Văn mẫu 8 | Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học: Thu Điếu
Văn mẫu 8 | Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học: Thu Điếu được VietJack sưu tầm và soạn thảo để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích bài thơ Thu Điếu lớp 8
Thu Điếu hay còn được gọi là Câu cá mùa thu chính là một trong ba bài thơ về mùa
thu nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Cho đến nay, đây vẫn được xem là một
thi phẩm tiêu biểu về mùa thu của vùng quê Bắc Bộ, và về nghệ thuật sáng tác thơ
thất ngôn bát cú Đường Luật của thơ ca trung đại Việt Nam.
Bài thơ đi theo cấu trúc quen thuộc của những bài thơ thất ngôn bát cú Đường Luật,
với bố cục gồm bốn phần đề - thực - luận - kết. Trong đó, sáu câu thơ đầu sẽ tập
trung khắc họa hình ảnh thiên nhiên, còn riêng hai câu thơ cuối sẽ là nơi tác giả gửi
gắm những tình cảm, suy tư của chính mình.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Hai câu đề đã phác họa những nét đầu tiên, cơ bản nhất của bức tranh thiên nhiên
mùa thu. Các tính từ lạnh lẽo, trong veo, tẻo teo đã gieo liên tục các vần “eo” - một
vần có âm điệu kéo dài, rất giàu sức biểu cảm, gây ấn tượng dùng dằng, dài dòng
không ngắt hẳn trong âm điệu. Với nhà thơ, mùa thu cũng có màu riêng của nó, đó
là màu trong veo - một gam màu dịu nhẹ, thanh tao, thuần khiết vô ngần. Trong bầu
không ấy, xuất hiện một mặt ao làm trung tâm. Những chiếc ao ở trong vườn chính
là đặc trưng tiêu biểu của những ngôi nhà ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Giữa mặt ao,
xuất hiện một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sự nhỏ bé của chiếc thuyền vô tình làm
rộng ra không gian xung quanh, không gian của mặt hồ. Gợi lên sự lạc lõng của
chiếc thuyền trong không khí thu lạnh lẽo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Sau khi phác họa chung về mùa thu, nhà thơ Nguyễn Khuyến bước sang phần thực
với những chi tiết giàu sức gợi, sức tả hơn về cảnh vật mùa thu. Đó là những gợn
sóng trên mặt hồ mang màu “biếc”. Không rõ đó là màu xanh của nước hồ hay là
màu xanh của mây trời trên cao kia soi bóng xuống. Nhưng chắc chắn một điều
rằng, sắc xanh biếc ấy đã đem lại một không khí mát mẻ, dịu nhẹ, trong lành, rất hòa
hợp với sắc trong veo của cả mùa thu được tả ở câu đề. Cùng với đó, là sự xuất
hiện của “lá vàng”. Lá vàng là một hình ảnh mang tính ước lệ vô cùng quen thuộc
trong thơ trung đại. Nhắc đến lá vàng là người ta nhớ ngay đến mùa thu. Chỉ một
hình ảnh chiếc lá vàng bay trong gió, nhà thơ đã thành công khắc họa một hàng cây
xơ xác trong gió thu, với những chiếc lá héo úa, run rẩy trong gió lạnh, chờ được
thổi về với cội nguồn. Cách mượn một chi tiết nhỏ nhưng tiêu biểu và đặc trưng để
tả cả một cảnh thiên nhiên rộng lớn ấy, chính là bút pháp chấm phá điểm nhãn đặc
trưng trong thi pháp văn học trung đại. Tinh tế hơn nữa, chính là cách mà Nguyễn
Khuyến miêu tả những chuyển động của các sự vật đó. Sóng biếc chỉ “hơi gợn tí”, lá
vàng chỉ “khẽ đưa vèo”. Các chuyển động ấy đều rất nhẹ và rất khẽ, không đủ để
phá vỡ không gian yên tĩnh xung quanh, nhưng cũng đủ để tạo nên những nhịp thở
cho bức tranh mùa thu thêm phần sống động. Nhờ sự chuyên chú và nhạy cảm của
mình, nhà thơ đã bắt được những biến chuyển tinh tế ấy, và khắc họa lại trong câu
thơ. Cảnh mùa thu ấy không hoành tráng, to lớn mà rất bình dị, mộc mạc, dân dã.
Đó là chính là chất quê, là hồn quê rất riêng, rất thuần của Nguyễn Khuyến - điều
mà vàng son chốn kinh kì chẳng thể mờ phai được.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bước sang phần luận, bức tranh mùa thu lại được mở rộng hơn. Nếu ở các câu thơ
trước, tác giả chủ yếu miêu tả theo chiều ngang, thì lúc này lại mở rộng thêm cả về
chiều cao và chiều sâu. Ở trên cao xa kia, là những tầng mây lơ lửng, là nền trời
xanh ngắt. Khác với màu xanh biếc dễ chịu của mặt ao, sắc xanh ngắt của nền trời
là một màu xanh đậm hơn, rõ rệt hơn và không hề pha thêm một sắc nào khác trên
diện tích rộng lớn. Điều đó làm cho bầu trời bỗng nhiên chẳng còn biên giới nào,
dường như vô tận. Đây là một đặc trung rõ nét của bầu trời mùa thu - được nhà thơ
miêu tả một cách trực tiếp, chân thực thay vì sử dụng các hình ảnh ước lệ thường
gặp. Sau khi lên tít trên cao, Nguyễn Khuyến lại đi sâu vào đến tận cùng những ngõ
ngách. Càng đi sâu ông càng nhận ra sự vắng vẻ, yên ả, tĩnh lặng của nơi này.
Cùng với ao hồ, những ngõ nhỏ có tường rào là hàng trúc xanh cũng là nét đẹp tiêu
biểu của làng quê Bắc Bộ. Hình ảnh ấy chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp ở bất kì một
thôn xóm nào. Chỉ với hai câu luận, Nguyễn Khuyến đã mở rộng đến vô cùng cả ba
chiều kích (chiều rộng, chiều cao và chiều sâu). Càng mở rộng, không gian càng
thoáng đãng, bao la, nhưng cũng càng thêm trống trải, vắng vẻ, lạnh lẽo và cô đơn.
Chính vì vậy, tầm mắt lại đành quay về trung tâm của bức tranh lúc ban đầu - chiếc thuyền trên mặt ao:
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhân vật trữ tình xuất hiện trong tư thế “tựa gối, buông cần” cho thấy ông đang thực
hiện hành động câu cá, trên một chiếc thuyền con giữa ao thu. Dù câu đã lâu nhưng
chẳng được con cá nào mắc câu cả, nhưng ông vẫn rất thảnh thơi, đủng đỉnh,
không có chút gì là vội vàng. Có lẽ ông đang tận hưởng thiên nhiên mùa thu tươi
đẹp xung quanh mình, chứ không phải tập trung để câu cá. Nhân vật trữ tình đã hòa
làm một với thiên nhiên, đồng điệu vào bức tranh thu tĩnh lặng. Nét động duy nhất
trong cảnh ấy chính là chú cá kiếm mồi dưới chân bèo. Nhưng cái động ấy thật sự
quá bé nhỏ, không đủ để tạo nên một âm thanh hay biến động nào trên mặt nước
như những cơn sóng biếc. Nhưng bởi vì không gian xung quanh tĩnh lặng, yên ắng
quá đỗi, nên tác giả mới có thể cảm nhận được chuyển động tinh vi này. Đó chính là
nghệ thuật lấy động để tả tĩnh. Lấy cái chuyển động bé nhỏ để làm bật lên cái tĩnh
lặng của cả không gian rộng lớn. Rõ ràng là cá vẫn đang kiếm ăn ở dưới chân bèo,
nhưng cần câu buông mãi lại không có cá cắn câu. Điều đó khiến em cho rằng thực
ra dây câu chẳng hề có lưỡi câu, nên cá cứ bơi qua, bơi lại mãi vẫn chẳng mắc. Nhà
thơ chỉ mượn việc câu cá, để được thư giãn, được thảnh thơi hòa mình vào không
gian. Tại đây, ông để cho tâm hồn mình được lắng lại, để tự thẩm thấu những cô
đơn, hiu quạnh trong nội tâm. Khi đất nước đứng trước cảnh lầm than, mà bản thân
ông lại chẳng thể góp sức, hiện đang lánh đời ở một làng quê nhỏ. Nỗi lòng ấy của
nhà thơ, khiến ông nhìn bức tranh thu quanh mình càng thêm trống trải, heo hắt. Bởi
cái trống vắng và tĩnh lặng ấy đến từ chính bản thân ông. Mà người ta vẫn thường
nói “Người buồn thì cảnh có vui bao giờ”.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến thực sự là một nghệ sĩ tài hoa khi thuần thục sử dụng các
thi pháp văn học trung đại một cách tinh tế vào từng câu thơ, như đăng đối, lấy tĩnh
tả động, ước lệ, chấm phá điểm nhãn… Nhờ vậy, ông đã khắc họa nên một bức
tranh mùa thu tuyệt đẹp với những đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Cho
đến nay, mùa thu vẫn luôn là một nàng thơ khiến biết bao thi sĩ ngợi ca, nhưng Thu
Điếu của Nguyễn Khuyến vẫn luôn là một thi phẩm tiêu biểu khó có thể thay thế được.
-----------------------------------------------------------------------------------