Văn mẫu 8 | Phân tích bài thơ Lai Tân Mới nhất

Văn mẫu 8 | Phân tích bài thơ Lai Tân Mới nhất được VietJack sưu tầm và soạn thảo để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài thơ Lai Tân lớp 8
Tập thơ Nhật trong tập thơ cùng nổi tiếng của cây bút Hồ Chí Minh. Trong
tập thơ này, người nghệ đã thể hiện được sự đa dạng trong bút pháp giọng
điệu, khiến người đọc phải trầm trồ, thán phục. Nổi bật nhất, lẽ chính bút pháp
tự sự trào phúng được sử dụng trong tác phẩm thơ Lai Tân.
Lai Tân được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc thường gặp trong các
sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. ba câu thơ đầu, nhà thơ thực hiện đúng chức
trách của một “người thư trung thành của thời đại”. Bác đã khắc họa lại một cách
chân thực khách quan những hình ảnh “tai nghe mắt thấy” trên đường bị áp giải.
“Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”
Bức tranh của những kẻ thống trị tại Lai Tân, được thu gọn qua ba chức quan rất oai
vệ: ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng. Nhà thơ không “chỉ mặt điểm tên” bất
một tên quan nào, chọn “ngẫu nhiên” những chức vụ lớn nhất, cao nhất tại địa
phương này. Từ “trưởng” lặp lại liên tiếp ba lần, cho thấy đây chính các đại diện
đứng đầu cho bộ máy quan lại tại Lai Tân. Họ được bổ nhiệm những chức vụ đó,
nhằm trở thành “người đầy tớ của nhân dân”, để chăm lo cho cuộc sống của nhân
dân trong địa phương. Chẳng phải tự nhiên từ xưa nhân dân ta vẫn gọi họ
“quan phụ mẫu”. Nhưng các quan phụ mẫu Lai Tân thật lạ kì.
ràng đại diện cho pháp luật, cho công chính liêm minh, cho kỉ cương phép
nước, ấy thế ngày ngày ban trưởng của nhà giam vẫn đánh bạc đều đều. Nhà
giam - nơi giam giữ, trừng trị những kẻ phạm tội, nay lại trở thành nơi diễn ra hành
vi trái pháp luật bị nghiêm cấm. Bàn làm việc đưa ra các pháp lệnh trừng trị kẻ gian,
nay biến thành sới bạc cho những kẻ nghiện trò trắng đen thỏa mãn đam mê. Từ
“thiên thiên” đã cho thấy sự ngang nhiên đến trơ trẽn của kẻ gọi ban trưởng đó.
Hắn thản nhiên thực hiện hành vi xấu xa giữa ban ngày, từ ngày này sang ngày
khác một cách trắng trợn, chẳng phải nể nang ai. Đến cảnh trưởng - người đứng
đầu đồn cảnh sát - người trách nhiệm áp giải, trừng phạt những phạm nhân xấu
xa. Thì lại ngang nhiên tham lam ăn tiền hối lộ. Nhà thơ trực tiếp dùng từ “tham” để
khắc họa hành động bản chất của kẻ này. Bởi chẳng phải nghi ngờ nữa, chắc
chắn sự thật cảnh trưởng một tên tham quan rồi. Chao ôi, sự trơ trẽn đã giúp kẻ
đại diện cho công ấy mặc sức vét, đòi hỏi, cướp đoạt tiền bạc để đổi đen
thay trắng.
Hai cấp dưới làm điều xấu lộ liễu giữa thanh thiên bạch nhật như vậy, thế huyện
trưởng - người đứng đầu, lãnh đạo trực tiếp của họ lại chẳng hề hay biết gì. Điều
nực cười hơn nữa là, hắn ta đêm nào cũng chong đèn làm việc công. Làm việc
chăm chỉ vậy lại chẳng hề phát hiện sai phạm nào, thật khó hiểu. Nhưng thật
ra lại chẳng khó hiểu chút nào. Nghệ thuật trào phúng đã được nhà thơ khéo léo
triển khai thông qua sự đối lập giữa hai khoảnh khắc ngày - đêm. Các quan con ăn
hối lộ, chơi cờ bạc, làm đủ điều sai trái vào ban ngày, còn quan cha thì đến đêm mới
chong đèn lên làm việc. Như vậy thì làm sao bắt được cái sai để trừng trị. Việc
xấu xa, tệ nạn thì làm vào ban ngày, làm trước bao nhiêu người. Còn việc công, việc
dân thì phải chờ đêm khuya chong đèn lén lút làm một mình. Sự tương phản mãnh
liệt đó khiến người đọc phải bật cười. Tiếng cười phê phán, lên án chua xót
vị. Không chỉ vậy, cách nhà thơ nhấn mạnh công việc của huyện trưởng “việc
công” càng khiến người đọc thêm nghi ngại. Tại sao phải nhấn mạnh việc công
nhỉ? lẽ bởi quan lớn đang mượn việc công để làm việc tư. việc phải
lấp ló, thập thò trong đêm khuya, thì lẽ còn nhơ nhuốc hơn những việc cấp
dưới của hắn dám làm giữa ban ngày. Chỉ mới nghĩ thôi đã thấy thật ghê gớm.
Dưới sự lãnh đạo của các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng như vậy thì “Lai
Tân y cựu thái bình thiên.” Từ “thái bình” đối lập với hiện thực nhà thơ khắc họa
ba câu thơ đầu tạo nên một sự mâu thuẫn, từ đó thể hiện sự châm biếm, phê
phán của nhà thơ dành cho cái hội thu nhỏ ấy. Đắt giá nhất trong câu thơ này
từ “y cựu” tức vẫn như cũ. ràng hiện tại trời đất Lai Tân chẳng hề tháo bình
một chút nào, thế vẫn luôn như vậy trong suốt thời gian qua. Thế nghĩa
bộ máy chính quyền đây với đại diện các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện
trưởng “một lòng dân” lâu nay vẫn hoạt động như thế. Vẫn trì trệ, kém phát triển,
thiếu minh bạch, phải chịu cảnh quan lại tham ô công khai. Sự tồi tệ ấy được duy trì
một cách bền vững, không hề thay đổi. Thật đau khổ thay, khi cái xấu xa, bỉ lậu của
bộ máy chính quyền phong kiến vẫn đeo gông lên cổ những người dân nghèo tội
nghiệp.
Các hình ảnh tương phản làm bật lên tiếng cười trong bài thơ Lai Tân nét đặc
trưng trong bút pháp trào phúng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Từ tiếng cười ấy, nhà thơ
vạch trần bộ mặt thối nát của chính quyền Lai Tân, của hiện thực hội đương thời,
của chế độ Tưởng Giới Thạch. Sự châm biếm đó bộc trực, thẳng thắn, không ẩn dụ,
quanh co. đòn tấn công trực tiếp vào cái hội thối nát, bất công ấy. Từ đó thể
hiện sự thương cảm, xót xa dành cho những người dân xứ Lai Tân đang phải sống
trong cái bầu trời “thái bình” giả tạo. Cũng trào phúng, nhưng cái chất trào lộng
trong thơ Hồ Chí Minh vẫn mang đậm tưởng của thời đại, của một vị lãnh tụ giàu
lòng nhân ái.
-----------------------------------------------------------------------------------
| 1/2

Preview text:

Phân tích bài thơ Lai Tân lớp 8
Tập thơ Nhật kí trong tù là tập thơ vô cùng nổi tiếng của cây bút Hồ Chí Minh. Trong
tập thơ này, người nghệ sĩ đã thể hiện được sự đa dạng trong bút pháp và giọng
điệu, khiến người đọc phải trầm trồ, thán phục. Nổi bật nhất, có lẽ chính là bút pháp
tự sự trào phúng được sử dụng trong tác phẩm thơ Lai Tân.
Lai Tân được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc thường gặp trong các
sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Ở ba câu thơ đầu, nhà thơ thực hiện đúng chức
trách của một “người thư kí trung thành của thời đại”. Bác đã khắc họa lại một cách
chân thực và khách quan những hình ảnh “tai nghe mắt thấy” trên đường bị áp giải.
“Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”
Bức tranh của những kẻ thống trị tại Lai Tân, được thu gọn qua ba chức quan rất oai
vệ: ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng. Nhà thơ không “chỉ mặt điểm tên” bất kì
một tên quan nào, mà chọn “ngẫu nhiên” những chức vụ lớn nhất, cao nhất tại địa
phương này. Từ “trưởng” lặp lại liên tiếp ba lần, cho thấy đây chính là các đại diện
đứng đầu cho bộ máy quan lại tại Lai Tân. Họ được bổ nhiệm những chức vụ đó,
nhằm trở thành “người đầy tớ của nhân dân”, để chăm lo cho cuộc sống của nhân
dân trong địa phương. Chẳng phải tự nhiên mà từ xưa nhân dân ta vẫn gọi họ là
“quan phụ mẫu”. Nhưng các quan phụ mẫu ở Lai Tân thật lạ kì.
Rõ ràng là đại diện cho pháp luật, cho công chính liêm minh, cho kỉ cương phép
nước, ấy thế mà ngày ngày ban trưởng của nhà giam vẫn đánh bạc đều đều. Nhà
giam - nơi giam giữ, trừng trị những kẻ phạm tội, nay lại trở thành nơi diễn ra hành
vi trái pháp luật bị nghiêm cấm. Bàn làm việc đưa ra các pháp lệnh trừng trị kẻ gian,
nay biến thành sới bạc cho những kẻ nghiện trò trắng đen thỏa mãn đam mê. Từ
“thiên thiên” đã cho thấy sự ngang nhiên đến trơ trẽn của kẻ gọi là ban trưởng đó.
Hắn thản nhiên thực hiện hành vi xấu xa giữa ban ngày, từ ngày này sang ngày
khác một cách trắng trợn, chẳng phải nể nang ai. Đến cảnh trưởng - người đứng
đầu đồn cảnh sát - người có trách nhiệm áp giải, trừng phạt những phạm nhân xấu
xa. Thì lại ngang nhiên tham lam ăn tiền hối lộ. Nhà thơ trực tiếp dùng từ “tham” để
khắc họa hành động và bản chất của kẻ này. Bởi chẳng phải nghi ngờ gì nữa, chắc
chắn sự thật cảnh trưởng là một tên tham quan rồi. Chao ôi, sự trơ trẽn đã giúp kẻ
đại diện cho công lý ấy mặc sức mà vơ vét, đòi hỏi, cướp đoạt tiền bạc để đổi đen thay trắng.
Hai cấp dưới làm điều xấu lộ liễu giữa thanh thiên bạch nhật như vậy, thế mà huyện
trưởng - người đứng đầu, lãnh đạo trực tiếp của họ lại chẳng hề hay biết gì. Điều
nực cười hơn nữa là, dù hắn ta đêm nào cũng chong đèn làm việc công. Làm việc
chăm chỉ vậy mà lại chẳng hề phát hiện sai phạm nào, thật là khó hiểu. Nhưng thật
ra lại chẳng khó hiểu chút nào. Nghệ thuật trào phúng đã được nhà thơ khéo léo
triển khai thông qua sự đối lập giữa hai khoảnh khắc ngày - đêm. Các quan con ăn
hối lộ, chơi cờ bạc, làm đủ điều sai trái vào ban ngày, còn quan cha thì đến đêm mới
chong đèn lên làm việc. Như vậy thì làm sao mà bắt được cái sai để trừng trị. Việc
xấu xa, tệ nạn thì làm vào ban ngày, làm trước bao nhiêu người. Còn việc công, việc
dân thì phải chờ đêm khuya chong đèn lén lút làm một mình. Sự tương phản mãnh
liệt đó khiến người đọc phải bật cười. Tiếng cười phê phán, lên án và chua xót ở dư
vị. Không chỉ vậy, cách nhà thơ nhấn mạnh công việc của huyện trưởng là “việc
công” càng khiến người đọc thêm nghi ngại. Tại sao phải nhấn mạnh là việc công
nhỉ? Có lẽ là bởi vì quan lớn đang mượn việc công để làm việc tư. Mà việc tư phải
lấp ló, thập thò trong đêm khuya, thì có lẽ còn nhơ nhuốc hơn những việc mà cấp
dưới của hắn dám làm giữa ban ngày. Chỉ mới nghĩ thôi đã thấy thật là ghê gớm.
Dưới sự lãnh đạo của các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng như vậy thì “Lai
Tân y cựu thái bình thiên.” Từ “thái bình” đối lập với hiện thực mà nhà thơ khắc họa
ở ba câu thơ đầu tạo nên một sự mâu thuẫn, và từ đó thể hiện sự châm biếm, phê
phán của nhà thơ dành cho cái xã hội thu nhỏ ấy. Đắt giá nhất trong câu thơ này là
từ “y cựu” tức là vẫn như cũ. Rõ ràng hiện tại trời đất Lai Tân chẳng hề tháo bình
một chút nào, thế mà nó vẫn luôn như vậy trong suốt thời gian qua. Thế có nghĩa là
bộ máy chính quyền ở đây với đại diện là các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện
trưởng “một lòng vì dân” lâu nay vẫn hoạt động như thế. Vẫn trì trệ, kém phát triển,
thiếu minh bạch, phải chịu cảnh quan lại tham ô công khai. Sự tồi tệ ấy được duy trì
một cách bền vững, không hề thay đổi. Thật đau khổ thay, khi cái xấu xa, bỉ lậu của
bộ máy chính quyền phong kiến cũ vẫn đeo gông lên cổ những người dân nghèo tội nghiệp.
Các hình ảnh tương phản làm bật lên tiếng cười trong bài thơ Lai Tân là nét đặc
trưng trong bút pháp trào phúng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Từ tiếng cười ấy, nhà thơ
vạch trần bộ mặt thối nát của chính quyền Lai Tân, của hiện thực xã hội đương thời,
của chế độ Tưởng Giới Thạch. Sự châm biếm đó bộc trực, thẳng thắn, không ẩn dụ,
quanh co. Nó là đòn tấn công trực tiếp vào cái xã hội thối nát, bất công ấy. Từ đó thể
hiện sự thương cảm, xót xa dành cho những người dân xứ Lai Tân đang phải sống
trong cái bầu trời “thái bình” giả tạo. Cũng là trào phúng, nhưng cái chất trào lộng
trong thơ Hồ Chí Minh vẫn mang đậm tư tưởng của thời đại, của một vị lãnh tụ giàu lòng nhân ái.
-----------------------------------------------------------------------------------