Văn mẫu 8 | Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng
Văn mẫu 8 | Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng được VietJack sưu tầm và soạn thảo để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng lớp 8
Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng: Hội Tây
Nguyễn Khuyến là một cây bút trào phúng nổi bật trong làng văn học trung đại Việt
Nam. Bút pháp trào phúng của ông nhẹ nhàng, kín đáo nhưng vô cùng sâu cay. Đọc
tác phẩm Hội Tây, em mới thực sự cảm nhận được đỉnh cao trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyễn.
Hội tây là một tác phẩm thơ thất ngôn bát cú mẫu mực về cấu tứ và nội dung. Ở
ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu đến người đọc một sự kiện tưng bừng gọi nôm na là hội Tây:
“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo”
“Hội Thăng Bình” là ngày hội vui mừng do các quan Tây tổ chức tại Thăng Bình.
Trong thời gian làm Bố Chánh ở Quảng Nam, Nguyễn Khuyến đã có dịp trực tiếp
quan sát các lễ hội này. Nhưng cũng có người lại cho rằng, hội Thăng Bình này là lễ
hội người Pháp tại Hà Nội tổ chức để ăn mừng Cách mạng Pháp thành công tại
mẫu quốc. Và họ tổ chức lễ hội cho dân đen ở xứ An Nam được chung vui, được
hưởng “ké” niềm vui của mẫu quốc. Dù là theo nghĩa nào, thì lễ hội được nhắc đến
ở câu thơ đầu cũng chẳng phải một lễ hội truyền thống của dân tộc ta, của người Việt ta tổ chức.
“Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”
Bầu không khí của lễ hội trở nên rạo rực với “cờ kéo” và “đèn treo” - hai món đồ
trang trí đến từ Tây phương. Sự hiện diện của nó đã gián tiếp khẳng định đây chỉ là
lễ hội của người Pháp mà thôi, chứ chẳng phải của chúng ta. Qua lời kể của
Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên thật tươi vui và sống động. Dù là lễ hội Tây, nhưng
các trò chơi xuất hiện vẫn mang đậm truyền thống văn hóa của nước ta, như hát
chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột… Tuy nhiên, cách cách trò chơi được tả lại thì thật là
khác lạ. Nhà thơ sử dụng rất nhiều các tính từ giàu sức gợi, sức tả cho người đọc
mặc sức tưởng tượng về lễ hội. Mấy bà quan vốn sang trọng, quý phái thì lại được
miêu tả với dáng vẻ tênh nghếch kém duyên. Phận nữ nhi lại tụ tập đi xem người ta
cởi trần bơi lội, đã vậy lại còn là các mệnh phụ phu nhân quyền quý. Đối với xã hội
phong kiến đương thời thì thật là thiếu đứng đắn. Trong sân hát chèo, nơi biểu diễn
nghệ thuật truyền thống, thì lại có mấy thằng bé phải lom khom nghe hát chèo. Sao
chúng lại phải lom khom để nghe hát, dù sân chèo rộng đến vậy? Chắc bởi các
quan Tây, các phú ông phú bà đã chiếm hết chỗ ngồi, còn chúng phải đứng hầu, rồi
tranh thủ nghe hát nên mới phải lom khom. Đến trò chơi đánh đu quen thuộc vào
các hội xuân cũng được xuất hiện trong lễ hội. Động tác di chuyển của người chơi
được khắc họa bằng từ “cậy sức” làm cho trò chơi vốn mang đến không khí tươi vui,
tràn ngập sức sống phút chốc lại trở nên thô thiển, kém duyên dáng của các chị.
Còn các anh thì hớn hở trèo lên các cột bôi mỡ vì tiền đang treo trên ngọn cây. Tính
từ “tham” được đẩy ngay lên đầu câu, đã nhấn mạnh động cơ, mục đích của người
tham gia chơi hội. Tất cả tạo nên một bầu không khí nhốn nháo, lộn xộn.
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
Lễ hội vui vẻ, nhộn nhịp đó được khen là “khéo vẽ trò”. Cụm từ đó khẳng định tính
chất mua vui, giải trí của lễ hội theo chiều hướng tiêu cực. “Vẽ trò” là cụm từ mà dân
gian thường nói khi nhắc đến một sự kiện được tổ chức rầm rộ, cầu kì nhưng chẳng
có ý nghĩa, giá trị gì cả. Hội Tây được khắc họa trong bài thơ này cũng vậy. Người
Tây tổ chức lễ hội để mua vui cho chính họ. Và kẻ được đem ra mua vui chính là
những người dân An Nam vì tham tiền, ham vui mà mặc kệ danh dự, nhân phẩm,
liều mình phấn đấu tham gia. Chúng gom hết những trò chơi dân gian truyền thống
của dân tộc từ từ hát chèo đến leo cột, rồi đánh đu. Những trò chơi đặc sắc của dân
tộc ta, là niềm tự hào của nền văn hiến nghìn năm, nay bị đem ra làm trò mua vui
cho những kẻ xâm lược. Ấy thế mà các nam thanh nữ tú vẫn nhiệt tình tham gia,
phô bày dáng vẻ kệch cỡm, kém duyên để đem lại tiếng cười cho lũ thực dân Pháp.
Vui sao? Càng vui bao nhiêu thì càng nhục bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ tăng tiến bao
nhiêu - bấy nhiêu đã khiến người đọc cảm nhận được sự phẫn uất của nhà thơ khi
chứng kiến đồng bào mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ
ngoại xâm. Tinh thần tự tôn của dân tộc bị đạp xuống dưới những đồng tiền bẩn thỉu
của lũ ngoại bang. Vậy mà họ lại không hề thấy nhục nhã chút nào, vẫn vui vẻ, vẫn
hào hứng lắm. Dường như chẳng ai hay về cái thực tại ê chề đang diễn ra ở trước mắt mình.
Ngay từ nhan đề “Hội Tây”, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nhấn mạnh về chủ quyền
của ngày hội. Ông phân biệt rành rọt đó là hội của người chứ chẳng phải hội của ta.
Từ các vần thơ, hình ảnh tả thực, tác giả đã châm biếm sâu cay về cách tham gia
hội người vô cùng hăng hái đến quên mất tự tôn, danh dự của người dân ta. Từ đó,
ông vạch trần tấm màn che giả dối nhân danh quyền con người của lũ thực dân
Pháp. Bởi khi chúng đem người dân An Nam ra làm trò mua vui, thì nghĩa là chúng
chẳng hề xem họ là con người, chẳng hề đối xử bình đẳng với họ. Đó cũng là cái tát
thẳng vào những con người đã tự biến mình thành trò vui. Để đánh thức lương tri,
lòng tự tôn dân tộc trong chính họ. Đó chính là ngụ ý cao cả của nhà thơ thông qua
những vần thơ châm biếm trong Hội Tây.
-----------------------------------------------------------------------------------