách quá,
quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.
Còn về nhân cách thì thị quên đi cả sự ý tứ của một người phụ nữ mà trở nên suồng sã
đến bất ngờ “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà trách mắng Tràng “Điêu!
Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý
Tràng để được ăn. Khi Tràng đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của thị tức thì sáng
lên” và “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn bánh bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”.
Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc nhận ra đó là hình tượng đáng thương hơn đáng
giận. Cái đói, cái chết dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị
còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau khi ăn bốn bát bánh đúc và một câu
nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được khắc họa
với những dằn vặt nội tâm hay với những ước mơ hoài bão mà mọi hành động suy
nghĩ của thị chỉ quẩn quanh miếng ăn, cái đói, cái chết.
Đó là thân phận bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến đường cùng. Đây cũng chính là số phận
điển hình cho những người nông dân trong nạn đói bị cái ăn dày vò, bất chấp cả phẩm
giá. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua con mắt của một
người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó hiện lên một cách thật trần trụi.
Cuối cùng, cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân khi theo Tràng về làm vợ vì lúc này cô
cần một chỗ dựa, cần một miếng ăn để tồn tại và cần một mái ấm gia đình. Phân tích
nhân vật Thị, ta thấy hình ảnh cô dâu vu quy trong ngày đói cũng thật xót xa. Cô đi
sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách
tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ “rón rén, e thẹn”.
Không còn là người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén
ấy chính là biểu hiện của lòng tự trọng, ý thức về phẩm giá của mình. Thị ý thức được
rằng mình là người vợ theo không, không có chút tôn nghiêm nào và đây cũng là con
đường duy nhất. Tràng trở thành điểm tựa, cái phao duy nhất mà thị có thể bám víu vào trong lúc này.
Cô rất lo lắng, ngập ngừng và có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng. Nhìn xung
quanh nhà Tràng thì có thể đoán được gia cảnh của Tràng cũng không khá khẩm hơn
thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi có dại”, vào trong nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa, hai cái
ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”.
Trước tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một
tiếng thở dài”. Ngôi nhà là nơi sự sống được ấp ủ, nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà
của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang lạnh như cạn cùng sự sống khiến cho thị đành
ngậm ngùi. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó lo lắng, bất an, chông
chênh đến tội nghiệp, hoang mang cho những ngày tháng tương lai sau này.
Thị cũng chẳng biết quyết định theo người đàn ông này có đúng hay không, chẳng biết
những ngày tháng sau này sẽ như thế nào. Phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra, khi
chấp nhận theo không một người xa lạ về làm vợ, thị đã phó mặc số phận của mình
cho cuộc đời. Nhưng cuộc đời lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn ông hào
phóng sẵn sàng cho thị bốn bánh đúc chỉ qua vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh cũng
không khá hơn thị là bao, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn. Thị thương cho cuộc đời
mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận.
Và nỗi niềm của Thị lúc này đây ngoài buồn tủi cho số phận mình, Thị còn rất bất an.
Bởi cô không biết liệu mẹ Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu, có
chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì
thế, khi mẹ Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào. Trước mặt mẹ chồng, thị
càng rụt rè khép nép hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng chỉ dám “đứng nguyên
một chỗ không nhúc nhích”.
Dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng khiến bà mẹ già xót xa,
ái ngại. Chính cái dáng vẻ ấy của thị, đã khiến bà cụ Tứ động lòng thương. Với con
mắt của một người từng trải, bà cụ hiểu tất cả mọi chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị
không bằng ánh mắt dò xét như mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị với ánh
mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận của thị.
Khi chính thức trở thành vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi bất ngờ hay có lẽ đó
mới chính là con người thật của thị trước khi bị cái đói làm mờ mắt. Cô thức dậy sớm
cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách xưng hô với Tràng “sao nhà biết” và
“nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn
vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”
Phân tích nhân vật Thị, ta thấy trong hoàn cảnh này thì Thị đã bắt đầu biết vun xén
cho cái gia đình nhỏ của mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước bữa ăn ngày đói.
Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay mẹ chồng, ban đầu “hai con mắt thị tối lại”
nhưng rồi “điềm nhiên và vào miệng”. Cô chấp nhận số phận hiện tại và cũng không
muốn làm bà mẹ thêm tủi cực, xót xa.
Phân tích nhân vật Thị để thấy dù có hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị đã may mắn tìm
được những con người giàu tình yêu thương sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị
hơi ấm của tình người, của cuộc sống. Chính điều ấy đã trả lại cho thị bản chất tốt đẹp
và thắp sáng lên trong thị khát khao tình yêu, khát khao một cuộc sống hạnh phúc
Xuất hiện ở nơi mà nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc nhất, nhưng có ai
ngờ sự xuất hiện của thị đã mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói,
trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện bởi cái chết đang đến dần thì hôm
nay bỗng vang lên. Trẻ con thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những người dân
xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám, ảm đạm hơn.
Không chỉ ảnh hưởng đến người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn
mang đến sức sống hy vọng cho gia đình Tràng. Căn nhà cũng thay đổi không còn
xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét nước, thu
dọn sạch sẽ gọn gàng.
Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được
đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước đầy
ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”.
Và thị còn khiến Tràng thấy mình nên người trưởng thành hơn, bắt đầu biết sống có
trách nhiệm hơn với gia đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa niềm tin, lạc
quan. Phân tích nhân vật Thị ta thấy, niềm tin ấy tuy nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ
lớn dần lên trong lòng bà cụ. Bà cũng cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà đón chào một cuộc sống mới.
Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của bà
bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau
chuối thái rối nhưng cũng đủ để gắn kết những con người này lại với nhau tạo nên một
không khí gia đình ấm cúng, hòa hợp.
Điều quan trọng hơn, thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là người đầu tiên kể
cho cả nhà nghe câu chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu
đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến
Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình không tham gia vào đoàn người đi phá kho thóc
mà Tràng từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng là người báo tin cách mạng. Và điều
ấy đã dự cảm trước sự thay đổi trong tương lai.
Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình
tính cách cho đến số phận. Phân tích nhân vật Thị để thấy đây là hình tượng có ý
nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp cho những người nghèo đói, cho khát vọng
sống mãnh liệt và ước muốn có một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
Phân tích nhân vật Thị để thấy khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chở che,
cô trở về đúng với bản chất tốt đẹp của mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người
đọc. Người phụ nữ ấy xuất hiện trong tác phẩm tuy không mang vẻ đẹp kiêu sa lộng
lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến làn gió tươi mát cho căn nhà u
ám đang bên bờ vực của cái chết.
Người vợ nhặt chính là đại diện tiêu biểu cho số phận con người trong nạn đói thảm
khốc năm 1945. Qua đó, nhà văn đã lên án tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và
phát xít Nhật. Đồng thời, Kim Lân còn thể hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận
những con người nghèo khổ. Nhưng Kim Lân dù khắc họa họ là những nạn nhân khổ
đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị đời thường.
Đó là vẻ đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của khát khao hạnh phúc, trong
hoàn cảnh tối tăm vẫn hướng về một tương lai tươi sáng.
Phân tích Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 5
Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn của nền
văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông
thôn và hình tượng người nông dân. Có lẽ vì sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó
khăn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người nông dân nghèo,
những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong kho tàng tác
phẩm của ông, truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất, và trong đó nhân vật
Thị là nhân vật đem lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho độc giả.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lâm xây dựng là một người phụ nữ không tên tuổi,
không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Tác giả gọi nhân vật bằng đại từ
phiếm chỉ "Thị", "ả", "người đàn bà" cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của
nhân vật, nhưng đây cũng là cách mà tác giả gợi đến cho người đọc hình ảnh của bất
cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói, cùng đường và liều lĩnh trong xã hội thời đó.
Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên
khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ
dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm
hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.
Lần đầu tiên gặp Tràng, khi nghe câu hò của Tràng: "Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại
đây mà đẩy xe bò với anh", Thị đã vùng đứng dậy đẩy xe cho Tràng. Ở lần gặp thứ hai,
Thị sưng sỉa đến mắng Tràng vì không giữ lời hứa, Thị từ chối lời mời ăn trầu của
Tràng để được ăn một thứ có giá trị hơn. Khi được mời ăn thì Thị mắt sáng lên, không
ngại ngùng mà "ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì". Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Nhưng ôi chao,
đó đâu phải bản chất của Thị, là cái đói cái khổ cào cấu ruột gan đã khiến Thị quên
hẳn ý tứ, đánh mất đi sự e thẹn vốn có của người con gái trước mặt một người đàn ông
mới quen. Khi nghe Tràng nói bông đùa: "Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về" mà "Thị về thật". Có thể thấy, đến cả việc lấy chồng, theo
một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định theo bản năng, dù
cho ánh nhìn và những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư đang nhắm thẳng vào
Thị khiến Thị xấu hổ, tủi nhục. Tuy nhiên, từ chi tiết này ta cũng có thể thấy hình ảnh
một người con gái có lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là để được sống
chứ không phải loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị không cần mai mối, không cần cưới
hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo Tràng về nhà chỉ với hy vọng có miếng ăn.
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất,
thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: "Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy
lép nhô lên, nén một tiếng thở dài". Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn
vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã
rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta chỉ
nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ "ngồi mớm xuống mép giường,
hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần".
Khi gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng, Thị lại quay về dáng vẻ khép nép, e thẹn của người
con gái mới về nhà chồng. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ
tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên
thì vẻ đẹp ấy đã trở về với Thị. Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình: "Nhà cửa,
sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo
rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai
cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn
tung bành ngay lối đi đã hót sạch". Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u
ám của hai mẹ con Tràng, khiến sự sống trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy
khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: "Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh". Còn bà cụ Tứ thì "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Vẻ đẹp tiềm tàng của người vợ nhặt này
còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi được mẹ
chồng đưa cho bát chè cám "đắng nghét, nghẹn bứ nơi cổ họng", hai con mắt chị ta
thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất
đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn
bà tưởng chừng như đanh đá, trơ trẽn. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị
không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Cuối cùng
cảnh Thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá
kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của Thị, người đàn bà
này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là
Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật Thị trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng
ngàn người phụ nữ nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói
năm 1945. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và
Pháp khi gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được
sống đúng nghĩa là một con người. Cũng qua tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc
họa nên hình ảnh người vợ nhặt vô cùng thành công. Tác giả chú trọng khắc họa từng
hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ
nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ
đẹp của nhân vật. Từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ
Việt Nam dù họ không có vẻ ngoài đẹp đẽ hay ở trong hoàn cảnh lầm than.
Phân tích nhân vật Vợ nhặt - Mẫu 6
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ đã không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với
nhân vật này, tác giả Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân
văn, đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được cũng được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng
quẫn. Thị không có bất cứ giá sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, nếu Thị chỉ được
gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng chính là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai
lần đã gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Thị không có họ hàng,
cũng không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình
chống đã lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi
của những cái chết, hàng ngày, hàng giờ, và cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc
hác, gò má cao, không còn một chút sự sống.
Chính hoàn cảnh đã bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự
trọng của chính bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, và cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống
của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn cả nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được
thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với nhân vật Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là
người đã không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, nàng Thị đang ton ton chạy ra, híp
mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho anh Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị
đánh mất sự e dè, và thẹn thùng vốn có.
Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, đã vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp
gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào cả, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập
chạy đến, đứng trước mặt mà nói là: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi
nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị đã không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn
một chặp hết cả bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô
tục, đã lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, và liều
lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất đối với con người đã bị bán rẻ vì
miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ có cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều
người dân Việt Nam rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ có một câu nói đùa
của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ nagy. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu
đó , thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi được sự truy đuổi của thần chết.
Cũng như nhân vật Tràng, sau khi đã lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô
cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lý, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý
của người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng và đi cạnh Tràng. Những biểu
hiện ở dáng điệu đó cho thấy cái sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lý của thị. Đó
cũng là biểu hiện đầu tiên là đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã
không còn như trước. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai và
về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, với cái
ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghế ở mép
giường, tay ôm chặt cái thúng.
Trước mặt mẹ chồng, cô cũng đã lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi.
Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một sự tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần
đầu tiền đối diện với người mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng
trong những cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho
thấy, đó là cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm
sâu bản chất đó thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong cái tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị đã lấy
chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, khi thị hôm nay đã khác hẳn, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu, rất đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần
gặp ở ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ việc làm hết
sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ đã nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước
nhà cửa,… khi đó Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của
Tràng. Tất cả những hành động đó cũng đã cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô đã
cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng thật
mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.
Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có một sự biến chuyển trong nhận
thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, và bởi sự dồn đổi của
cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc
tỉ tê của nhiều những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới chính
là nồi cháo cám mặn chát, và lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn
thị vẫn còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật nhà văn Kim Lân lại chọn thị chứ không
phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, đã phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người
dám đánh đổi tất cả, và kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh
phúc ở họ là không thể đi hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con
người đã ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cũng
cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn là Thị sẽ theo cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được tác giả Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ
đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, với cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung
khắc họa ở cử chỉ, nơi hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.
Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, nhà văn Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất
hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nhiều người nạn
đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, với lòng tự trọng của nhân vật.
Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn chính là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ
tính, và biết vun vén có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có
niềm tin và có những mãnh liệt vào tương lai.
Phân tích Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 7
Nhân vật “Thị” là một trong thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân
tích tâm trạng của người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945.
Nhân vật vợ Tràng đã được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, và có vai trò
tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt.
Trận đói đã đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ khi quạ bay
vù lên như những đám mây đen trên bầu trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng
Nam Định, rồi Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, đã nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra”
cùng với mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, và không rõ quê quán, tuổi
tác. Chắc cha mẹ và anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả và lần
đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, Thị đã bị mấy cô bạn “đẩy vai”.
Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng rằng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói
khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng này “thích lắm”. Lần sau,
Thị gặp lại Tràng thì thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa và Thị gầy sọp đi.
Khuôn mặt lưỡi cày đã xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm,
đó là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế
mà đã mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, và hai con mắt “trũng
hoáy” của Thị tức thì đã sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị
đã ăn cắp liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, và lời khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết
đùa, và biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, khi nói với Tràng rất lẳng lơ:
“Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ có một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì
có vợ…”, thế là Thị đã theo về ngay, “Thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng
teo… rúm ró” của người mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái
ngực gầy lép nhô hẳn lên, đã nén một tiếng thở dài”.
Từ dáng điệu, đến cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ và sỗ
sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày và bị cái đói hành hạ đến chết đói là điều cầm chắc
là cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói của bản chất tốt đẹp
của người con gái đã bị nạn đói, khi cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi họ
thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ không:
“Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!” (Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ ấy không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách
kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, và nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động ấy.
Chỉ qua một ngày một đêm, và sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới”
của bà cụ Tứ, ta đã thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như
bao người phụ nữ khác. Dù cho kề bên cái chết, cô gái này đã vẫn khao khát hạnh
phúc, muốn được sống trong mái ấm của gia đình, một mái ấm tình thương, đã có
chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của những
bà con xóm chợ, Thị “ngượng nghịu, với chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe
bọn trẻ con nó gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, Thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa
tay hướng lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn và thực sự lo
lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương và bỡ ngỡ:
“cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Nghe bà cụ Tứ đã nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây để cho đỡ mỏi chân”
Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó chính là tâm trạng của một người con gái
lấy chồng không một quả cau, một lá trầu và không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho
duyên số đó thật đáng thương!.
Thị cũng có rất nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần
đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng vào Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”.
Một lời trách nhẹ chồng là: “… chuyện đại thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán
Tràng rồi kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày,
chạy đói, và sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần,
Thị cũng đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị sẽ có
sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động với niềm khát khao hạnh
phúc của một người phụ nữ trong khi đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng bằng
nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện biết bao trân
trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của nhân vật vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu
dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, và xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của
Thị đã “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị và
khi Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất là đáng
yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, khi Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát
đũa, và thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, với thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ
con Tràng cũng Nghe tiếng trống thúc thuế, khi Thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên
mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không có chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc
của Nhật chia cho những người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng
là “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong câu truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên
án tội ác tày trời của Nhật và Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng
bào ta đã bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp cũng đã hạ thấp nhân
phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người và con gái như một thứ
đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, khi về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách
như tổ đỉa, với bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, và
tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, là nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” cũng đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong
đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, khi nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no và
hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, rồi san sẻ vật chất và tình
thương cho nhau để vượt qua thử thách nơi khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và
sự đổi đời với niềm tin và sự: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ,
anh cu Tràng, và nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo ở tác phẩm “Vợ nhặt”.
Phân tích Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 8
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và
những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật
nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn
chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ
sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn
nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm
hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than
khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội
cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân,
đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất - nạn đói năm 1945. Nhân
vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị
tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân
vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác,
không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng
của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của
thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945,
tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường.
Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những
bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó
lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong
bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng
hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần
những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác
trong nạn đói kinh hoàng.
Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng
khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây
khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị
sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà
không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà
mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng
hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một
chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang
miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một
người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ
trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị. Nạn đói nó khiến cho tâm
hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại,
nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra
rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu
người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình
thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng
khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì
những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được
miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc
sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những
khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những
lúc khó khăn như này. Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói
đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại
nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ
cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú
chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là
thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng
cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau
chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như
vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng
phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những
người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng
vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ
là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ
có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên
đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón
tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một
cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái
ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo
không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân
kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của
một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất
vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để
cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở. Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị
tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở
thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một
tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để
Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt
qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ,
khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại
ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong,
gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,... Không khí gia đình trở nên hòa
hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng
ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên
và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc
lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già
thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên
bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám. Và trong không khí gia đình vui vẻ
ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị
kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc
của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này
không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng
đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng
triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong
cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn
quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy
vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo
mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt - Mẫu 9
Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng
khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng
tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả
chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi
lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là
nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ
nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không
tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban
tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người
đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương
trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt
thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất
bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói
trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn
đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như
không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn
nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo
bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa
quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng
thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự
khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước
đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”,
“sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái.
Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu
nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng
về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều
không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy
nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ.
Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ
được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa?
Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của
rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo
không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt
thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống
ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người
năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết
một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa
trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh
thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một
tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ
trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu
đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước
cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng
thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn
phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..
Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp.
Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng.
Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với
đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia
trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và
trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong
ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm,
rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như
mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại
ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới
trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên
mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn
cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị,
đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon
đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó,
người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế,
thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị
làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho
thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau
đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà
văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí
được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân
vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng
dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những
phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai
Phân tích nhân vật người vợ nhặt - Mẫu 10
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân
được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ
nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái
hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước
ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật
người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều
đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn
trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu
đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định dành cho chị
và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như
chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những
nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép,
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.
Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và
liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt
cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn
“đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng
mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa
quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi
nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp
nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng
cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan,
biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ.
Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng
thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia
đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia
đình, bất chấp ngày mai ra sao.
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói
trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này,
chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao
động. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một
người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ
bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng
ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn, ngượng
nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”… . Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh
cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà
chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của
tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương… Hành trang bước đến với hạnh
phúc của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời.
Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày
làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là
hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu
vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ
là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai
có thể lí giải được.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị
tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc
Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ
và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man của thực dân
Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ thái độ đồng
cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ; thái độ trân trọng tấm
lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo; trong
lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua
những thử thách khắc nghiệt.
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người
thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ
Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về
cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống
tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….
Phân tích nhân vật vợ nhặt - Mẫu 11
Nhà giáo Trần Đồng Minh từng có nhận xét rất tinh tế: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm
cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng
tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Và phải chăng “những tia
sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị
đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải đối mặt với cái chết nhưng lại biết cách tỏa
sáng để nâng tầm giá trị của con người. Bằng óc quan sát tinh tế và tấm lòng đồng
cảm sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động khi
xây dựng thành công hình tượng nhân vật Thị và qua đó thể hiện rất rõ số phận của
người phụ nữ trong tác phẩm.
Vợ Nhặt được tác giả Kim Lân lấy chính hiện thực xã hội của nạn đói khủng khiếp
năm 1945 làm chủ đề và tác phẩm cũng đã lột tả được hết thực trạng ấy một cách chi
tiết, sống động và đầy giá trị.
Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí và sau khi xuất bản đã gây một tiếng vang
lớn đối với người đọc đặt biệt là những tình tiết éo le, nhưng cũng đầy cảm động của
truyện. Ở đó hiện lên hiện thực của xã hội khi mà người ta sẵn sàng bỏ qua nhân phẩm,
tư cách của chính bản thân mình vì miếng ăn vì cái đói. Và nổi bật đó là nhân vật Thị
người Vợ Nhặt đặc biệt. Nhưng ở đó là ý nghĩa và giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không
tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến
độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là
người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”,
“thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho
người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi
trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu
vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con
mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng
nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn
tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua
ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến
thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn.
Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi
ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý).
Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu
như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể
theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ?
Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu
bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để
được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.
Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi
sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình.
Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những
con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu
Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ
cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách
tàng che nửa khuôn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán,
thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận.
Nghi ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài
đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm
của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối
với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” thế ngồi
bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ
Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong
quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách.
Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc
cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm
nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.
Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát,
chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ.
Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng,
mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ,
bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia
cho người đói nữa đấy”.
Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh
sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước
có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc
đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù
hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà
văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong
hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.
Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôx-tôi-ep-ki). Vâng, “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống
là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học
Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và
tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc
chính là vẻ đẹp của con người mà ở đây là người nhân vật Thị. Dù là nạn nhân của
nạn đói nhưng ở Thị vẫn có đầy đủ những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đó
là sự chân trọng và tôn vinh của chính tác giả.
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 12
Nhà văn Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,là một trong những nhà văn hiện thực
xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không
đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn lẫn.Một số truyện ngắn của ông được xếp vào
hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn
đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người
chết như ngả ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp
ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói
đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu
chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính
cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ
nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó,
người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không
thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải
chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu
hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô
ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn
bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là
nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra
ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến
thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng
mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh
chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà
đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy
đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh
Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng
hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một
chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt
ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này?
Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo
bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đường trở về nhà của Tràng, thị thay đổi
hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một
mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước,
cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có
vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con
người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ,
thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ
theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp
nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng.
Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân.
Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc
ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo.
Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị
càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy
vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường.
Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người xung quanh.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng
dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, nghèo xơ xác. Thị nén
tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ
dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào
bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ,
khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với
sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng
đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai
đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với
bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô
tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm
nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát
chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người
biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là
tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả
nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế
nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm
như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình,
người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm
ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình
khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng
như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác
phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử
đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là
do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người
đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất
thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để
người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết
rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm
giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng
thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật
này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn.Vợ nhặt một nhân vật vô danh.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt - Mẫu 13
Làm nên một tác phẩm, nhà văn phải có trách nhiệm là bật nên giá trị hiện thực thông
qua nhân vật và cốt truyện của mình. Qua đó, đem đến cho độc giả những cái nhìn,
xúc cảm đặc biệt cảm thông cho thời đại lúc bấy giờ. Và Kim Lân, một cây viết
chuyên về truyện ngắn, về người nông dân, người tri thức nghèo trong xã hội phong
kiến, đã làm được điều đấy. Nếu người ta nhắc về nạn đói, chỉ nhắc về một hiện thực
đầy phũ phàng của xã hội lúc đấy, chỉ nhắc về cái chết đói, chết rét của nhân dân,
nhưng Kim Lân lại khác. Ông viết về những con người mà “dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai”. Trong đó, “Vợ Nhặt” đã thể hiện rõ ràng quan niệm văn
chương ấy. Mà tất cả đã được cô đọng trong văn phong và nhân vật Thị của tác phẩm.
Người phụ nữ Việt Nam trong văn học mỗi khi được nhắc đến sẽ rất mong manh, rất
yếu đuối vì chịu một sự hà hiếp, sự áp bức của xã hội. Thị, một người đàn bà không
tên, không tuổi mà Kim Lân chỉ nhắc tới bằng những đại từ phiếm chỉ. Không rõ ràng
và đầy mơ hồ, cũng như số phận của Thị, người đàn bà “nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có
công việc gì gọi đến thì làm”. Thị là bất kì người đàn bà nghèo khổ nào đấy ngoài kia
đang bị cái đói, cái khổ bủa vây. Nhắc tới thị bằng hai tiếng “vợ nhặt” sao mà thê
lương tới thế. “Vợ” không được cưới hỏi, không được đưa rước về nhà chồng mà là
“nhặt” về, lượm về cũng như một món hàng bị rẻ rúng. Kim Lân dường như đã cho
thấy giá trị bần cùng, thấp kém của con người trong xã hội vào những năm 1945 ấy.
Một thời buổi đầy loạn lạc, bi thương như màu sắc của xóm làng buổi xế chiều “hai
bên dày phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa bóng người đói dật dờ đi
lại lặng lẽ như bóng ma”. Khung cảnh đầy thê lương như dâng lên tột bậc với tiếng
quạ “cứ gào lên từng hồi”.
Hai lần Thị gặp Tràng đã vẽ nên bức chân dung và cho thấy sự tàn khốc của nạn đói
được nhắc đến. Từ một cô gái đầy sức sống “liếc mắt, cười tít…ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng” khi nghe Tràng hò hát vu vơ:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Mà thoát cái đã “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã bị cái đói đầy vào lối cụt, đẩy Thị vào
bước đi cuối cùng. Thị bỏ cả cái gọi là danh dự và tôn nghiêm của mình. Thị không
mất mặt nữa,”cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa
quệt ngang miệng”. Cái đói vắt kiệt cùng sức lực của một con người, mà Thị phải
kiếm một con đường mới, một sự sống mới, thế là thị theo Tràng về nhà. Dù rằng
“Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Thị không về thì sẽ thế nào? Nhân
phẩm, danh dự cũng không cứu nổi Thị, Thị mặc tất cả theo lời nói đùa ngô nghê của
Tràng mà Thị cứ tự cho đấy là thật vậy: “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng
lên xe rồi cùng về”. Không về thì có lẽ những ngày sau, trên phố “người chết như ngả
rạ”, trong “ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường” sẽ có Thị. Bởi cái đói cứ như
con quỷ dữ, hiện hình cho bọn thực dân đang bóc lột người dân miền Bắc nói riêng,
chúng dồn họ vào con đường chết để trục lợi cho mình. Liệu một người đàn bà như
Thị có còn sức để chống đối, Kim Lân đã cho Thị con đường sống.
Mà phải chăng chính Thị cũng là một điều tươi đẹp, một tia sáng le lói nhưng làm ánh
lên cái đẹp trong bức tranh u ám đấy. Thị theo Tràng về trong con mắt săm soi của
những người đàn bà khác: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi
nhau sống qua được cái thì này không?”. “Người đàn bà như cũng biết xung quanh
người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, Thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả
vào chân kia”. Nhưng sự xuất hiện của Thị cũng “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi
vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Không còn vẻ “chỏng lỏn như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh”, “Thị có vẻ rón rén, e thẹn…Thị vẫn ngôi mớm ở mép giường,
hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Có một chút buồn, một chút thất vọng
trong tâm trí Thị, “cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Liệu rằng họ có nuôi nổi Thị hay không?
Nhưng Thị đâu trơ trẽn, đâu như những con người bị bần cùng hóa, thị vẫn là người
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Thị gặp mẹ Tràng vẫn chào hỏi, vẫn lễ phép kính cẩn. Thị là con người khéo léo, biết
vun vén cho gia đình. Thị là người mang đến sự đổi mới trong nhà Tràng, nhờ có Thị
mà Tràng mới cảm nhận được không khí gia đình. “Xung quanh mình có cái gì vừa
thay đổi mới mẻ, khác lạ.Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn”. Dù bát chè khoán mà mẹ Tràng đưa
đầy “đắng ngắt và nghẹn ứ trong cổ”, nhưng thị vẫn không nói gì “điềm nhiên và vào
miệng”. Bởi Thị hiểu hoàn cảnh nhà Tràng, thị biết ơn sự cưu mang của mẹ con Tràng
dành cho Thị. Nếu không đến ngày cả chè khoán đắng ngắt ấy Thị cũng không có để
ăn, sẽ là một cái xác vô danh trên đường đi. “Chưa bao giờ trong nhà này hai mẹ con
lại dầm ấm, hòa hợp như thế”, Thị còn giúp Tràng nhìn ra một tương lai tương sáng
hơn trong cái không khí, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí con người”. Thị kể cho
Tràng nghe cách Việt Minh “phá kho thóc Nhật” chia cho dân nghèo. Điều đó đã làm
trong lòng Tràng một ý nghĩ vẩn vơ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Mà có lẽ một ngày nào đó Tràng cũng sẽ góp mặt, một ý nghĩ chợt lóe lên, như cách
tia sáng, hơi thở mới mà Kim Lân đưa Thị vào cuộc đời Tràng.
Tóm lại, nhân vật Thị không chỉ đại diện cho một lớp người, cho những sức sống
mãnh liệt, khao khát sống tiềm tàng của nhân dân lúc đấy. Thị còn là điểm nhấn, cái
nét bút điểm xuyết làm sáng bừng lên giá trị nhân đạo, và cả hiện thực của “Vợ Nhặt”.
Kim Lân đã cho thấy tinh thần đùm bọc, cưu mang của người với người, đã bộc lộ cái
khát vọng một tổ ấm vẹn tròn của những con người nghèo khổ.
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 14
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói
đầu năm 1945 trong tâm trí của tác giả cũng là trong tâm trí của người dân miền Bắc.
Nạn đói thê thảm bao trùm khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ
nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một trong những nhân vật độc đáo nhất
trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ẩn chứa nhiều quan niệm nghệ thuật và triết lý sống sâu sắc.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói vô cùng thê thảm, thị bị cái đói dồn tới
bước khó khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt
không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái tên riêng cho mình. Cái đói,
cái nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, làm cho chị ta tiều tụy cả về hình dáng:
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “cái bụng gầy lép”, “bộ quần áo rách như tổ đỉa”. Thị
“ton ton” chạy theo Tràng đẩy xe, liếc mắt cười tình. Thị “sưng sỉa” đòi ăn. Thị “chao
chát”, “chỏng lỏn”, “đon đả”: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì!”… Vì miếng ăn nhất
thời mà chị sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ. Vài câu nói tầm phơ tầm
phào và bốn bát bánh đúc mà thị trở thành vợ “nhặt về” của anh phu Tràng – một kẻ ế,
nghèo, ngơ ngẩn. “Cô dâu” – thị về nhà chồng mà không tài sản, không nhan sắc. Cái
đói khiến thị thành vật vô giá trị. Về phương diện này người vợ nhặt còn không bằng
nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mị tuy bị áp bức
tới vô cảm, chẳng bằng thân trâu ngựa nhưng ít ra còn xinh đẹp và tài hoa. Còn thị,
ngay cả cái phần ưu ái thường dành riêng cho phụ nữ thì tạo hóa cũng từ chối cho
người đàn bà này. Cuộc sống đã đói khổ khiến thị mất đi cái duyên con gái, vừa nghe
được ăn thì đã “ton ton chạy lại đẩy xe bò” cho Tràng. Rồi lại còn “chạy tới xưng xỉa
đòi ăn”, đến khi được ăn thì “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì” và “hai con mắt trũng hoáy sáng lên”. Thị gần như mất hết lòng tự
trọng, chẳng có nét gì là của người phụ nữ nông thôn.
Thế nhưng bản chất của chị không phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất
là do hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Cho nên cho đến khi được hạnh phúc gia
đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam.
Từ khi trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về nhà chồng.
Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác. Thị biết lo toan, vun vén cho hạnh
phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sân vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong,
cái ang khô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới cho căn nhà. Bữa cơm ngày đói
tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng chính thị là người khơi dậy khát vọng
sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. Chi tiết
này đã hé mở con đường giải thoát cuộc đời cho con người và khao khát một tương lai
tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.
Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt”,
Kim Lân đã phản ánh tình trạng thê thảm và niềm thương cảm sâu sắc với số phận con
người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân
cho bản chất tốt đẹp của con người, cho khát vọng hạnh phúc gia đình và hiện thân của khát vọng sống.
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 15
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư.
Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết
tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn
thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng
với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở.
Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không
đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô
ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn
bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là
nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra
ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến
thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng
mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy,
thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta
không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn
đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng
không nhận ra thị là phải.
Khi mới gặp Tràng: Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh
chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà
đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy
xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy
đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh
Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng
hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp
bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo
Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm
tất cả chỉ để được... ăn!
Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng: Trên con đường trở về nhà của Tràng, thị thay đổi
hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một
mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước,
cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón
rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác.
Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về
nhà chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là
người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và
đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên
đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo,
thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con
nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng
ngượng ngiụ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm
thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm
đến nhà "chồng" để tránh sự dòm ngó của mọi người.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới.
Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng
muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép
giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người
mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy
cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những
người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp
nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy
sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng
vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người
đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài
tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ
về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài.
Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người
đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm
như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình,
người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm
ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình
khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng
như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác
phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử
đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là
do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn
bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị
rẻ rúng. Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia
đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe dọa của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung
miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ
nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). Tác giả lại chú trọng
khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của
người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết
mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo
mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa
mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số
phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói
được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người
đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh
ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở
một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau.
Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật
trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng
của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 16
Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm
trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Nhân vật vợ Tràng
được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù
lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam
Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang
khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói "ngồi vêu ra" cùng mấy chị
con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh
chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò "muốn
ăn cơm trắng mấy giò...", Thị bị mấy cô bạn "đẩy vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong
cớn nói với Tràng: "Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?". Thị "liếc mắt cười
tít" làm cho anh cu Tràng "thích lắm". Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn.
Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn
thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách Tràng
là "điêu", "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái túi
khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của Thị tức thì sáng lên. Thị "đon đả" với
anh cu Tràng: "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen:
"Hà, ngon!". Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với
Tràng rất lẳng lơ: "Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!". Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng
"làm đếch gì có vợ...", thế là Thị theo về ngay, "Thị về thật". Khi đứng trong cái nhà
"vắng teo... rúm ró" của mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng "cái
ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài".
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng.
Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. cần được ăn
để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con
gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Thị
có khác gì người ăn mày nọ:
"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!" (Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể,
cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành "nàng dâu mới" của
bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao
người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn
được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những
người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, Thị "ngượng
nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia". Nghe bọn trẻ con gào lên: "Anh Tràng ơi!
Chông vợ hài", Thị "nhíu đôi mày lại", rồi đưa tay lên "xóc xóc lại tà áo". Chưa gặp
bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Đứng trước mặt mẹ chồng, trông
Thị rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt".
Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" Thị "vẫn
khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng
không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính "hay đáo để". Cái "liếc mắt cười tít" lần đầu
gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: "Khỉ gió". Một lời
trách nhẹ chồng: "... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái củng vào trán Tràng kèm
theo câu nói yêu: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Sau bao tháng ngày, chạy đói,
sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, Thị đã trở
thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm
vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ
nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng nhưng đáng quý giá biết bao!
Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và
sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu
dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của Thị
"kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị? Thị "lẳng
lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã
có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực.
Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng
trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng và chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa
đấy". Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố cáo, lên án tội
ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp
đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể "nhặt" được!
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ
đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật
đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ
hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc.
Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau
để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm
tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ
Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt".
Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 17
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm
“Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã
hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân
đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Đó là nhân vật người vợ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn
đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết, người chết như ngả rạ,
không buổi sáng nào người trong làng đi chơi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây
nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây
của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo
nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm , lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế nhọc nhằn sao kể xiết.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của
những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình
huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ trong tác phẩm. Từ
“nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên
niềm xót thương cho số phận con người. “ Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên
hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn
vẹn khi ngay cả một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm
ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi
tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân
nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng
nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người
ta trở nên càng mệt mỏi , chán nản, từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà
ghim vào những nếp nhăn , nếp chân chim, và làn da rám nắng , thân thể gầy gò quắt
queo. . Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi
từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo
lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một
người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút miêu tả
của nhà văn đầy ám ảnh “ Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn” . Một người đàn bà
nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực
đúng là một đôi trời sinh.Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên
nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con
theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như
bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi Thị chỉ ngồi mớm ở
giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẽ đầy lo lắng. Chắc có lẽ Thị nghĩ về cuộc sống
mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của Thị sẽ đi đến đâu.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà,
đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”. Sự băn khoăn lo lắng
của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín
lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là
trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim
Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển
hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Thế nhưng vì thương con, lại một chữ “thương” mà bỏ
qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và
bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão nhìn người đàn bà,
lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra
mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên
đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra
đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói, người chết như rạ ấy thì một bữa cơm
đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao
gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo,
nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt.
Người vợ vẫn ăn mà không một câu than phiền. Xuất thân của Thị cũng có hơn gì ai.
Thị cũng nghèo khó, gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người
ta. Thị cũng là một người vô cùng đảm đang và tháo vát. Khi về nhà Tràng, buổi sáng
sớm tinh mơ, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược.
Dường như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới.
Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, Thị kể
nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên bao niềm khát
khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm đón dâu nghèo nàn
đến đáng thương. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi
nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa
cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến
cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa". Ai cũng muốn có một bữa
cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn,
“nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con.
Và có lẽ trong thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho
những con người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người
đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất
thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để
người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết
rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm
giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng
thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện.ong mái ấm gia
đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 18
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người
nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất
này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập
truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức
tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình
người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Dường
như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để
được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là
một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.
Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”.
Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ
nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang
lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự
đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.
Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường
và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống
được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu
khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham
sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này
đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt nạn nhân của nạn đói năm 1945.
Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng
đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh
Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất
hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản
xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không
thể đặt cho Thị một cái tên mà bởi vì Thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người
đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “Thị”,
“người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho
người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt.
Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng
ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi
cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung
của Thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao,
“áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt
trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến Thị càng nhếch nhác, tội
nghiệp lại càng tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy trở nên thê thảm
hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của Thị mà còn tàn hại cả tính
cách, nhân phẩm. Vì đói mà Thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh
đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến Thị
quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, Thị sẵn sàng “sà xuống
cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó
miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có
cũng chẳng để làm gì .
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống
mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con
gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự
sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên
xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý,
một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng
vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít
nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, Thị
đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con. Thị nào có
biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng
quơ và mấy bát bánh đúc là Thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng Thị theo
Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của
Thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà
không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng
xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của Thị chính là một phẩm chất
rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ
đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng
ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh
lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự
tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là
nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã
đẩy đưa Thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy
ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của
Thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, Thị
có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của Thị. Nhà văn như lọt vào
trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy
cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau
kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và
mến yêu. Ấy là lúc Thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, Thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là
tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà
Thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo
toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là Thị đã ý thức
được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm
lòng của Thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn Thị
niềm lạc quan ấy để Thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là Thị
không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là
chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho Thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình
nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.
Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, Thị lại là một
người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong
nhà, Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào
bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..
Sáng hôm sau, Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà
của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu
vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của Thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột
xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy
“Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực
không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này
Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa
và làm thay đổi con người Thị.
Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng.
Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là
ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người
đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để
hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời
cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả
kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của Thị như đã giúp
Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy
nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.
Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu
trong tác phẩm. Thiếu Thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng
thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính Thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió
mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc
sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của Thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng,
ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà
văn thể hiện ở đây. Chính vì thế, cả hai ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng.
Thị nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng
sau cái cùng đường liều lĩnh ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát
vọng vượt lên thảm cảnh nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày mai.
Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà
văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống trong hoàn cảnh
khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ mất đi niềm tin vào
sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt
thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác của chúng
mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy
hoại tương lai của biết bao con người. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim
Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam
nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 19
Kim Lân là một trong số ít những nhà văn thành công khi viết về cái nghèo, cái đói để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Khi viết về cái đói, Kim Lân không dừng lại ở
việc khơi gợi lòng thương cảm, xót xa mà còn tạo ra một nỗi ghê sợ, ám ảnh về sức
mạnh hủy diệt của nó đối với nhân phẩm và thể xác con người. Tuy nhiên, với thông
điệp “Hãy tin ở con người”, hầu hết nhân vật của Kim Lân, đến cuối truyện luôn tìm
về với bản chất tốt đẹp, đáng quý của mình. Đại diện cho kiểu nhân vật này, chúng ta
có thể kể đến người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn. Đây là nhân vật
bị cái đói xui khiến, sẵn sàng vứt bỏ tự tôn, nhắm mắt đưa chân theo người xa lạ vì
một miếng ăn. Nhưng, ở đâu đó trong con người Thị vẫn luôn tồn tại những phẩm chất
đáng trân trọng của một người phụ nữ truyền thống: đảm đang, biết vun vén gia đình
và cũng đầy tinh tế, ý nhị.
Vợ nhặt là truyện ngắn được sáng tác năm , lấy bối cảnh của nạn đói Ất Dậu 1945.
Đây là tai họa vô cùng khủng khiếp trong lịch sử dân tộc ta cướp đi sinh mạng của
hơn hai triệu người. Kim Lân đã dựng lên khung cảnh “tối sầm vì đói khát”. Ở đó,
“người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Còn người sống thì lay lắt, thê
thảm bởi họ sống nhưng lại chắc rằng cái chết đang chờ đợi mình ở phía trước. Nạn
đói hoành hành dữ dội. Cái đói, cái chết dồn ép con người vào thế chông chênh của
kiếp người. Trần gian nối tiếp địa ngục, khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên
mong manh hơn bao giờ hết.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong tác phẩm không tên tuổi, không gốc gác, quê
quán, không người thân, họ hàng. Kim Lân gọi nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ “Thị, ả,
người đàn bà” cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật. “Thị” có thể là
bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói nào ngoài kia, họ cũng đang chết dần chết
mòn về cả hình hài và nhân phẩm trong cái đói. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim
Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ
đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.”
Ngoại hình của Thị khiến người ta liên tưởng đến một bóng ma, một xác chết hơn là
một con người. Thị là đại diện cho hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha
phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người
phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ
trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.
Lần đầu tiên gặp Tràng, chỉ vì một câu “hò cho đỡ nhọc” của Tràng: “ Muốn ăn cơm
trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị đã cong cớn bám lấy rồi “vùng
đứng dậy” đẩy xe cho Tràng. Lần thứ hai, Thị đến trước mặt Tràng “sưng sỉa” “nhắc
chuyện cũ”. Sau đó, Thị lại không ngại ngùng “ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên,
trơ trẽn quá. Thị hành động theo bản năng sinh tồn, cái đói làm mờ nhân phẩm Thị.
Thậm chí, đến cả việc lấy chồng, theo một người đàn ông về nhà chung sống cả đời
Thị cũng quyết định hoàn toàn theo bản năng. Vin vào câu nói bông đùa của Tràng:
“Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà “Thị về
thật”. Không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo
không Tràng với hy vọng có miếng ăn.
Tuy nhiên, Thị đáng thương nhiều hơn đáng trách. Vẫn biết Thị tự bán rẻ nhân cách,
hạ thấp nhân phẩm của mình, lấy chồng theo cái cách đầy mỉa mai và chua xót, được
người ta nhặt về như món đồ rơi. Thế nhưng, tựu chung lại cũng vì cái đói bức bách
làm khát vọng sống, bản năng sinh tồn trỗi dậy trong con người Thị. Thị giống như
người đang chới với giữa dòng nước lũ, chỉ một cánh tay đưa về phía mình thì dù nó
nhỏ bé, yếu đuối cũng mang lại một niềm hi vọng được sống. Việc Thị cố gắng dùng
mọi cách nắm lấy bàn tay kia vốn không sai, không đáng xấu hổ. Rất nhiều bậc nam
nhi “đội trời đạp đất” giữa sống và chết cũng sẽ lựa chọn như vậy, huống chi Thị chỉ
là một người phụ nữ bình thường.
Tuy nhiên, Kim Lân không hề dừng lại việc khắc họa nhân vật người vợ nhặt ở sự trơ
trẽn, vô duyên. Như chúng ta đã biết, thông điệp khi viết về cái đói của nhà văn là
“hãy tin ở con người”. Chính vì vậy, trong nhân vật người vợ nhặt là cả một sự đối lập
giữa bề ngoài và nội tâm, ban đầu và về sau. Nếu ban đầu Thị cong cớn, chỏng lỏn và
chao chát thì sau khi theo Tràng về nhà, Thị trở lại là người phụ nữ với nét tâm hồn đáng quý, đáng yêu.
Thị cũng biết xấu hổ, ngượng ngùng như bao cô gái lần đầu về nhà chồng.Trên đường
về nhà cùng Tràng, khi biết mọi người xung quanh đang nhìn mình, Thị “ngượng
nghịu chân nọ bước víu cả vào chân kia”. Đằng sau vẻ ngoài rách rưới, xấu xí, Thị
cũng có lòng tự trọng. Thị hiểu vì sao người ta nhìn mình và xì xào bàn tán. Giữa cái
đận đói khát, khi tình yêu là thứ xa xỉ, họ lại dắt díu nhau về để rồi “biết có qua nổi cái
thì này không” . Khi về đến nhà, Thị chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm
khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, Thị chỉ dám “cúi mặt
xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ngay cả khi nghe bà cụ Tứ bảo ngồi xuống, “Thị
vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Và người đọc có lẽ đã phải ồ lên đầy ngạc nhiên
trước hành động “củng tay vào trán” Tràng và mắng yêu: “chỉ được cái thế là nhanh.
Dơ!”. Thị giường như đã biến thành con người khác hẳn, giống như thiếu nữ e lệ mới
về nhà chồng mà không phải người đàn bà chao chát, đanh đá, chua ngoa ban đầu nữa.
Trở thành vợ Tràng, người đàn bà đã làm tốt thiên chức của người phụ nữ, Thị đảm
đang, khéo léo, biết thu vén gia đình, “là người đàn bà hiền hậu đúng mực”. Thị như
một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của mẹ con Tràng. Dưới bàn tay người
phụ nữ, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt
khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để
khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi
đã hót sạch”. Chỉ là những thay đổi hết sức nhỏ nhặt nhưng dường như Thị đã mang
đến cả một thế giới khác cho mẹ con Tràng. Đối với Tràng, hắn cảm thấy “một nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Còn bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm,
tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ở cuối
truyện, chính người vợ nhặt đã dấy lên trong lòng Tràng biết bao dự định, hi vọng
thay đổi cuộc sống , Thị nói: “Ở trên mạng Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không
chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói nữa
đấy”. Chính câu nói của Thị đã gợi lên trong đầu Tràng “đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới”. Có thể không lâu nữa, hắn cũng sẽ đứng trong hàng ngũ những người
đi phá kho thóc Nhật, thay đổi số phận của mình và gia đình. Vậy mới thấy hơi ấm
tình người có ý nghĩa biết nhường nào. Mẹ con Tràng sẵn sàng cưu mang người khác
trong cảnh đói khát và có lẽ họ đã nhận lại nhiều hơn thế. Chính người đàn bà đói khát
lại làm cho cuộc sống của họ hồi sinh một lần nữa.
Không chỉ làm tròn trách nhiệm của một người vợ, một người con dâu trong gia đình,
nhân vật người vợ nhặt còn là một người phụ nữ cam chịu, hi sinh và có lòng cảm
thông sắc. Theo một người đàn ông xa lạ về nhà, Thị hi vọng có nơi bấu víu để vượt
qua cơn đói khát. Thế nhưng, khi về tới nhà Tràng, nhìn gia cảnh của mẹ con hắn, Thị
không khỏi cất tiếng thở dài thất vọng. Điều đó khiến Thị không khỏi thất thần, buồn
bã trước hoàn cảnh mới, trước số phận trớ trêu của mình. Mặc dù vậy, Thị đã không
bỏ đi, tình nghĩa, sự cam chịu níu giữ chân Thị ở lại cùng với mẹ con Tràng hướng về
tương lai tốt đẹp hơn. Bữa cơm đầu tiên thảm đạm với niêu cháo mà mỗi người có hai
lưng bát đã hết nhẵn. Khi mẹ chồng múc cho Thị bát cháo cám, “hai con mắt tối sầm”
nhưng “Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng”. Thị hòa mình vào cuộc sống gia đình. Bát
cháo cám đắng chát trong cổ khiến Thị không khỏi tủi hờn nhưng Thị không hề tỏ ra
thất vọng hay chán nản bởi Thị hiểu hoàn cảnh của gia đình chồng. Có lẽ, hơn ai hết,
Thị hiểu rằng, chính hai con người nghèo khổ kia đã không ngại đói nghèo mà cưu
mang, che chở mình, đối với Thị, họ là ân nhân, là người Thị mang ơn. Và cũng có thể,
nếu không có Tràng và bà cụ Tứ, ngay cả cháo cám Thị cũng không có để ăn, phải
chết đói nơi đầu đường, xó chợ.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân khắc họa chỉ bằng vài câu miêu tả ngắn ngủi
nhưng đây có thể coi là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thị không chỉ là
nhân vật mang thông điệp đầy tính nhân văn của nhà văn, khẳng định niềm tin vào
phẩm chất tốt đẹp của con người mà còn là nhân tố tạo nên bước chuyển mình độc đáo
của tác phẩm. Không có Thị, hai mẹ con Tràng sẽ mãi mãi bị vùi lấp trong cuộc sống
tăm tối, lặng lẽ và câu chuyện có lẽ sẽ kết thúc theo một hướng nào đó bi đát, tồi tệ
hơn, đồng thời cũng không thể gây cho người đọc sự thương cảm, xót xa sâu sắc đến thế.
Thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã gửi gắm đến độc giả rất
nhiều chiêm nghiệm sâu sắc. Đó có thể là lời nhắn nhủ: Đôi khi những thứ ta tận mắt
thấy lại không hẳn là sự thật, hãy khoan phán xét con người qua hình dáng hay hành
động nhất thời, chỉ có thời gian mới mang đến câu trả lời hoàn hảo. Nhân vật Thị có
thể đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn trước sự đe dọa của cái đói nhưng bản chất của Thị là
người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng quý mà nếu anh cu Tràng không cho Thị cơ
hội, nhưng điều đó sẽ mãi chẳng ai biết tới. Đó cũng có thể là triết lí về sức mạnh của
tình người, hãy cứ cho đi và chúng ta sẽ nhận được thứ vô giá hơn gấp bội. Giống như
nhân vật Thị khi được mẹ con Tràng cưu mang đã làm cho cuộc sống của họ mới mẻ
tươi đẹp hơn, đáng sống hơn. Có thể nói, nhân vật không chỉ đưa chúng ta đến những
nhận thức mới mẻ về con người mà còn làm dâng lên trong lòng người đọc niềm
thương cảm, chua xót cho thân phận rẻ rúng, đau khổ của người phụ nữ trong đói nghèo và chết chóc.
Nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Mẫu 20
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim
Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa
trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ
nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn
ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ
đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân
vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng
tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ
con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa
đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên
để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng
bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác
phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là :
“Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho
nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên
ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ ” bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà
Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh
rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh bình
thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta
lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng
khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên
nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt
như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều
không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho
thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm
sống. Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu
thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị
quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi
người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này Lại đây mà đẩy xe bò
với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói
với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe
cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm.
Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang
ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách
anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét
miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có
ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng
hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả : Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một
người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt
ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao
giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết.
Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa
cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ,
rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng
cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận,
ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để
có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì
với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết
nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra
không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị
ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ!
Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà
tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất.
Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng,
xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh
khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến
nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng mà chị đánh
liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và những người trong gia đình
anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không?
Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh dáng
điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi
bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi
xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Nhà văn thật sự đã
hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng người đàn bà
ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về
nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị,
con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được
đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có
mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay
đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt
ruột bật ra câu hỏi: sắp đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất,
thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy
lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ
vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã
rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta
nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường,
hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần…
Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường
này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm
xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng
ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không ? Liệu mái nhà cũ
kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư
khư cái thúng mặt bần thần.
Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái
thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời?
Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng
dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự
thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh
phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi
lắm ! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không
trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp
bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị
ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy.
Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông không
muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ
nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp
gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền
Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái
chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi
vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ
nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu
sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như
thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng,
chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi
những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới
mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của
mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị,
căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã
trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng
nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ
gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới
có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô
nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa
cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta
thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất
đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn
bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn
làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối
cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu
rằng đó chỉ là cô vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến phong trào đấu
tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt
người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của
Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh
xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu
và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc đến
những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ
nhặt của anh Tràng. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn
Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật Pháp đã gây
ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng
nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng
định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết
dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình,
vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.
Phân tích nhân vật người vợ nhặt - Mẫu 21
Kim Lân sinh năm 1920 và mất năm 2007. Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh
ra Phù Lưu, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thủa thiếu thời, gia đình ông rất khó khăn
nên ông chỉ được đi học hết Tiểu học rồi đi làm mưu sinh. Tác phẩm Vợ nhặt là một
trong số những truyện ngắn thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của tác giả Kim Lân.
Nội dung câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt. Trong
đó, hình tượng người vợ nhặt chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng lại đóng vai trò khá
quan trọng để làm nên thành công của tác phẩm này.
Qua giới thiệu của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy người vợ nhặt xuất hiện
trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là vào nạn đói năm 1945. Lịch sử ghi lại thì đây
là nạn đói lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến hơn 2 triệu người dân bị chế. Bởi thế,
lai lịch người vợ nhặt không rõ ràng. Không có gia đình, cũng chẳng có quê hương.
Tình cảnh của người phụ nữ này cũng giống như những người dân khác thời đó, phải
đi tha phương cầu thực. Người ta chỉ biết “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,
một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”.
Không ai biết thị ta từ đâu tới, và đến tận cả tên cũng không có nốt. Người ta chỉ tạm
gọi cho người phụ nữ đấy là “vợ nhặt”. Qua cách gọi này có thể thấy, số phận bèo bọt,
rẻ rúng của con người trong cảnh nghèo đói. Thường muốn có vợ, chàng trải phải
thông qua rất nhiều thủ tục cưới xin, phải mất rất nhiều tiền của. Thế nhưng đây chỉ,
nhân vật Tràng chỉ cần ra đường “nhặt” về là đã có ngay một người vợ bằng xương bằng thịt.
Kim Lân miêu tả ngoại hình của người vợ thật rách rưới và nghèo khổ đến cùng cực,
đến không thể nghèo được hơn nữa: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa,
thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.
Hình ảnh người vợ nhặt hiện ra thật hồn nhiên trong lần thứ nhất khi nghe câu hò vui
của Tràng. Lúc đó, thị chẳng nghĩ ngợi gì liền lon ton, vui vẻ chạy ra giúp Tràng đẩy
xe bò, rồi lại liếc mắt, cười tít với Tràng. Đó chính là sự vô tư, hồn nhiên vốn có của
những người lao động nghèo.
Đến lần thứ hai, thị hiện ra với những nét vẽ rõ rệt hơn. Đó là khi được Tràng mời ăn
trầu để trả ơn, thị liền sưng sỉa, thẳng thừng mắng Tràng. Thị muốn có được thứ giá trị
hơn. Thế nên khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị không ngần ngại mà ngay lập tực
mắt sáng lên, ngồi sà xuống “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Thông thường, người
phụ nữ sẽ nhã nhặn, từ tốn trong ăn uống. Nhưng dường như lúc này cái đói đã che
mờ mắt của thị, khiến thị chẳng thiết tha gì việc giữ gìn ý tứ. Thị cứ ăn thỏa mãn cái
dạ dày của mình cái đã.
Nhất là khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, thì người vợ nhặt đã
vội vàng theo về thật mà không ngần ngại. Điều này càng nhấn mạnh đến cái đói cái
khổ đến cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Vì hoàn cảnh không thể làm khác được
nên thị đành theo Tràng về như một cơ hội để bám víu lấy sự sống dù mong manh.
Quả thực, qua lai lịch, qua chân dung của người vợ nhặt, độc giả thấy rõ hơn cái đói
nghèo khổ cực không chỉ làm biến dạng về ngoại hình của con người, mà còn cả nhân
cách. Mặc dù thấy chua xót với cách hành xử hơi thô tục, hơi mất giá của người vợ
nhặt nhưng đọc giả vẫn rất cảm thông sâu sắc với thị bởi hoàn cảnh đã cùng quẫn đã
xô đẩy. “Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng
cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
Thị là một phụ nữ có khát vọng sống mãnh liệt. Qua việc quyết định theo Tràng về
làm vợ dù không biết Tràng là ai, hoàn cảnh ra sao. Thị chấp nhận làm vợ mà không
cần phải có lễ vật, hay một cuộc đưa rước. Bởi thị hy vọng rằng, việc được làm vợ ai
đó lúc này có nghĩa là thị không bị đói, không phải sống cảnh lang thang nay đây mai
đó, đầu đường xó chợ. Khi về tới nhà Tràng, thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của
Tràng, mặc dù thị phải “nén tiếng thở dài”, dấu sự thất vọng nhưng thị vẫn cố gắng
chịu đựng để có cơ hội sống sót.
Qua miêu tả của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy thị dù là một người phụ nữ thô
vụng, rách rưới nhưng lại hết sức nết na và ý tứ. Trên đường về nhà Tràng, thị cũng e
thẹn, rón rén, che nón, đầu hơi cúi xuống đi theo sau Tràng. Lúc này, thị cũng cảm
thấy ngại ngùng, tủi hổ cho thân phận vợ nhặt của mình. “Người đàn bà đi sau hắn
chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Lúc vừa về đến nhà, mặc dù Tràng đon đả mời thị ngồi nhưng người vợ nhặt giữ phép
tắc, ý tứ, chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Thị không suồng sã, vồ vập như lúc ở chợ,
mà hai tay ôm khư khư cái thúng, bộc lộ hiểu biết rằng mình vẫn chưa được chính
thức là gì trong cái gia đình ấy. Rồi khi gặp mẹ chồng, là mẹ Tràng thì thị không chỉ lí
nhí cúi đầu chào hỏi mà còn thể hiện sự ngượng nghịu, lúng túng. “ Thị cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt”. “Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng
nguyên chỗ cũ”. “ Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần
thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế
bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì”.
Đặc biệt, vẻ đẹp trong nhân phẩm của người vợ nhặt được khắc họa rõ nét vào sáng
hôm sau. Khi thị dậy sớm, dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Thị không còn cái vẻ “chao
chát, chỏng lỏn” mà thực sự đã trở thành một người vợ đảm đang, hiền hậu, đúng mực,
biết sống có trước có sau, sống có trách nhiệm với gia đình. “Nhà cửa, sân vườn hôm
nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa
vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước
vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay
lối đi đã hót sạch…. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.
Không những thế, lúc ăn cháo cám, mới nhìn vào bát cháo lõng bõng nước, “mắt Thị
tối lại”. Nhưng rồi thị điềm nhiên, không ngần ngại cho vào miệng. Điều này cho thấy,
thị rất biết điều. Thị hiểu nếu mình bộc lộ sự khó chịu, mẹ chồng sẽ buồn. Vì thế, rất
đắng và chát trong miệng nhưng thị vẫn ăn một cách ngon lành, để làm cho không khí
gia đình vui vẻ, không khó chịu, buồn khổ.
Không những thế, thị còn là một con người có khát vọng sống và có niềm tin vào
tương lai. Thị hồ hởi kể chuyện Việt Minh đi phá kho thóc trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang để giúp người dân. Điều này dường như đã thắp lên ngọn lửa hy vọng cho
cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
Qua đây, tác giả Kim Lân dường như muốn gửi gắm thông điệp rằng, cái đói, cái
nghèo có thể lấy đi phẩm giá của con người trong một phút giây nào đó nhưng mãi
mãi không thể cướp đi tâm hồn tử tế của con người.
Có thể thấy, thông qua nhân vật người vợ nhặt, tác giả đã gửi gắm những thông điệp
về giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Người đọc không chỉ cảm thông cho số phận
thương tâm, rẻ mạt của người lao động trong nạn đói, thấy được khát vọng sống của
họ mà còn lên án và tố cáo sự tàn bạo khốc liệt của chế độ phát xít, thực dân. Với tình
huống truyện độc đáo cùng cách xây dựng hình tượng nhân vật ấn tượng, nhà văn Kim
Lân đã tạo nên sự thành công vang dội của tác phẩm một cách tự nhiên và giản dị.
Phân tích nhân vật vợ nhặt - Mẫu 22
Kim Lân là một hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông viết không
nhiều nhưng tác phẩm nào cũng xuất sắc. Người đọc nhận thấy trong trang văn của
ông một tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy bỏng về cuộc sống
tốt đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết, cái
đói. Những trang viết của Kim Lân về đề tài nông thôn trước cách mạng hấp dẫn
người đọc bởi tính nhân bản. Ngay cả khi con người phải sống trong cảnh khốn cùng,
bi đát nhất của trận đói, cuộc sống mấp mé giữa sự sống và cái chết, này văn vẫn nhận
thấy ở họ lòng yêu đời, ham sống. Sức sống ấy thể hiện đậm nét qua nhân vật người
“vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ nhặt của ông.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không
tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến
độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là
người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”,
“thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho
người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi
trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm
trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu
vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con
mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng
nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn
tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”,
“sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ
thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi
ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý).
Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu
như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể
theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế
ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ
lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp
nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống.
Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt
lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị
chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng,
dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu
Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm
thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của
người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia…
cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán,
thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một
chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa
có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là
thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia
đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” thế ngồi
bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ
Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong
quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách.
Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc
cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm
nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt
vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng
mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ.
Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng,
mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ,
bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia
cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con
đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm
đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng,
“nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà
văn thể hiện ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt,
nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả
chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ
thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua nhân vật
này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống
trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.
Phân tích nhân vật vợ nhặt - Mẫu 23
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với
nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể
hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị
không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách
chung chung và đầy rẻ rúng là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ
thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề
nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị
không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày,
hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.
Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự
trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của
người đàn bà nghèo mà còn xói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện
rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen
biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe
bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.
Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ
đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy
đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận
được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp
hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng
của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng
tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau
xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào
tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về
làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp
nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.
Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô
cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý
của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những
biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị. Đó
cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã
không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà,
nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị
nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.
Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những
hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền
đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách
giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn
chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng.
Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh.
Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức giản dị
mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,…
Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những
hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu
thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.
Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong nhận thức.
Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và
cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của
những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn
chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai
nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh
đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là
không thể hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người ham sống, ở
một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái,
chắc chắn Thị sẽ theo cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân
vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở
cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.
Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của
văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn
đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con
người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát
hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Phân tích nhân vật vợ nhặt - Mẫu 24
Ai đó từng nói rằng “ Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bởi
nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt
nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh
giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó". Đọc truyện ngắn
“Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta
không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của
con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm
gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung
nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc
làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn
với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh
đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự
bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà
lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó
khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà,
san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân
phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn
đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma
đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt
đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn
trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị
chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh
Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải
chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu.
Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu
bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na,
đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết
ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.
Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm
đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong
cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu
dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng
điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một
nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang
cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về
câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp
phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường
đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ
“tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói
tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính
mình, được nên người.
Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật
cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp,
mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa
rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu
thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một
con người, sống nên người.
Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với
nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật
xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị,
họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với
cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước
những giản dị của hạnh phúc của đời thường!