Văn mẫu 8 | Phân tích bài thơ Thương vợ

Văn mẫu 8 | Phân tích bài thơ Thương vợ được VietJack sưu tầm và soạn thảo để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài thơ Thương vợ lớp 8
Khác với Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, đến với Thương vợ, chúng ta được gặp
gỡ một Trần Tế Xương bớt góc cạnh, sắc nhọn hơn. Tuy nhiên, bài thơ vẫn mang
đậm bút pháp trào phúng đặc trưng của nhà thơ, không hể thay đổi. Chỉ trong
Thương vợ, thay trào người, thì nhà thơ lại tự trào.
Thương vợ một tác phẩm thơ thất ngôn bát cứ - một thể thơ đường luật khá quen
thuộc trong văn thơ trung đại. Điều này cũng chẳng lấy làm lạ, khi Tế Xương chính
một trong những cây bút sáng chói cuối cùng của giai đoạn văn học này. Tác giả
dành sáu câu thơ đầu bài thơ, để khắc họa hình dáng tảo tần của vợ mình, một
người phụ nữ số phận vất vả:
“Quanh năm buôn bán mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Vợ của Trần Tế Xương - người đã thi đỗ tài thường được gọi Tú. Cũng như
bao người vợ của các tử khác đương thời, lao động vất vả sớm hôm để
kiếm tiền nuôi chồng ăn học. Để chồng thể yên tâm dùi mài kinh sử, một mình
làm lụng sớm hôm nuôi cả gia đình. Một tấm thân gầy còm cõi của người phụ nữ
nhỏ ấy, không chỉ nuôi đủ năm đứa con còn phải gánh thêm một chồng. Quan
hệ từ với tạo ra một thế cân bằng, cho thấy một mình người chồng cũng tiêu tốn
nhiều tiền của chăm nom bằng năm đứa con gom lại. Để thực hiện được trọng trách
cao cả đó, quanh năm phải làm việc vất mom sông. Từ “quanh năm” cho
thấy ngày nắng hay ngày mưa, ngày nóng hay ngày lạnh, thì vẫn phải đi
làm. làm việc cần mẫn như con ven sông, gầy rạc cả đi, ốm đau
nhọc nhằn vẫn phải cố gắng. Bởi nếu nghỉ thì lấy nuôi năm con với một
chồng? Sự bấp bênh, chênh vênh, gian nan trong cuộc sống mưu sinh của
được ẩn dụ qua địa điểm buôn bán, tức “mom sông”. Chỉ chút sẩy, đễnh
ngã dúi xuống sông, cả gia đình lại đói khổ nheo nhóc. Cái áp lực nặng nề ấy đã
khiến quần quật cả năm chẳng ngơi tay.
“Lặn lội thân khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Hình ảnh “thân cò” Tế Xương đưa vào câu thơ, chính một chất liệu đến từ văn
học dân gian:
“Cái lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Tuy nhiên, nếu con trong ca dao chỉ phải ngụp lặn trong cái mênh mông của
không gian bờ sông. Thì lại còn phải ngụp lặn trong cái rợn ngợp của cả
không gian nữa. Buôn bán mom sông, lúc nào cũng phải vội những buổi đò đông.
Rồi tan chợ, lại mẫm nơi quãng vắng. Sự heo hút, vắng vẻ, lạnh lẽo nơi
mưu sinh đã được khắc họa nét qua hình ảnh thân lặn ngụp bên mặt nước.
Thời gian cứ lặp đi lặp lại từ khi bến sông vắng ngắt đến lúc đò về tấp nập rồi lại tan
chợ vắng tanh. Không gian cứ thể xoay vần, chỉ vẫn miệt mài lao động.
Không biết phải làm việc đến bao giờ mới được nghỉ ngơi. Khi đàn con thì nheo
nhóc, còn người chồng thì dùi mài bao năm vẫn chưa thể đỗ đạt làm quan. cứ
làm lụng mãi, cứ mẫm mãi trong cái vòng lặp tận của thời gian, chẳng biết
điểm dừng.
Xót xa thay, đáng thương thay thân phận người phụ nữ tảo tần trong hội phong
kiến. Thương Tú, ông cất lên tiếng chửi:
“Cha mẹ thói đời ăn bạc:
chồng hờ hững cũng như không!”
Tiếng chửi “cha mẹ” vang lên khiến câu chuyện về người đàn vất vả bị cắt ngang.
Tiếng chửi đó của ai đang chửi? Chửi ai? Chửi cái gì? lẽ, đó tiếng chửi
của người chồng thương xót cho người vợ tội ngiệp. Cũng thể tiếng chính ông
đang chửi chính mình. Rằng phận làm chồng lại “ăn bạc”, chẳng giúp đỡ
được cho vợ, khiến sống cảnh “có chồng hờ hững cũng như không”. Sự tự
nhiên của tiếng chửi, đã bộc bạch một cách trực tiếp nhất những cảm xúc, những
trăn trở trong lòng ông Tú. Càng ngẫm lại những vất vả của vợ đã khắc họa các
vần thơ trước bao nhiêu, thì ông lại càng tự trách mình bấy nhiêu. Ông tự trào
bản thân mình ăn bạc, tự trào mình chẳng giá trị gì, khiến vợ phải sống bất
hạnh, lam lũ. Tuy nhiên, nếu xét theo khía cạnh chung nhất, thì ông cũng không
bạc bẽo đến thế. Ông giúp danh hiệu vợ của tài -một địa vị được
nhiều người tôn trọng. Tuy chưa tạo ra của cải đỡ đần cho vợ, nhưng ông cũng
không đam cờ bạc, rượu chè - những tật xấu thường gặp của cánh đàn ông
trong hội lúc bấy giờ. Bản thân ông cũng rất yêu thương vợ con của mình.
thương vợ, nên ông mới tự trách bản thân đến mức cất lên tiếng chửi. Thế nhưng,
xót xa cho vợ quá, nên Xương mới thấy bản thân mình thật tồi tệ, thật thiếu sót.
Hành động tự phán, tự rủa chính mình của Tế Xương một bước tiến dài trong bối
cảnh hội đương thời. Khi không ít các đấng nam nhi lớn lên trong tưởng Nho
giáo vẫn khinh thường xem nhẹ phụ nữ. Việc một người đàn ông tự trách tự
thừa nhận sự thiếu sót của bản thân so với vợ một hành động rất nhân văn
tiến bộ.
“Thói đời” nhà thơ chửi đây, không phải chỉ chửi chính bản thân ông, còn
cả một nhóm người, một hạng người trong hội. Đó những kẻ bạc bẽo, đểu
cảng, ham chơi, lười làm… chỉ thích sống hưởng thụ, mặc kệ người thân phải lam
cày cuốc nuôi bản thân mình. Hình ảnh Tú, không chỉ đại diện cho người phụ nữ
tảo tần, còn đại diện cho cả tầng lớp những người lao động vất vả, thấp cổ
họng trong hội lúc bấy giờ. Tiếng chửi của Xương tiếng chửi chung vào cả
bộ mặt của hội.
Thương vợ sự biết ơn chân thành của ông dành cho người vợ đảm đang, chịu
thương chịu khó của mình. Đồng thời cũng sự tự trào của chính ông về những
thiếu sót của mình đối với vợ. Nhưng hơn cả, sau những điều đó, bài thơ còn sự
trào phúng sâu cay của ông cho cả một lớp người, hạng người sâu mọt trong hội,
chỉ biết đục rỗng, bào mòn những con người cùng khổ. Sự phối hợp giữa chất liệu
văn học dân gian cùng thể thơ đường luật bút pháp tự trào sâu cay của
Xương đã tạo ra một tác phẩm thơ trào phúng đặc sắc.
-----------------------------------------------------------------------------------
| 1/3

Preview text:

Phân tích bài thơ Thương vợ lớp 8
Khác với Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, đến với Thương vợ, chúng ta được gặp
gỡ một Trần Tế Xương bớt góc cạnh, sắc nhọn hơn. Tuy nhiên, bài thơ vẫn mang
đậm bút pháp trào phúng đặc trưng của nhà thơ, không hể thay đổi. Chỉ là trong
Thương vợ, thay vì trào người, thì nhà thơ lại tự trào.
Thương vợ là một tác phẩm thơ thất ngôn bát cứ - một thể thơ đường luật khá quen
thuộc trong văn thơ trung đại. Điều này cũng chẳng lấy làm lạ, khi Tế Xương chính
là một trong những cây bút sáng chói cuối cùng của giai đoạn văn học này. Tác giả
dành sáu câu thơ đầu bài thơ, để khắc họa hình dáng tảo tần của vợ mình, một
người phụ nữ có số phận vất vả:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Vợ của Trần Tế Xương - người đã thi đỗ tú tài thường được gọi là bà Tú. Cũng như
bao người vợ của các sĩ tử khác đương thời, bà Tú lao động vất vả sớm hôm để
kiếm tiền nuôi chồng ăn học. Để chồng có thể yên tâm dùi mài kinh sử, một mình bà
Tú làm lụng sớm hôm nuôi cả gia đình. Một tấm thân gầy còm cõi của người phụ nữ
nhỏ bé ấy, không chỉ nuôi đủ năm đứa con mà còn phải gánh thêm một chồng. Quan
hệ từ với tạo ra một thế cân bằng, cho thấy một mình người chồng cũng tiêu tốn
nhiều tiền của chăm nom bằng năm đứa con gom lại. Để thực hiện được trọng trách
cao cả đó, bà Tú quanh năm phải làm việc vất ở mom sông. Từ “quanh năm” cho
thấy dù ngày nắng hay ngày mưa, ngày nóng hay ngày lạnh, thì bà Tú vẫn phải đi
làm. Bà làm việc cần mẫn như con cò ở ven sông, dù có gầy rạc cả đi, dù có ốm đau
nhọc nhằn vẫn phải cố gắng. Bởi nếu bà nghỉ thì lấy gì nuôi năm con với một
chồng? Sự bấp bênh, chênh vênh, gian nan trong cuộc sống mưu sinh của bà Tú
được ẩn dụ qua địa điểm bà buôn bán, tức “mom sông”. Chỉ chút sơ sẩy, lơ đễnh là
ngã dúi xuống sông, là cả gia đình lại đói khổ nheo nhóc. Cái áp lực nặng nề ấy đã
khiến bà Tú quần quật cả năm chẳng ngơi tay.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Hình ảnh “thân cò” mà Tế Xương đưa vào câu thơ, chính là một chất liệu đến từ văn học dân gian:
“Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
Tuy nhiên, nếu con cò trong ca dao chỉ phải ngụp lặn trong cái mênh mông của
không gian bờ sông. Thì bà Tú lại còn phải ngụp lặn trong cái rợn ngợp của cả
không gian nữa. Buôn bán ở mom sông, lúc nào cũng phải vội những buổi đò đông.
Rồi tan chợ, bà lại mò mẫm ở nơi quãng vắng. Sự heo hút, vắng vẻ, lạnh lẽo nơi bà
Tú mưu sinh đã được khắc họa rõ nét qua hình ảnh thân cò lặn ngụp bên mặt nước.
Thời gian cứ lặp đi lặp lại từ khi bến sông vắng ngắt đến lúc đò về tấp nập rồi lại tan
chợ vắng tanh. Không gian cứ thể xoay vần, chỉ có bà Tú là vẫn miệt mài lao động.
Không biết bà phải làm việc đến bao giờ mới được nghỉ ngơi. Khi đàn con thì nheo
nhóc, còn người chồng thì dùi mài bao năm vẫn chưa thể đỗ đạt làm quan. Bà cứ
làm lụng mãi, cứ mò mẫm mãi trong cái vòng lặp vô tận của thời gian, chẳng biết điểm dừng.
Xót xa thay, đáng thương thay thân phận người phụ nữ tảo tần trong xã hội phong
kiến. Thương bà Tú, ông Tú cất lên tiếng chửi:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Tiếng chửi “cha mẹ” vang lên khiến câu chuyện về người đàn bà vất vả bị cắt ngang.
Tiếng chửi đó là của ai đang chửi? Và Chửi ai? Chửi cái gì? Có lẽ, đó là tiếng chửi
của người chồng thương xót cho người vợ tội ngiệp. Cũng có thể là tiếng chính ông
Tú đang chửi chính mình. Rằng phận làm chồng mà lại “ăn ở bạc”, chẳng giúp đỡ
được gì cho vợ, khiến bà Tú sống cảnh “có chồng hờ hững cũng như không”. Sự tự
nhiên của tiếng chửi, đã bộc bạch một cách trực tiếp nhất những cảm xúc, những
trăn trở trong lòng ông Tú. Càng ngẫm lại những vất vả của vợ đã khắc họa ở các
vần thơ trước bao nhiêu, thì ông Tú lại càng tự trách mình bấy nhiêu. Ông tự trào
bản thân mình ăn ở bạc, tự trào mình chẳng có giá trị gì, khiến vợ phải sống bất
hạnh, lam lũ. Tuy nhiên, nếu xét theo khía cạnh chung nhất, thì ông Tú cũng không
bạc bẽo đến thế. Ông giúp bà Tú có danh hiệu là vợ của tú tài -một địa vị được
nhiều người tôn trọng. Tuy chưa tạo ra của cải đỡ đần cho vợ, nhưng ông Tú cũng
không đam mê cờ bạc, rượu chè - những tật xấu thường gặp của cánh đàn ông
trong xã hội lúc bấy giờ. Bản thân ông cũng rất yêu thương vợ con của mình. Vì
thương vợ, nên ông mới tự trách bản thân đến mức cất lên tiếng chửi. Thế nhưng,
xót xa cho vợ quá, nên Tú Xương mới thấy bản thân mình thật tồi tệ, thật thiếu sót.
Hành động tự phán, tự rủa chính mình của Tế Xương là một bước tiến dài trong bối
cảnh xã hội đương thời. Khi không ít các đấng nam nhi lớn lên trong tư tưởng Nho
giáo vẫn khinh thường và xem nhẹ phụ nữ. Việc một người đàn ông tự trách và tự
thừa nhận sự thiếu sót của bản thân so với vợ là một hành động rất nhân văn và tiến bộ.
“Thói đời” mà nhà thơ chửi ở đây, không phải chỉ chửi chính bản thân ông, mà còn
là cả một nhóm người, một hạng người trong xã hội. Đó là những kẻ bạc bẽo, đểu
cảng, ham chơi, lười làm… chỉ thích sống hưởng thụ, mặc kệ người thân phải lam lũ
cày cuốc nuôi bản thân mình. Hình ảnh bà Tú, không chỉ đại diện cho người phụ nữ
tảo tần, mà còn đại diện cho cả tầng lớp những người lao động vất vả, thấp cổ bé
họng trong xã hội lúc bấy giờ. Tiếng chửi của Tú Xương là tiếng chửi chung vào cả bộ mặt của xã hội.
Thương vợ là sự biết ơn chân thành của ông Tú dành cho người vợ đảm đang, chịu
thương chịu khó của mình. Đồng thời cũng là sự tự trào của chính ông Tú về những
thiếu sót của mình đối với vợ. Nhưng hơn cả, sau những điều đó, bài thơ còn là sự
trào phúng sâu cay của ông cho cả một lớp người, hạng người sâu mọt trong xã hội,
chỉ biết đục rỗng, bào mòn những con người cùng khổ. Sự phối hợp giữa chất liệu
văn học dân gian cùng thể thơ đường luật và bút pháp tự trào sâu cay của Tú
Xương đã tạo ra một tác phẩm thơ trào phúng đặc sắc.
-----------------------------------------------------------------------------------