Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bữa cơm ngày đói trong Vợ Nhặt | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bữa cơm ngày đói trong Vợ Nhặt | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý cảm nhận chi tiết bữa cơm ngày đói
Dàn ý số 1
1. Mở bài
Giới thiệu về chi tiết bữa cơm gia đình: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa
nhất của truyện ngắn “Vợ nhặt” chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của
món cháo Cám.
2. Thân bài
- Bữa cơm ngày đói:
Là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối, một
đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong
ngày đầu tiên con dâu về nhà.
- ơng vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
- Ý nghĩa: Làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp phát xít
Nhật đã gây ra.
=> Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành
món ăn, món quà đặc biệt. Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người
nghèo khổ.
3. Kết bài
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự
trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng những người
nông dân nghèo.
Dàn ý số 2
a. Mở bài:
- Khái quát về tác giả Kim Lân nêu được những nội dung chính của tác phẩm Vợ
nhặt.
- Nêu được ý nghĩa chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm: Một trong số những chi
tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt chi tiết về mâm cơm ngày đói
với sự xuất hiện của món cháo Cám.
b. Thân bài:
- Phân tích bữa cơm ngày đói:
Đây là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối,
một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong
ngày đầu tiên con dâu về nhà.
Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
- Ý nghĩa của bữa cơm ngày đói
Qua chi tiết này làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp
và phát xít Nhật đã gây ra.
Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành
món ăn, món quà đặc biệt.
Từ đó làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ.
c. Kết bài:
- Khẳng định đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá
- Thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng
những người nông dân nghèo.
Dàn ý số 3
1. Mbài
Gii thiu vtruyn ngn Vnht và chi tiết ba cơm ngày đói
2. Thân bài
* Khái quát chung:
- Vị trí chi tiết: Nm gn cuối tác phẩm
- Chi tiết ba cơm ngày đói góp phn thhin tư tưng chủ đề của tác phẩm
* Cm nhn vchi tiết ba cơm ngày đói:
- Phn ánh tình cnh thm thương ca con ngưi trong nn đói:
+ Mâm cơm ngày đói ch "mt lùm rau chui thái ri, mt đĩa mui ăn vi
cháo"
+ Niêu cháo lõng bõng mà "mi ngưi đưc có lưng lưng hai bát đã hết nhn"
+ Gia đình bà cụ Tứ phi ăn cháo cám-thứ đồ ăn vn không dành cho con ngưi.
Khi nn đói hoành hành, con ngưi bđẩy đến ranh gii mong manh gia ssống
và cái chết. Nhng món đăn đơn gin đến mc thm hi li là thứ cứu đói cho c gia
đình bà cụ Tứ.
- Bộc lđưc vẻ đẹp đáng quý bên trong mi nhân vt:
+ Trong ba cơm, cTứ nói toàn chuyn vui v, tt đp sau này đđộng viên các
con.
→ Trong cnh khn cùng ca nn đói, khi sự sống ca con ngưi trnên mong manh,
nhthì các nhân vt trong truyn vn luôn lc quan ng v một tương lai tt
đẹp phía trưc.
+ Miếng cháo đng chát, nghn bgợi ra bên trong anh cu Tràng trách nhim trong
gia đình.
+ Chvợ nht thhin sý nh, tinh tế trong ch ng xschđộng trò chuyn
để xua đi không khí nng nề của ba cơm.
* Ý nghĩa ca chi tiết:
- Lên án ti ác ca thc dân Pháp và phát xít Nhật
- Thhin strân trng vi nhng v đẹp đáng quý ca con ngưi, đó tình thương,
là khát khao hnh phúc và sc sng mãnh lit.
--> Trong cơn nguy khn nht, bnạn đói vt kit ssống thì nhng con ngưi vn
luôn lc quan, hđùm bc, nâng đnhau cùng ng v tương lai tt đp vi mt
nim tin mãnh lit.
3. Kết bài
Rút ra kết lun chung
Dàn ý số 4
I. Mbài:
Gii thiu vn đề cần nghluận
Tác gi, tác phẩm
Nội dung chính toàn đoạn
Vấn đề cần nghluận
II.Thân bài:
- Gii thiu chung
Quan đim sáng tác ca tác gi
Hoàn cnh sáng tác và xut xứ của tác phẩm
Tóm tt ngn gn ni dung
Vị trí đon trích: Hình nh ba cơm ngày đói thuc phn cui ca tác phm.
Đây là ba cơm đu tiên bà cụ Tứ chun bị để đãi nàng dâu mi vào bui sáng
hôm sau, Tràng đưa ngưi vnht ca mình vnhà.
Nội dung khái quát đon trích:
- Bữa cơm ngày đói:
Là mt ba cơm tht thm hi, thiếu thn vi mt lùm rau chui thái ri, mt
đĩa mui ăn vi cháo, mt niêu cháo lõng bõng.
Món cháo cám xut hin như mt món quà đc bit mà bà cụ Tchun btrong
ngày đu tiên con dâu vnhà.
- Hương vmón cháo cám: miếng cháo đng chát nghn nơi cổ.
- Ý nghĩa: Làm tăng giá trhin thc khi tcáo ti ác ca thc dân Pháp và phát xít
Nht đã gây ra.
=> Trong nn đói, cháo cám món ăn vn không dành cho con ngưi cũng trthành
món ăn, món quà đc bit. Làm ni bt sc sng mnh mbên trong nhng con ngưi
nghèo kh
III. Kết bài:
Kết lun vn đ
Phân tích Vnht ba cơm ngày đói
Vợ nht truyn ngn hin thc xut sc ca nhà văn Kim Lân viết vnạn đói năm
1945. Thông qua nhân vt anh cu Tràng, cTứ chvợ nht, nhà văn Kim Lân
không chtái hin sng đng không khí ngt ngt, đng ca nn đói qua đó còn
đã làm ni bt lên vđẹp ca tình thương sc sng mãnh lit bên trong con ngưi.
Đặc bit, thông qua chi tiết ba cơm ngày đói gn cui tác phm, ngưi đc càng
thêm trân trng vđẹp đáng quý ca nhng nhân vt này, bi: "Trong hoàn cnh khn
cùng, cn kbên cái chết nhưng nhng con ngưi y không nghĩ đến cái chết
vẫn ng ti ssống, vn hy vng, tin ng tương lai. Hvẫn mun sng, sng
cho ra con ngưi".
Trong bui sáng đu tiên vnhà chng, chvợ nht đã cùng bà cụ Tứ dọn dp nhà ca
chun bbữa cơm gia đình. Sxut hin ca chvợ nht như thi thêm ngun sinh
khí mi cho ngôi nca mcon Tràng. Ngôi nhà lp xp, ti tàn ca mcon Tràng
trnên gn gàng, ngăn np, khu n nhcũng đưc dn sch ctrnên sch s,
tươi mi. Khuôn mt bng beo, u ám ca cTứ cũng trnên tươi tnh khác hn
ngày thưng, anh cu Tràng cũng trnên nhanh nhẹn, hot bát hơn. Không khí m áp,
hài hòa ca tình thân đã làm cho ngưi ta quên đi nhng ám nh khng khiếp ca nn
đói. Thế nhưng, trong ba cơm gia đình, mt ln na không khí như b trùng xung
bởi cái đói, cái khát vn cbủa vây, trc chđể dồn con ngưi ta đến c đưng
cùng ca sự bất lc và tuyt vng.
Bữa cơm đu tiên khi gia đình thêm nàng dâu mi cũng tht đc bit, không
"mâm cao c đầy" hay nhng món ăn đc bit li đơn gin đến mc thm hi
"Gia cái mt rách có đc mt lùm rau chui thái ri, và mt đĩa mui ăn vi cháo.. ".
Chvới mt vài nét miêu t, nhà văn Kim Lân đã tái hin đy chân thc cũng
không kém phn xót xa v tình cnh thm thương ca con ngưi trong nn đói. Khi
nạn đói hoành hành, con ngưi bđẩy đến ranh gii mong manh gia ssống cái
chết. Mt niêu cháo lõng bõng "mi ngưi đưc lưng lưng hai bát đã hết nhn"
lại ngun sng cho cgia đình cTSự trong cnh đói khát. Ssài, thiếu thn
của mâm cơm ngày đói khiến ngưi ta phi xót xa, thương cm.
Thế nhưng, thnói Kim Lân đã rt tinh tế khi xây dng chi tiết ba cơm ngày đói,
bởi qua đó không chtái hin tình cnh khn cùng ca nhng ngưi nông dân nghèo
trong nn đói còn thhin giá trnhân đo cùng sâu sc. Trong tn cùng ca
nạn đói, khi ssống ca con ngưi trnên mong manh, nhthì các nhân vt trong
truyn vn luôn lc quan ng vmột tương lai tt đp phía trưc. Trong ba
cơm, cTứ nói toàn chuyn vui v, tt đp sau này đđộng viên các con "Bà lão
nói toàn chuyện vui, toàn chuyn sung ng vsau này: Khi nào tin ta mua ly
đôi gà... này ngonh đi ngonh li chmấy ngay đàn cho xem". l
lão mun gieo vào lòng các con hi vng đcác con thyêu thương cùng nhau
t qua đưc giai đon đy khó khăn này.
Tấm lòng ngưi mcòn đưc thhin qua món quà i đy đc bit, o "lt đt
chy xung bếp, lmễ bưng ra mt cái ni khói bc lên nghi ngút". Món cháo cám
đưc cTứ gii thiu vi ging điu hào hng, phn khi "Va khuy khuy va
i: chè khoán đây, ngon đáo đcơ". gia cnh nghèo khó li gp nn đói hoành
hành khiến gia đình đã nghèo li càng thêm cc, thm thương. Thế nhưng, đchào
đón con dâu mi, cvẫn cgắng chun bmón quà i đtạo bt ngcho các
con. Ngay khi không khí ba cơm trùng xung bi miếng cám đng chát, nghn b
cổ thì cTứ vẫn c động viên các con "Cám đy mày . Xóm ta khi nhà còn ch
có cám mà ăn đy".
Có thnói ba cơm ngày đói đã phn ánh hin thc đy khc lit ca nn đói, khi con
ngưi phi ăn cnhng thvn không dành cho con ngưi đduy trì s sống. Thế
nhưng, đng sau sthm hi y ta li cm nhn đưc sm áp cao ccủa tình ngưi.
Miếng cháo đng chát, nghn bgợi ra tình cnh thm hi thế nhưng li tt c
tình yêu ca cTứ dành cho các con. Vđắng ca miếng cháo cũng khơi dy trong
anh cu Tràng trách nhim trong gia đình, cũng miếng cháo đng chát thm hi y
đã góp phn thhin đưc sý nh, tinh tế và mong mun vun vén hnh phúc gia đình
của chị con dâu.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, nhà văn Kim Lân không chlên án ti ác ca thc
dân Pháp phát xít Nht còn thhin strân trng vi nhng vđẹp đáng quý
của con ngưi, đó tình thương, khát khao hnh phúc sc sng mãnh lit.
Trong cơn nguy khn nht, dù bnạn đói vt kit ssống thì nhng con ngưi vn
luôn lc quan, hđùm bc, nâng đnhau cùng ng v tương lai tt đp vi mt
nim tin mãnh lit.
Cảm nhn ba cơm ngày đói trong Vnhặt
Khi nói vtruyn ngn “V nht”, Kim Lân đã tâm s: “Nhng ngưi đói, hkhông
nghĩ đến cái chết, hnghĩ đến cái sng”. Tht vy, nơi ranh gii gia ssống
cái chết y con ngưi vn khao khát tìm đưc sự sống và hnh phúc. Đon trích: “Ba
cơm ngày đói trông tht thm hi… cđỏ bay php phi” đã cho ta cm nhn đưc
tận cùng ca sxót thương vmột khung cnh khc lit ca nn đói nhưng con ngưi
vẫn khát khao ánh sáng, hnh phúc và tương lai.
Con gái nhà Kim Lân viết vcha mình khi ông mt: “Sinh thi thy tôi mt ngưi
mang rt nhiu mc cm”. Mc cm đây chc hn do nhà văn con ca vba, m
củav nhà văn ngưi n xóm ngcư. Cũng thế Kim Lân hiu hơn ccon ngưi
nơi đó. thế nhà văn đưc mnh danh nhà văn ca đng quê, ca nông thôn Vit
Nam. Tác phm ’Vnht’’ da trên tiu thuyết ‘’ Xóm ngcư’’ đưc viết ngay sau
Cách mng tháng Tám nhưng btht lc bn tho. Sau khi hòa bình lp li ( 1954)
cũng đã đưa mt phn ct truyn đviết truyn ngn này. Bng tài năng uyên bác
Kim Lân đã gây đòn vang ln cho tác phm ca mình.
Hình nh ba cơm ngày đói thuc phn cui ca tác phm. Đây ba cơm đu tiên
cTứ chun bđể đãi nàng dâu mi vào bui sáng m sau, Tràng đưa ngưi v
nht ca mình vnhà. Trưc hết đây hình ng đã tái hin hình nh khn cùng
đáng thương ca gia đình Tràng qua đó phn ánh đưc bc tranh hin thc ti tăm, m
đạm ca c ta trong nn đói lch s.Là ba cơm sum hp đu tiên - bữa ăn đón dâu
mới. Vy cTứ chng thsửa son đưc cho tươm tt, trưc hết đcúng gia
tiên mi h hàng sau na mng cho hnh phúc ca các con. Đon văn ba cơm
ngày đói trông tht thm hi gia cái mt rách chđôi mt lùm rau chui thái ri,
một đĩa mui mt niêu cháo lng bng. Đây nhng món ăn rt quen thuc ca
ngưi dân nghèo, tuy vy mi ngưi chđưc lưng lưng 2 bát hết nhn, ba mcon
đối mt vi ni cháo cám. Chi tiết đlại ám nh nht vi ni đc trong ba ăn này
chính chi tiết đó - nồi chè khoán đưc nu bng cháo cám. ththy nn đói
khng khiếp đã đẩy nhân dân ta vào cnh cùng qun ti mc phi ăn nhng thc ăn
vốn ca loài vt. Vy mà, miếng cám đng chát nghn bnơi chọng trong tình
cảnh này vn đưc xem ngon đáo đhay lm xóm ta khi nhà chng cháo
cám ăn. Trong tình cnh y mi ngưi c gắng đến đâu thì nim vui cũng
chng thtrn vn.Ba mcon ngi ăn lng ltâm trng dâng đy nhng ni ti hn,
đầy nhng d cảm lo âu. S thm hi ca ba cơm ngày đói càng tăng lên trong
không khí ngt ngt căng thng vi tiếng trng thúc thuế dồn dp hình nh nhng
đàn qua bay vn trên nn tri: như nhng đám mây đen. Âm thanh hình nh này
gợi lên không khí tang thương chết chóc. Ttiếng trng thúc thuế ta còn thy không
khí hin lên trong ba cơm hình nh ca bn thc dân phát xít vi nhng chính sách
cai trthâm đc tàn bo, tình cnh ca 2 triu đng bào ta trong thm ha khng
khiếp này.
Tuy nhiên ba cơm ngày đói trong tác phm này cùng cm đng, đó còn mt
bữa cơm chan cha tình ngưi. đó sáng lên nhng phm cht cùng đp đcủa
con ngưi Vit Nam trong khó khăn hon nn. Trưc hết đây là ba cơm din ra trong
không khí gia đình đm m hoà hp - mẹ con trên kính dưi nhưng, vợ - chng thun
hoà đm m. Mc ba ăn trông tht thm hi nhưng m toàn nói chuyn vui
chuyn sung ng vsau, va ăn va tính toán cho tương lai.Không phi ngu
nhiên khi c Tứ trong bui sáng hôm sau y li bàn vi con chuyn nuôi gà.
Chuyn nuôi đt qua nhng hoàn cnh cùng qun vn mang mt triết dân
gian thhin mt ch sâu sc cm đng. Nim lc quan vui ng ca nhân dân
bao đi. Đáp li li m, Tràng mt mc dvâng ngoan ngoãn còn ngưi dâu thì ý t
lễ phép. ththy chưa bao gitrong nhà này mcon li đm m hoà hp như thế.
Không khí ba cơm gia đình đã khng đnh trong hoàn cnh khn cùng kcả khi b
cái đói cái chết đe docon ngưi Vit Nam vn giđưc đo truyn thng đp đ
của dân tc mình. Không khí ba cơm ngày đói y đã làm sáng lên nhng phm cht
tốt đp ca con ngưi Vit Nam trong khó khăn hon nn. Trưc hết, đóvđẹp ca
tinh thn lc quan. Không phi ngu nhiên khi trong ba ăn bà mtoàn nói chuyn vui,
chuyn sung ng v sau bàn vi con chuyn nuôi gà: “có tin ta mua ly đôi
chmấy chc đàn cho xem”. còn nhc đến câu tc ng: Ai
giàu ba hai khó ba đi” chuyn nuôi đ t qua cơn bcực vn mt kinh
nghim sng đã đưc khái quát thành mt bài hc mt triết dân gian. Triết y
cùng vi nim tin: “ Ai giàu ba hai khó ba đi” ý nghĩa khng đnh: Trong bế tắc
cùng qun ngưi dân vn luôn lc quan đng vtương lai vui ng, đhi vng.
Vẫn biết cht chiu nim hnh phúc đi thưng tnhng điu vn bình d, gin đơn.
Lẽ thưng, nhng ngưi trtui mi hay nói chuyn tương lai, bàn đnh kế hoch đ
cTứ một ngưi gn đt xa tri bàn vi con nhng câu chuyn y chính cách
Kim Lân bc lnim tin vào nhng phm cht tt đp ca ngưi lao đng kcả khi
họ đă bdồn đến hoàn cnh khn cùng. Ni bt nht xúc nht trong bữa cơm ngày đói
này chính là tình yêu thương. Trưc hết đó là tình cm mcon dành cho con. Do hoàn
cảnh nhà cTứ phi đãi nàng dâu bng ni cháo cám. Chc chn cũng hiu ni
cháo đng chát y chng ngon đáo đhay lm cơ” song vẫn cố tạo
ra không khí vui vđể an i, đng viên các con. Ánh mt ca lp lánh, li nói ca
đon đ, c chlật đt đy phn chn tt cđều nhng biu hin ca tm lòng
ngưi m, đang ckholấp đang gng xua tan bóng đen u ám ti tăm đang bày ra
trưc mt đgieo vào lòng các con nhng nim hi vng. Không chtình cm m
dành cho con trong ba ăn còn ctình cm mngưi con dâu đă đưa hai tay
đón ly bát chè khoán” mtrao biết đó chcháo cám chvẫn ăn ngon. Đó
chính hành đng chđem tm lòng ca mình đđáp li tm lòng ca m. Nếu tình
cảm mcon dành cho nhau đưc biu hin qua chi tiết ni cháo cám thì tình cm v
chng dành cho nhau đưc khng đnh bng vic xut hin đi tnhân xưng trong
cuc trò chuyn Vit Minh phi không” sao nhà biết”. Tnhà” cho thy tình
cảm gia vchng htht m áp hoà thun. Ba cơm ngày đói trong tác phm này
còn phn ánh không khí đu tranh cách mng nim tin nim hi vng vào sđổi đi
của ngưi dân nghèo.
Trong âm thanh của tiếng trng thúc thuế, cui ba ăn v nht đã thông báo mt
thông tin quan trng: Vit Minh,…Thông tin y đã đem đến nim hi vng vào sthay
đổi ln lao ca nhân vt Tràng không chỉ bổn phn trách nhim đi vi ni thân gia
đình còn cý thức trách nhim đi vi hi. Câu chuyn ngưi ta không
chu đóng thuế na… ngưi ta còn phá ckho thóc ca Nht đchia chi ngưi đói”
ngưi vnht kcho mcon Tràng nghe đã msự vùng dy ca ý thc phn
kháng, nghe chuyn, Tràng hi v: Vit Minh phi không”. Bng hình nh đám ngưi
đói cùng cđbay php phi trong óc Tràng gi ta nghĩ đến con đưng tt yếu
vợ chng Tràng mcon Tràng sđi:con đưng cách mng. Đến vi cách mng đ gii
phóng quê hương đó nim tin ng, nim lc quan cũng tm lòng trân trng
lòng yêu thương nhà văn Kim Lân dành cho ngưi lao đng.
Đúng như câu nói: “Tôi viết như mt vic đưc thôi thúc bên trong nhưng cm xúc,
suy đòi hi tôi phi viết. Thc cht viết vào tôi viết vmình”. Hn tác giphải tht
sự hiu tôn trng nhng con ngưi khđau y đtìm cho hnhng ánh ng ca
hi vng.
Phân tích ba cơm ngày đói ngn gọn
“VNht” mt trong nhng tác phm thành công ca nhà văn Kim Lân. Nhng
trang văn ca ông thm đưm hin thc ca nhng năm đói kém 1945. Đc bit, cách
xây dng chi tiết rt thành công ca Kim Lân đã giúp tác phm trnên hp dn, n
ng vi ngưi đc. Đc bit, chi tiết vbữa cơm ngày đói đãi dâu mi vnhà chng
của bà cụ Tứ đã để lại nhiu cm xúc trong lòng ngưi đc.
chmt chi tiết nhnhưng cũng đphn ánh hin thc cuc sng cái đói
đang bao trùm toàn hi. Khác vi cách đi x của các gia đình khi đón con dâu
mới vnhà vi ba cơm tươm tt đmón, thì gia đình cTứ: “Gia mrách…
cháo mui”. Nhà văn Kim Lân đã miêu tchi tiết ba cơm y đgợi lên mt hi
nn đói hoành hành đã p đi sinh mng ca không biết bao nhiêu ngưi. Nhng
ngưi nông dân nghèo khy đang phi vt ln, chiến đu vi tthn đgiành li s
sống. Tuy nhiên, trong khnăng ca mình, bà Tư vn nu món sang nht cho con dâu:
cháo cám. Ngưi mchng y đã không nbỏ bữa ăn đu tiên ca con dâu khi nh
nhà mình vì quá nghèo. Dù không phi là món ngon đy đcht dinh dưng nhưng đó
là điu quý giá trân trng nht mà Tdành cho cô con dâu mi. ràng lúc by
gichcần cái ăn đduy trì ssống chkhông cn ăn no hay không, nn đói năm
1945 đã đưc nhà văn Kim Lân khc ha mt cách rõ nét và chân thc nht.
Qua đó, ngưi đc cm kích tm lòng đáng quý của cTứ, trong cnh nghèo khó,
ngưi đi tranh giành nhau, vn chia scuc sng y vi cô con dâu mi. Đng
thi thhin skiên ng, không chu khut phc trưc cuc sng ca nhng ngưi
dân nghèo khnơi đây.
Phân tích bữa cơm ngày đói
Bài làm mẫu 1
Kim Lân một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc về nông thôn Việt
Nam với những trang viết đặc sắc về phong tục đời sống làng quê. Ông viết chân
thật xúc động về cuộc sống của người dân quê với tình cảm đứa con của ruộng
đồng. Và tác phẩm "Vợ nhặt" được trích từ tập "Con chó xấu xí" của ông một trong
số những tác phẩm tiêu biểu tái hiện được chân thật cuộc sống khổ cực của người
nông dân trước nạn đói khủng khiếp 1945. Qua tác phẩm, ta thấy nổi bật lên chi tiết
bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng gây nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc.
Truyện ngắn Vợ nhặt tiền thân tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được Kim Lân sáng tác
ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công nhưng còn dang dở mất bản
thảo. Sau khi hòa bình lập lại Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện để viết truyện
ngắn này.
Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng một
chi tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong
hoàn cảnh nạn đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông
thường bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự
gắn kết của con dâu với nhà chồng. Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy
lại vô ng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái mẹt rách độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Chỉ với những
chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy.
Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống
mong manh từ tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn
chúng ta ai cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng
đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này
nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động
lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng lẽ đó niềm vui
thật sự bởi trong gian khổ nhưng họ vẫn nhau, vẫn lạc quan vẫn hạnh phúc
yêu thương nhau. Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu khắc hoàn cảnh
nghèo khó cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình
họ cùng hòa hợp, hạnh phúc. Chính thế trong bữa cơm "Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Khi nào tiền ta mua lấy đôi gà...
này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy ngay đàn cho xem". Những câu
chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi sáng đầy
hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn hướng về phía trước của
bà cụ Tứ, cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ ấy.
Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh
chóng bị dập tắt "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng lưng hai bát đã hết
nhẵn". Dường như đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm
lòng nhân hậu, thương người hết mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè
khoán đây, ngon đáo để cơ". Tuy nói chè khoán nhưng thật sự đó nồi cháo cám
chát xít, vốn thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn cái thực trạng
tàn khốc của nạn đói 1945 tội ác tàn bạo của phát xít tay sai đẩy những con
người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên
được những phẩm chất tốt đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha
hóa. Nổi bật nhất đó chính cụ Tứ, nào đâu phải không biết nồi cháo cám kia
chát xít chẳng hề ngon lành nhưng vẫn bảo "ngon đáo để cơ" đang cố
động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy. Ta cảm
thấy như mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng
khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười động viên các con: "Cám
đấy mày ạ", "Xóm ta khối nhà còn chả cám ăn đấy", gieo vào lòng các con
mình niềm hy vọng sống vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật t xa biết bao!
cụ Tứ quả thật một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng
ngời những phẩm chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa,
chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc
quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các
con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như cụ Tứ còn khát khao sống
mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực tiếp tục
nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. cụ Tứ người thắp lửa, giữ lửa,
truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến
với các con cũng như những người khác.
Không chỉ cụ Tứ qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất chi tiết nồi cháo
cám ta còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng
người vợ nhặt. Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn
chum ngay lại, miếng cám đắng chát nghẹn bứ trong cổ". Qua đây ta thấy anh
Tràng một người cùng khéo léo trong cách ứng xử. Mặc hổ thẹn không
lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng hiểu được hoàn cảnh mà
không một lời oán than. Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến trong
tính cách của thị cùng ràng. Ta không còn thấy một người đàn "chỏng lỏn",
"đanh đá", "chua ngoa" "cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta
không còn thấy người đàn bỏ hết cả sự duyên dáng danh dự miếng ăn
"cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc" trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ.
thay vào đó một người đàn hiểu chuyện: khi nhận bát cháo cám từ tay mẹ chồng
"người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tốt lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng". Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo, hiểu chuyện biết
chấp nhận cảm thông với gia đình chồng không một lời kêu ca, muốn cùng gia
đình chồng vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi khao khát một mái
ấm gia đình hạnh phúc của người đàn ấy cho khó khăn nhưng thị vẫn đồng
cảm và sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng nhà chồng. Thật đáng quý!
Không chỉ dừng lại đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực
tàn khốc c đó lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít tay sai. Chúng bắt người
dân ta phải nhổ lúa trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện.
Chúng khiến người dân ta sống cũng như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây
ma ngoài đường, nhiều khi sống cũng không bằng chết. Nhân dân ta phải ăn cháo cám,
thứ thức ăn của gia súc, thậm chí nhà còn không cám ăn. Trong hoàn cảnh
ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm
hại chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật
xây dựng tính cách nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm sắc sảo, tinh
tế cũng như nghệ thuật trần thuật mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã
xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu
thật chân thật và nhiều ý nghĩa.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng
qua đó lại ngời lên những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó
khăn, bần cùng cơ cực ấy nhưng họ vẫn có nhau, vẫn yêu thương nhau, vẫn hạnh phúc
và luôn lạc quan tin tưởng vào cách mạng thành công và tương lai tươi sáng.
Bài làm mẫu 2
Vợ nhặt truyện ngắn hiện thực xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết về nạn đói năm
1945. Thông qua các nhân vật Tràng, cụ Tứ chị dâu, nhà văn Kim Lân không
chỉ tái hiện một cách sinh động không khí oi bức. Sự ngột ngạt, trì trệ của nạn đói
cũng đã đậm thêm vẻ đẹp của tình yêu thương sức sống mãnh liệt bên trong con
người. Đặc biệt, qua chi tiết bữa đói bữa no gần cuối tác phẩm, người đọc càng trân
trọng những vẻ đẹp đáng quý của những nhân vật này, bởi: “Trong hoàn cảnh éo le,
dẫu cận kề cái chết, nhưng con người ta lại không. nghĩ về cái chết, nhưng vẫn hướng
về cuộc sống, vẫn hy vọng, tin tưởng vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống để làm
người. “
Sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ và bà cụ Tứ đã dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm
gia đình. Sự xuất hiện của chị vợ như thổi luồng sinh khí mới vào ngôi nhà của mẹ
con Tràng. Căn nhà lụp xụp, xập xệ của mẹ con Tràng trở nên gọn gàng, ngăn nắp,
mảnh vườn nhỏ cũng được dọn cỏ trở nên sạch sẽ, tươi mát. Vẻ mặt rũ, của
cụ Tng trở nên khác hẳn ngày thường, anh trai Trang cũng trở nên nhanh nhẹn,
hoạt bát hơn. Không khí đầm ấm, chan hòa tình thân khiến mọi người quên đi những
ám ảnh kinh hoàng về cái đói. Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, một lần nữa không
khí như giảm đi bởi cái đói, cái khát vẫn bủa vây, chực chờ lùa người ta đến tận cùng
của sự bất lực, tuyệt vọng.
Bữa cơm đầu tiên khi gia đình có nàng dâu mới cũng rất đặc biệt, không có “mâm cao
cỗ đầy” hay những món ăn đặc sắc lại đơn giản đến mức thảm hại. con rối đĩa
muối ăn cháo hành .. “. Chỉ với vài nét miêu tả, nhà văn Kim Lân đã tái hiện chân
thực tình cảnh bi đát của con người trong nạn đói. cái chết, một nồi cháo lỏng lẻo
“mỗi người hai bát cạn” nguồn sống của cả gia đình ông giữa cái đói cái
khát Cái mâm cơm sơ sài, thiếu thốn ngày đói khiến mọi người cảm thấy tiếc cho họ.
Tuy nhiên, thể nói Kim Lân đã rất tinh tế khi xây dựng chi tiết bữa cơm ngày đói,
bởi qua đó không chỉ tái hiện cảnh ngộ của những người nông dân nghèo khổ trong
nạn đói còn thể hiện giá trị nhân đạo. cùng sâu sắc. Trong thời kỳ đói kém, khi
mạng sống con người trở nên mong manh, nhỏ bé, nhưng các nhân vật trong truyện
vẫn luôn lạc quan và hướng tới một tương lai tốt đẹp. Trong bữa cơm, bà cụ Tứ nói về
những điều vui, điều tốt trong tương lai để động viên con cháu “Bà cụ kể chuyện vui,
chuyện vui sau này: tiền thì mua cặp. của những con Không cần phải nhìn
lại nhiều, nhưng những con cho bạn xem. lẽ cụ muốn truyền cho bạn
niềm hi vọng để hai bạn có thể yêu thương và cùng nhau vượt qua quãng thời gian khó
khăn này.
Tấm lòng của người mẹ còn được thể hiện qua món quà cưới đặc biệt lão “xúng
xính bếp, bưng ra một cái nồi bốc khói nghi ngút”. Món cháo cám được cụ Tứ
giới thiệu với giọng hào hứng “Vừa khuấy vừa cười: chè đây, ngon quá”. Tuy nhà đã
nghèo nhưng nạn đói hoành hành khiến gia đình vốn đã nghèo lại càng thêm khốn khó,
bi đát hơn. Tuy nhiên, để đón con dâu mới, cụ vẫn cố gắng chuẩn bị quà cưới để
tạo bất ngờ cho con cháu. Ngay khi không khí bữa cơm trùng xuống miếng cám đắng
nghét cổ họng, cụ vẫn ra sức động viên trẻ: “Cảm ơn anh nhé. Cả xóm mình còn
không có cám mà ăn”.
thể nói, bữa cơm đói hàng ngày phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói, khi con
người phải ăn những thứ không phải để con người duy trì sự sống. Tuy nhiên, đằng
sau sự đáng thương ấy, chúng ta cảm nhận được sự ấm áp cao cả của tình người. Cháo
đắng, cay lưỡi gợi ra một hoàn cảnh thật đáng thương nhưng đó tất cả tình yêu
thương của cụ Tứ nh cho các con của mình. Vị đắng của bát cháo cũng khơi dậy
anh Tràng trách nhiệm trong gia đình, nhưng chính vị đắng của cháo đã góp phần
thể hiện sự dịu dàng, tinh tế và khát khao vun vén hạnh phúc gia đình của chị. con dâu.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, nhà văn Kim Lân không chỉ lên án tội ác của thực
dân Pháp, phát xít Nhật còn thể hiện sự trân quý đối với vẻ đẹp đáng quý của con
người, đó lòng yêu thương, khát khao. khát khao hạnh phúc sức sống mãnh liệt.
Trong cơn hiểm nghèo, bị đói khát tính mạng nhưng mọi người vẫn luôn lạc quan,
đùm bọc, đùm bọc lẫn nhau và hướng tới tương lai tốt đẹp với một niềm tin sắt đá.
Bài làm mẫu 3
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang
văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc
xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút
gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới phần cuối
tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói cuối tác phẩm một chi tiết nhỏ
nhưng lại sức ám ảnh lay động người đọc. Thông thường, bữa cơm đón nàng
dâu mới là một bữa ăn có vai trò quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm ấm giữa gia đình
nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu không muốn nói tuềnh toàng thảm hại.
“Giữa cái mẹt rách… muối ăn với cháo”. đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn
ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài.
Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời,
chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ
đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. điều cần nhất
lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn chỉ cần ăn để được sống. Do đó, xét
trong tình cảnh hiện thực năm 1945 mặc bữa cơm đơn sơ, tuềnh toàng sài
bao nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới
của sự sống cái chết. Đặc biệt, liêu cháo loãng nhanh chóng hết nên mẹ con cụ Tứ
phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.
Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo không khí đầm ấm
trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì “một nỗi
tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén
những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả con dâu kia, dường
như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy chồng trong cái nghèo, cái đói
bủa vây như vậy. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. cụ Tứ chắt
chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. “Bà cụ vừa ăn vừa
kể chuyện… toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là
người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con
cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bông đùa của
cụ Tứ “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói toát lên khí chất của một mẹ
vừa hóm hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui
vẻ, xua tan đi không khí u ám chiếm lĩnh không gian ngôi nhà bà.
thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới phần cuối tác phẩm vừa đậm giá trị
hiện thực nạn đói năm 1945. Để qua đấy, người đọc thể hình dung ra được những
thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao trùm mọi ngóc
ngách, ngôi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh mạng của biết bao con
người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng tác dụng tô đậm thêm giá trị nhân đạo
của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương sâu sắc cho người nông dân lao
động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng như khí chất của con người lao động thời
kỳ bấy giờ. hoàn cảnh khó khăn đến đâu, họ vẫn sống đối xử với nhau bằng
hơi ấm của tình người. bằng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác
giả đã gây ấn tượng mạnh vào tâm trí của người đọc.
Bài làm mẫu 4
Thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” không chỉ bởi nội dung đặc sắc cùng tinh thần
nhân văn cao cả còn được tạo nên bởi hàng loạt những chi tiết đặc sắc. Một trong
số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt chi tiết về mâm
cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo cám.
Trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã cùng cụ Tứ quét dọn làm
cho ngôi nhà lụp xụp của mẹ con Tràng trở nên sáng sủa như vừa được thổi thêm
luồng sinh khí mới. Trong bữa cơm gia đình, tác giả Kim Lân đã đặc biệt chú trọng
đến việc miêu tả mâm cơm ngày đói. Đó một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với
một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng
mỗi người chỉ được lưng lưng hai bát, xuất hiện trên mâm cơm ngày đói còn món
ăn vốn không dành cho con người cháo cám.
Điều đáng nói món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt cụ Tứ
chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà, điều này được thể hiện trực tiếp qua sự
hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè khoán, chè khoán đây”. Khi
không khí bữa ăn trầm lại miếng cháo đắng chát nghẹn nơi cổ thì vẫn cố động
viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không
mà ăn”.
Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực
khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp phát xít Nhật đã gây ra. Trong nạn đói, cháo
cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt.
Cuộc sống trở nên thảm hại ám ảnh đói khát nhưng con người trong bức tranh nạn
đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc sống tốt đẹp ở tương lai,
thể hiện sức sống tinh thần đầy mạnh mẽ.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự
trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng những người
nông dân nghèo. H những nạn nhân đáng thương bị nạn đói vắt kiệt sức sống
nhưng họ vẫn luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt sức sống tinh thần mạnh
mẽ.
Bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt
Bài làm mẫu 1
Dưới ngòi bút tài năng của mình, nhà văn Kim Lân đã thành công xây dựng chi tiết
bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ nhặt.
Cũng như bao gia đình khác, trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã
dậy thật sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp lại căn nhà sáng sủa, gọn gàng hơn. Bà cụ Tứ
cũng chu đáo, không quên chuẩn bị bữa cơm sáng đón tiếp con dâu. Nhưng khác xa so
với tưởng tượng của người đọc thì bữa cơm ấy lại là bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn
chẳng có gì ngoài một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo
lõng bõng. Dường như món cháo o đã thức ăn xa xđể cTchiêu đãi con
dâu ngày đầu ra mắt nhà chồng. Đó cũng như một món quà đặc biệt cụ Tứ
chuẩn bị trực tiếp qua sự hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè
khoán, chè khoán đây”. Khi không khí bữa ăn trầm lại miếng cháo đắng chát nghẹn
nơi cổ thì vẫn cố động viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm
mình khối nhà còn không có mà ăn”.
Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực
khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân ta. Trong
nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn,
món quà đặc biệt. Cuộc sống trở nên thảm hại ám ảnh đói khát nhưng con người
trong bức tranh nạn đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc
sống tốt đẹp ở tương lai, thể hiện sưc sống tinh thần đầy mạnh mẽ.
Chi tiết bữa cơm ngày đói ấy không chỉ tái hiện lại toàn cảnh nạn đói hội chúng ta
lúc bấy giờ n thể hiện khát vọng mạnh mẽ, chiến đấu với tử thần để giành lại
được sự sống của người nông dân.
Bài làm mẫu 2
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, tôi đặc biệt chú ý tới đoạn văn
miêu tả bữa cơm ngày đói.
Chi tiết nằm ở phần cuối của truyện ngắn Vợ nhặt. “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà
cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. lão nói toàn chuyện vui,
toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc ngay
đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mcon lại
đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu
cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười,
đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn xem. Xóm ta còn khối nhà chả
cám mà ăn đấy…".
Đó bữa cơm của gia đình Tràng với lần đầu tiên sự hiện diện của người phụ nữ
“vợ nhặt”. Hình ảnh bữa cơm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, gợi mở nhiều điều
về hiện thực. Trước hết, đó là sự thảm hại của cuộc sống người nông dân nơi xóm ngụ
vào những ngày nạn đói hoành hành. Bình thường, cuộc sống của người dân xóm
ngụ cư vốn đã đầy ắp những nỗi khó khăn. Giờ giữa nạn đói, mọi chuyện càng trở nên
tồi tệ hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại chú ý đặc tả hình ảnh bữa ăn nhà Tràng. Quan
sát bữa ăn của gia đình họ, người đọc không thể không trỗi lên một niềm thương cảm.
Bữa ăn chỉ một ít cháo rau chuối, không đủ cho ba miệng ăn. Bởi vậy, ngay sau
đó cụ Tứ đã bổ sung thêm món “chè khoán”. Gọi “chè khoán” chứ thực chất đó
món cháo cám, một thứ người ta vẫn thường dùng làm thức ăn cho gia súc.
không phải thức ăn của con người nên chỉ mới đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn,
“hai con mắt thị tối lại”. Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun
lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.
Không khí bữa ăn chùng xuống, bởi “không ai nói câu gì”, “tránh nhìn mặt nhau”
đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” của riêng mình. Bữa ăn nhà Tràng quả thê thảm nhưng
sao vẫn còn khá hơn nhiều nhà khác. Câu nói của cụ Tứ đã mách bảo cho ta
thực tế đó. "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy".
Một đoạn văn ngắn mà đã nói được một cách thấm thía nỗi cơ cực của con người. Qua
đây, người đọc thể nhận ra thái độ cảm thông cách tố cáo hiện thực của nhà văn
Kim Lân.
Khi được hỏi về quan điểm viết truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói rằng: “Khi
tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi những người đói thế nào đi nữa vẫn luôn
khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách hồ vào cuộc sống tương lai”.
Quan điểm đó đã chi phối sâu sắc tới quá trình triển khai, xử các tình huống nghệ
thuật của nhà văn. Đoạn văn miêu tả bữa cơm ngày đói vẫn không ngoài tinh thần
chung đó.
Như đã nói trên, hình ảnh bữa cơm gia đình Tràng một biểu hiện sinh động của
tình trạng thảm hại những ngày đói năm 1945. Cái đói đã đẩy con người về hàng súc
vật. Nhưng con người vẫn con người, vẫn tìm cách nương tựa vào nhau sống,
vẫn khát khao, hi vọng. Bởi vậy, một không khí khác trong đoạn văn miêu tả bữa
cơm ngày đói của Kim Lân. Đó không khí đầm ấm, đầy ắp tình người của gia đình
Tràng. "Chưa bao giờ trong gia đình này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế". Nhân
vật tạo nên không khí đầm ấm đó không ai khác hơn là bà cụ Tứ. Trong bữa ăn "bà lão
nói toàn chuyện vui", lúc nào cũng "tươi cười, đon đả". thể cái "tươi cười, đon đả"
của cụ để nhằm khỏa lấp tình trạng đen tối của hiện thực nhưng căn bản đó nụ
cười hạnh phúc của người mẹ nghèo trước cuộc sống mới của Tràng. hiểu, mọi
cuộc hôn nhân đều hàm chứa một khát vọng xây đắp cuộc sống của con người. Cho
nên, câu chuyện trong bữa ăn với các con của những "hoạch định" về tương lai.
Đó việc sử dụng chỗ đầu bếp làm cái chuồng gà. hi vọng khi tiền sẽ mua lấy
đôi gà, "ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…".
Chợt nhớ tới triết “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây” trong bài ca dao Mười cái
trứng nổi tiếng của nền văn học dân gian Việt Nam. Bản chất con người Việt Nam
vậy, luôn biết tin tưởng và lạc quan.
Bữa cơm ngày đói do vậy, tuy "thảm hại" xong vẫn đầm ấm tình người, vẫn ánh
lên những tia hi vọng vào cuộc sống sẽ đổi thay. Ngòi bút của Kim Lân đã chạm vào
được tầng sâu của hiện thực.
Bài làm mẫu 3
“Vợ nhặt” một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã
miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp sức sống kỳ diệu
của họ. Nổi bật trong truyện là chi tiết bữa cơm ngày đói sau khi Tràng đưa cô vợ nhặt
về nhà.
Tràng - một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già xóm ngụ cư. Một ngày nọ,
trên đường kéo xe o dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa
bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà
mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó đón nhận người đàn khốn khổ ấy
làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy
mình đổi khác. Anh cảm thấy mình trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng
dâu mới chỉ vài món ăn đơn giản: “Giữa cái mẹt rách độc một lùm rau chuối
thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
Đó bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng vợ - một bữa cơm ý nghĩa cùng quan
trọng. Trước hết, hình ảnh bữa cơm một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, gợi mở về
hiện thực hội lúc bấy giờ. Thông thường trong cuộc sống bình, sau khi lấy vợ thì
cuộc sống trong gia đình sẽ có sự thay đổi, bữa ăn hàng ngày sẽ đầy đủ, chỉn chu hơn.
Nhưng trong hoàn cảnh của Tràng thì bữa cơm đầu tiên của lại chỉ vài món ăn đơn
giản. Đó sự thảm hại của cuộc sống người nông dân nơi xóm ngụ vào những
ngày nạn đói hoành hành. Cuộc sống của họ vốn đã rất khó khăn, nhưng giữa nạn đói,
mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn. Chi tiết bữa ăn ngày đói càng làm nhấn mạnh
cuộc sống khổ cực của họ. Nhưng đặc biệt nhà văn lại miêu tả, họ ăn rất ngon lành,
lại nói với nhau những điều rất vui vẻ. Từ đó cho thấy sự lạc quan, niềm tin vào một
vào tương lai tốt đẹp của những người dân lao động nghèo.
Đặc biệt hình ảnh nồi cháo cám cụ Tứ gọi đó “chè khoán”. Kim Lân đã
miêu tả thật khéo léo:
“Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mvẫn tươi cười,
đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn xem. Xóm ta còn khối nhà chả
cám mà ăn đấy…”.
Hình ảnh nồi cháo cám của cụ Tứ lại kéo họ trở về thực tế. cụ Tứ gọi “chè
khoán” chứ thực chất đó là món cháo cám - đó là thứ đồ ăn dùng để chăn nuôi gia súc.
Thái độ của thị khi đón lấy bát “cháo cám” được miêu tả: “hai con mắt thị tối lại”.
Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Không khí bữa ăn cũng vì thế mà lắng xuống. Cả gia
đình “không ai nói câu gì”, “tránh nhìn mặt nhau” đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” của
riêng mình. Hình ảnh nồi cháo cám càng làm cho hoàn cảnh trở nên thê thảm hơn.
Nhất đối với người vợ nhặt, những tưởng sau khi theo Tràng về sẽ thoát khỏi cuộc
sống nghèo đói, nhưng nào đâu gia cảnh của nhà Tràng cũng chẳng khá hơn.
Như vậy, chi tiết bữa ăn ngày đói thật giàu ý nghĩa. Bữa ăn ngày đói tuy thảm hại
nhưng vẫn thể hiện về niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Bài làm mẫu 4
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả thật điều đó đã được thể hiện qua truyện
ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đó chi tiết bữa cơm ngày đói sau khi Tràng
được vợ. Đây một chi tiết giàu ý nghĩa thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà
văn.
“Vợ nhặt” kể về Tràng một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư.
Một ngày nọ, trên đường kéo xe vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ
với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi
về đến nhà, mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó đón nhận người đàn
khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng cảm
thấy mình có sự thay đổi kì lạ. Sau đó là bữa ăn ngày đói của cả gia đình.
Trong cuộc sống, bữa ăn đầu tiên của mt gia đình sau khi nàng dâu mới rất quan
trọng. Nhưng trong Vợ nhặt thì bữa ăn chỉ “độc một lùm rau chuối thái rối,
một đĩa muối ăn với cháo”. Toàn những món ăn hết sức đơn giản. Bữa cơm đã cho
thấy sự nghèo đói của một gia đình tầng lớp ới cùng của hội. Đồng thời việc
miêu tả bữa ăn cũng cho thấy một hiện thực nông thôn Việt Nam những năm 1945.
Nạn đói hoành hành, đẩy con người vào cuộc sống nghèo đói. Nhưng trong hoàn cảnh
vậy, họ vẫn lạc quan, “cả nhà đều ăn rất ngon lành”, rồi họ nói với nhau về chuyện
tương lai tốt đẹp.
Đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là chè khoán. Món ăn thường dùng
trong chăn nuôi gia súc. Vậy đây lại thức ăn của con người. Cách gọi của bà
cụ Tứ gợi ra tiếng cười xót xa cho cảnh ngộ của con người trong nạn đói. Tuy vậy,
cách đón nhận của mỗi người lại khác nhau. cụ Tứ vẫn tươi cười, đón đả: - Cám
đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn xem. Xóm ta khối nhà còn chả cám
ăn đấy”. Người vợ nhặt thì đón lấy bát “cháo cám” được miêu tả: hai con mắt thị tối
lại”. Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám
đắng chát nghẹn bứ trong cổ”. Nồi cháo cám đã kéo họ về với hiện thực cuộc sống
đói nghèo. Kim Lân tiếp tục miêu tả: “Bữa cơm từ đấy không ai i câu gì, họ cắm
đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi
người”. Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng đã gửi gắm nhiều ý nghĩa.
Qua chi tiết Kim Lân xây dựng, người đọc thể cảm nhận sâu sắc về nạn đói
năm 1945, cũng như thấu hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong
hoàn cảnh đó.
Bài làm mẫu 5
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân chính là một trong những tác phẩm kinh điển
tái hiện chân thực, sinh động của nạn đói những năm 1945 khiến 2 triệu đồng o
nhân dân ta chết vì đói.
Thật vậy, sự đói kém của những vùng làng quê đã được thể hiện trực tiếp bằng những
hình ảnh như: đội chiếu lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết như ngả rạ, ba bốn cái thây nằm
còng queo bên đường và mùi gây của xác người.
Bức tranh tổng quan về nạn đói những năm 1945 được khắc họa vô cùng chân thực
sinh động dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân. Tiếp theo, nạn đói tiếp tục được thể
hiện qua tình huống nhân vật Tràng lấy được vợ. Sự nghèo khó đã đưa hai con người
đến với nhau. lần gặp thứ hai, quá đói nhân vật Thị đã đánh mất hết tự trọng
để “đòi nợ” Tràng lời hứa mời ăn hôm trước. cũng sự nghèo khó ấy chỉ
bằng một câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng Thị trở về nhà Tràng họ nên
duyên vợ chồng với nhau.
Việc lấy vợ một sự kiện thiêng liêng trọng đại nhưng cái nghèo ta được
chứng kiến một đám cưới không thể đơn giản hơn. Tràng cũng đã tưởng tượng đến sự
đói nghèo không biết sống nổi để mà nuôi nhau hay không nhưng Tràng vẫn nhắm
mắt mặc kệ. Sự nghèo khổ của gia đình nhà Tràng còn được thể hiện bằng tâm tư, tâm
trạng chua xót của người mẹ. Những giọt nước mắt của lão rơi xuống minh chứng
cho tình yêu thương con, cùng với đó sự chua xót cho tình cảnh nghèo khó của gia
đình nhà mình. Hoàn cảnh nghèo khó khủng khiếp của gia đình Tràng cũng như bao
gia đình khác được thể hiện bằng hình ảnh của nồi cháo cám.
Nồi cháo cám thể hiện cho sự nghèo khó đến tột cùng của gia đình những người nông
dân lúc bấy giờ. Sự nghèo đói đã đưa đến kết thúc mở cho truyện đó là hình ảnh của lá
cờ phấp phới, mở đường cho những người nông dân nghèo khó lúc bấy giờ phá kho
thóc của Nhật đthể sống sót khỏi nạn đói. Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt của nhà
văn Kim Lân đã thể hiện được tài tình và xuất sắc nạn đói những năm 1945 những
người nông dân phải gánh chịu.
Bài làm mẫu 6
Những nghịch lý, mâu thuẫn luôn là một phương diện của xã hội, nhất là khi xã hội ấy
đang rối ren, bế tắc trong cảnh đói nghèo của năm 1945 hay đang bát nháo, giả dối
trên con đường Âu hóa thành thị. Hãy nhìn vào cái đám cưới qua ngòi bút xây dựng
tình huống truyện của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt để cảm nhận được bữa cơm
ngày đói.
Tràng là dân xóm ngụ cư nghèo khổ lại xấu xí. Trong cơn đói quay quắt và người chết
như ngả rạ, Tràng lại “cưới” một cô vợ nghĩa là thêm một miệng ăn.
Những cái không có hoặc không bình thường trong “đám cưới”: Đám cưới ở đây được
hiểu hoàn toàn theo nghĩa bóng hai người lấy nhau, về sống cùng nhau trong một
mái nhà chứ không hề một sự chuẩn bị, tổ chức hay bất cứ dấu hiệu nào của cái
đám vui.
Không dạm hỏi, làm quen hay mai mối, cũng không hề tìm hiểu nhau như những
cái đám ới bình thường. do Thị theo Tràng về nhà chỉ bằng vài ba câu bông đùa
bốn bát bánh đúc. Để bám víu, tầm gửi thân phận trong cảnh đói khổ Thị đã không
hề suy nghĩ lựa chọn cho quyết định của mình còn Tràng thì sự tình đến bất ngờ khiến
Tràng chỉ “chậc, kệ” phó mặc cho cuộc đời.
Không có sính lễ của đàng trai cũng không có của hồi môn bên đàng gái. Món quà
Tràng cho vợ ngày cưới là “cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”. Đám cưới chẳng hề có
một quan khách hay họ hàng nào đến chia vui bởi nghèo túng miếng cơm còn
không ăn thì lấy đâu đãi khách khứa “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy,
nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này”
Đêm tân hôn diễn ra trong căn chòi rúm ró, phên nứa rách nát lại tiếng khóc tỉ
bên ngoài vọng vào. Thảm hại nhất bữa ăn sáng hôm sau ngày gia đình chào đón
nàng dâu mới. Đã không mâm cao cổ đầy để ra mắt họ hàng lại chẳng được bữa
cơm thịnh soạn cho ra hồn “giữa cái mẹt rách độc một lùm rau chuối thái rối,
một đĩa muối ăn với cháo… Nồi cháo lõng bõng, mỗi người ăn có lưng lưng hai bát đã
hết nhẵn”. Bữa ăn bị gián đoạn và sự xuất hiện bất ngờ của nồi “chè khoán” - thật ra là
món cháo cám chát đắng, thức ăn lẽ ra của động vật chứ không phải con người.
Đằng sau đám cưới không Kim Lân xây dựng tình huống truyện những chi
tiết mang sức ám nh đến lay động lòng người. Sự tuềnh toàng thảm hại trong cái
đám cưới đã phản ánh được chân dung cảnh nghèo túng đến thảm thương của người
dân trước năm 1945, họ phải giành giật, đấu tranh hằng ngày với cái đói, cái chết.
Ngược lại với cái đói, cái nghèo, con người trong Vợ Nhặt lại ấm áp, giàu tình yêu
thương và khát khao sống. Bữa ăn không đủ no nhưng mọi người ăn với thái độ vui vẻ.
Đến lúc nồi cháo cám xuất hiện miếng cám chát xít nghẹn cổ nhưng con dâu
vẫn chấp nhận thông cảm, thấu hiểu cho cảnh ngộ éo le của cơn đói. cụ Tứ
hiện lên trong bữa ăn như một ngọn lửa cố gắng đem ánh sáng của mình thắp niềm tin
cho hai con. kể toàn những chuyện vui, cái tuổi xế chiều vẫn lạc quan, tin
tưởng vào chân của ông “không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”. truyền
cho các con mình chút an ủi, chút hi vọng cho cuộc sống quá tối tăm. Chi tiết nồi chè
khoán “ngon đáo để” chi tiết xúc động về tình mẫu tử về tấm lòng nhân hậu của
người mẹ nghèo.
Trong tất cả những thứ không thì Kim Lân đã khẳng định điều thiêng liêng tồn tại
trong truyện, đó chính tình người. Tình người giúp Thị tìm được nơi nương tựa,
giúp Tràng cụ Tứ thêm hi vọng sống, giúp xóm ngụ vui tươi hơn mọi khi
cũng giúp trang văn ấm áp lạ thường.
| 1/28

Preview text:


Dàn ý cảm nhận chi tiết bữa cơm ngày đói Dàn ý số 1 1. Mở bài
Giới thiệu về chi tiết bữa cơm gia đình: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa
nhất của truyện ngắn “Vợ nhặt” là chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo Cám. 2. Thân bài - Bữa cơm ngày đói:
● Là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối, một
đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
● Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong
ngày đầu tiên con dâu về nhà.
- Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
- Ý nghĩa: Làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra.
=> Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành
món ăn, món quà đặc biệt. Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ. 3. Kết bài
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự
trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở những người nông dân nghèo. Dàn ý số 2 a. Mở bài:
- Khái quát về tác giả Kim Lân và nêu được những nội dung chính của tác phẩm Vợ nhặt.
- Nêu được ý nghĩa chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm: Một trong số những chi
tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là chi tiết về mâm cơm ngày đói
với sự xuất hiện của món cháo Cám. b. Thân bài:
- Phân tích bữa cơm ngày đói:
● Đây là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối,
một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
● Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong
ngày đầu tiên con dâu về nhà.
● Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
- Ý nghĩa của bữa cơm ngày đói
● Qua chi tiết này làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp
và phát xít Nhật đã gây ra.
● Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành
món ăn, món quà đặc biệt.
● Từ đó làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ. c. Kết bài:
- Khẳng định đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá
- Thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở
những người nông dân nghèo. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Vợ nhặt và chi tiết bữa cơm ngày đói 2. Thân bài * Khái quát chung:
- Vị trí chi tiết: Nằm gần cuối tác phẩm
- Chi tiết bữa cơm ngày đói góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm
* Cảm nhận về chi tiết bữa cơm ngày đói:
- Phản ánh tình cảnh thảm thương của con người trong nạn đói:
+ Mâm cơm ngày đói chỉ có "một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo"
+ Niêu cháo lõng bõng mà "mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn"
+ Gia đình bà cụ Tứ phải ăn cháo cám-thứ đồ ăn vốn không dành cho con người.
→ Khi nạn đói hoành hành, con người bị đẩy đến ranh giới mong manh giữa sự sống
và cái chết. Những món đồ ăn đơn giản đến mức thảm hại lại là thứ cứu đói cho cả gia đình bà cụ Tứ.
- Bộc lộ được vẻ đẹp đáng quý bên trong mỗi nhân vật:
+ Trong bữa cơm, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui vẻ, tốt đẹp sau này để động viên các con.
→ Trong cảnh khốn cùng của nạn đói, khi sự sống của con người trở nên mong manh,
nhỏ bé thì các nhân vật trong truyện vẫn luôn lạc quan và hướng về một tương lai tốt đẹp phía trước.
+ Miếng cháo đắng chát, nghẹn bứ gợi ra bên trong anh cu Tràng trách nhiệm trong gia đình.
+ Chị vợ nhặt thể hiện sự ý nhị, tinh tế trong cách ứng xử và sự chủ động trò chuyện
để xua đi không khí nặng nề của bữa cơm.
* Ý nghĩa của chi tiết:
- Lên án tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật
- Thể hiện sự trân trọng với những vẻ đẹp đáng quý của con người, đó là tình thương,
là khát khao hạnh phúc và sức sống mãnh liệt.
--> Trong cơn nguy khốn nhất, dù bị nạn đói vắt kiệt sự sống thì những con người vẫn
luôn lạc quan, họ đùm bọc, nâng đỡ nhau và cùng hướng về tương lai tốt đẹp với một niềm tin mãnh liệt. 3. Kết bài Rút ra kết luận chung Dàn ý số 4 I. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận • Tác giả, tác phẩm
• Nội dung chính toàn đoạn
• Vấn đề cần nghị luận II.Thân bài: - Giới thiệu chung
• Quan điểm sáng tác của tác giả
• Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ của tác phẩm
• Tóm tắt ngắn gọn nội dung
• Vị trí đoạn trích: Hình ảnh bữa cơm ngày đói thuộc phần cuối của tác phẩm.
Đây là bữa cơm đầu tiên bà cụ Tứ chuẩn bị để đãi nàng dâu mới vào buổi sáng
hôm sau, Tràng đưa người vợ nhặt của mình về nhà.
• Nội dung khái quát đoạn trích: - Bữa cơm ngày đói:
• Là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với một lùm rau chuối thái rối, một
đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.
• Món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trong
ngày đầu tiên con dâu về nhà.
- Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.
- Ý nghĩa: Làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra.
=> Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành
món ăn, món quà đặc biệt. Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ III. Kết bài: Kết luận vấn đề
Phân tích Vợ nhặt bữa cơm ngày đói
Vợ nhặt là truyện ngắn hiện thực xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết về nạn đói năm
1945. Thông qua nhân vật anh cu Tràng, bà cụ Tứ và chị vợ nhặt, nhà văn Kim Lân
không chỉ tái hiện sống động không khí ngột ngạt, tù đọng của nạn đói mà qua đó còn
đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của tình thương và sức sống mãnh liệt bên trong con người.
Đặc biệt, thông qua chi tiết bữa cơm ngày đói gần cuối tác phẩm, người đọc càng
thêm trân trọng vẻ đẹp đáng quý của những nhân vật này, bởi: "Trong hoàn cảnh khốn
cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà
vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".
Trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã cùng bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa
và chuẩn bị bữa cơm gia đình. Sự xuất hiện của chị vợ nhặt như thổi thêm nguồn sinh
khí mới cho ngôi nhà của mẹ con Tràng. Ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn của mẹ con Tràng
trở nên gọn gàng, ngăn nắp, khu vườn nhỏ cũng được dọn sạch cỏ trở nên sạch sẽ,
tươi mới. Khuôn mặt bủng beo, u ám của bà cụ Tứ cũng trở nên tươi tỉnh khác hẳn
ngày thường, anh cu Tràng cũng trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát hơn. Không khí ấm áp,
hài hòa của tình thân đã làm cho người ta quên đi những ám ảnh khủng khiếp của nạn
đói. Thế nhưng, trong bữa cơm gia đình, một lần nữa không khí như bị trùng xuống
bởi cái đói, cái khát vẫn cứ bủa vây, trực chờ để dồn con người ta đến bước đường
cùng của sự bất lực và tuyệt vọng.
Bữa cơm đầu tiên khi gia đình có thêm nàng dâu mới cũng thật đặc biệt, không có
"mâm cao cỗ đầy" hay những món ăn đặc biệt mà lại đơn giản đến mức thảm hại
"Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo.. ".
Chỉ với một vài nét miêu tả, nhà văn Kim Lân đã tái hiện đầy chân thực mà cũng
không kém phần xót xa về tình cảnh thảm thương của con người trong nạn đói. Khi
nạn đói hoành hành, con người bị đẩy đến ranh giới mong manh giữa sự sống và cái
chết. Một niêu cháo lõng bõng mà "mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn"
lại là nguồn sống cho cả gia đình cụ Tứ Sự trong cảnh đói khát. Sự sơ sài, thiếu thốn
của mâm cơm ngày đói khiến người ta phải xót xa, thương cảm.
Thế nhưng, có thể nói Kim Lân đã rất tinh tế khi xây dựng chi tiết bữa cơm ngày đói,
bởi qua đó không chỉ tái hiện tình cảnh khốn cùng của những người nông dân nghèo
trong nạn đói mà còn thể hiện giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Trong tận cùng của
nạn đói, khi sự sống của con người trở nên mong manh, nhỏ bé thì các nhân vật trong
truyện vẫn luôn lạc quan và hướng về một tương lai tốt đẹp phía trước. Trong bữa
cơm, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui vẻ, tốt đẹp sau này để động viên các con "Bà lão
nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Có lẽ bà
lão muốn gieo vào lòng các con hi vọng để các con có thể yêu thương và cùng nhau
vượt qua được giai đoạn đầy khó khăn này.
Tấm lòng người mẹ còn được thể hiện qua món quà cưới đầy đặc biệt, bà lão "lật đật
chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút". Món cháo cám
được bà cụ Tứ giới thiệu với giọng điệu hào hứng, phấn khởi "Vừa khuấy khuấy vừa
cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Dù gia cảnh nghèo khó lại gặp nạn đói hoành
hành khiến gia đình đã nghèo lại càng thêm cơ cực, thảm thương. Thế nhưng, để chào
đón cô con dâu mới, bà cụ vẫn cố gắng chuẩn bị món quà cưới để tạo bất ngờ cho các
con. Ngay khi không khí bữa cơm trùng xuống bởi miếng cám đắng chát, nghẹn bứ ở
cổ thì bà cụ Tứ vẫn cố động viên các con "Cám đấy mày ạ. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy".
Có thể nói bữa cơm ngày đói đã phản ánh hiện thực đầy khốc liệt của nạn đói, khi con
người phải ăn cả những thứ vốn không dành cho con người để duy trì sự sống. Thế
nhưng, đằng sau sự thảm hại ấy ta lại cảm nhận được sự ấm áp cao cả của tình người.
Miếng cháo đắng chát, nghẹn bứ gợi ra tình cảnh thảm hại thế nhưng nó lại là tất cả
tình yêu của bà cụ Tứ dành cho các con. Vị đắng của miếng cháo cũng khơi dậy trong
anh cu Tràng trách nhiệm trong gia đình, mà cũng miếng cháo đắng chát thảm hại ấy
đã góp phần thể hiện được sự ý nhị, tinh tế và mong muốn vun vén hạnh phúc gia đình của chị con dâu.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, nhà văn Kim Lân không chỉ lên án tội ác của thực
dân Pháp và phát xít Nhật mà còn thể hiện sự trân trọng với những vẻ đẹp đáng quý
của con người, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc và sức sống mãnh liệt.
Trong cơn nguy khốn nhất, dù bị nạn đói vắt kiệt sự sống thì những con người vẫn
luôn lạc quan, họ đùm bọc, nâng đỡ nhau và cùng hướng về tương lai tốt đẹp với một niềm tin mãnh liệt.
Cảm nhận bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt
Khi nói về truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tâm sự: “Những người đói, họ không
nghĩ đến cái chết, mà họ nghĩ đến cái sống”. Thật vậy, nơi ranh giới giữa sự sống và
cái chết ấy con người vẫn khao khát tìm được sự sống và hạnh phúc. Đoạn trích: “Bữa
cơm ngày đói trông thật thảm hại… lá cờ đỏ bay phấp phới” đã cho ta cảm nhận được
tận cùng của sự xót thương về một khung cảnh khốc liệt của nạn đói nhưng con người
vẫn khát khao ánh sáng, hạnh phúc và tương lai.
Con gái nhà Kim Lân viết về cha mình khi ông mất: “Sinh thời thầy tôi là một người
mang rất nhiều mặc cảm”. Mặc cảm ở đây chắc hẳn do nhà văn là con của vợ ba, mẹ
củav nhà văn là người dân xóm ngụ cư. Cũng vì thế Kim Lân hiểu hơn cả con người
nơi đó. Vì thế nhà văn được mệnh danh là nhà văn của đồng quê, của nông thôn Việt
Nam. Tác phẩm ‘’Vợ nhặt’’ dựa trên tiểu thuyết ‘’ Xóm ngụ cư’’ được viết ngay sau
Cách mạng tháng Tám nhưng bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ( 1954)
cũng đã đưa một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Bằng tài năng uyên bác
Kim Lân đã gây đòn vang lớn cho tác phẩm của mình.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói thuộc phần cuối của tác phẩm. Đây là bữa cơm đầu tiên
bà cụ Tứ chuẩn bị để đãi nàng dâu mới vào buổi sáng hôm sau, Tràng đưa người vợ
nhặt của mình về nhà. Trước hết đây là hình tượng đã tái hiện hình ảnh khốn cùng
đáng thương của gia đình Tràng qua đó phản ánh được bức tranh hiện thực tối tăm, ảm
đạm của nước ta trong nạn đói lịch sử.Là bữa cơm sum họp đầu tiên - bữa ăn đón dâu
mới. Vậy mà bà cụ Tứ chẳng thể sửa soạn được cho tươm tất, trước hết là để cúng gia
tiên mời họ hàng sau nữa là mừng cho hạnh phúc của các con. Đoạn văn bữa cơm
ngày đói trông thật thảm hại giữa cái mẹt rách chỉ có đôi một lùm rau chuối thái rồi,
một đĩa muối và một niêu cháo lỏng bỏng. Đây là những món ăn rất quen thuộc của
người dân nghèo, tuy vậy mỗi người chỉ được lưng lưng 2 bát là hết nhẵn, ba mẹ con
đối mặt với nồi cháo cám. Chi tiết để lại ám ảnh nhất với người đọc trong bữa ăn này
chính là chi tiết đó - nồi chè khoán được nấu bằng cháo cám. Có thể thấy nạn đói
khủng khiếp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẩn tới mức phải ăn những thức ăn
vốn là của loài vật. Vậy mà, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ nơi cổ họng trong tình
cảnh này vẫn được xem ngon đáo để hay lắm cơ và xóm ta khối nhà chẳng có cháo
cám mà ăn. Trong tình cảnh ấy mọi người dù cố gắng đến đâu thì niềm vui cũng
chẳng thể trọn vẹn.Ba mẹ con ngồi ăn lặng lẽ tâm trạng dâng đầy những nỗi tủi hờn,
đầy những dự cảm lo âu. Sự thảm hại của bữa cơm ngày đói càng tăng lên trong
không khí ngột ngạt căng thẳng với tiếng trống thúc thuế dồn dập và hình ảnh những
đàn qua bay vẩn trên nền trời: như những đám mây đen. Âm thanh và hình ảnh này
gợi lên không khí tang thương chết chóc. Từ tiếng trống thúc thuế ta còn thấy không
khí hiện lên trong bữa cơm hình ảnh của bọn thực dân phát xít với những chính sách
cai trị thâm độc tàn bạo, và tình cảnh của 2 triệu đồng bào ta trong thảm họa khủng khiếp này.
Tuy nhiên bữa cơm ngày đói trong tác phẩm này vô cùng cảm động, đó còn là một
bữa cơm chan chứa tình người. Ở đó sáng lên những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ của
con người Việt Nam trong khó khăn hoạn nạn. Trước hết đây là bữa cơm diễn ra trong
không khí gia đình đầm ấm hoà hợp - mẹ con trên kính dưới nhường, vợ - chồng thuận
hoà đầm ấm. Mặc dù bữa ăn trông thật thảm hại nhưng bà mẹ toàn nói chuyện vui
chuyện sung sướng về sau, bà vừa ăn vừa tính toán cho tương lai.Không phải ngẫu
nhiên khi bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau ấy lại bàn với con chuyện nuôi gà.
Chuyện nuôi gà để vượt qua những hoàn cảnh cùng quẩn vốn mang một triết lí dân
gian thể hiện một cách sâu sắc và cảm động. Niềm lạc quan vui sướng của nhân dân
bao đời. Đáp lại lời mẹ, Tràng một mực dạ vâng ngoan ngoãn còn người dâu thì ý tứ
lễ phép. Có thể thấy chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm hoà hợp như thế.
Không khí bữa cơm gia đình đã khẳng định trong hoàn cảnh khốn cùng kể cả khi bị
cái đói cái chết đe doạ con người Việt Nam vẫn giữ được đạo lí truyền thống đẹp đẽ
của dân tộc mình. Không khí bữa cơm ngày đói ấy đã làm sáng lên những phẩm chất
tốt đẹp của con người Việt Nam trong khó khăn hoạn nạn. Trước hết, đó là vẻ đẹp của
tinh thần lạc quan. Không phải ngẫu nhiên khi trong bữa ăn bà mẹ toàn nói chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau và bàn với con chuyện nuôi gà: “có tiền ta mua lấy đôi
gà … chả mấy chốc mà có đàn gà cho mà xem”. Bà còn nhắc đến câu tục ngữ: “ Ai
giàu ba họ ai khó ba đời” chuyện nuôi gà để vượt qua cơn bị cực vốn dĩ là một kinh
nghiệm sống đã được khái quát thành một bài học một triết lí dân gian. Triết lý ấy
cùng với niềm tin: “ Ai giàu ba họ ai khó ba đời” có ý nghĩa khẳng định: Trong bế tắc
cùng quẩn người dân vẫn luôn lạc quan để hướng về tương lai vui sướng, để hi vọng.
Vẫn biết chắt chiu niềm hạnh phúc đời thường từ những điều vốn bình dị, giản đơn.
Lẽ thường, những người trẻ tuổi mới hay nói chuyện tương lai, bàn định kế hoạch để
bà cụ Tứ một người gần đất xa trời bàn với con những câu chuyện ấy chính là cách
Kim Lân bộc lộ niềm tin vào những phẩm chất tốt đẹp của người lao động kể cả khi
họ đă bị dồn đến hoàn cảnh khốn cùng. Nổi bật nhất xúc nhất trong bữa cơm ngày đói
này chính là tình yêu thương. Trước hết đó là tình cảm mẹ con dành cho con. Do hoàn
cảnh nhà bà cụ Tứ phải đãi nàng dâu bằng nồi cháo cám. Chắc chắn cũng hiểu nồi
cháo đắng chát ấy chẳng có gì là “ ngon đáo để” là “ hay lắm cơ” song bà vẫn cố tạo
ra không khí vui vẻ để an ủi, động viên các con. Ánh mắt của bà lấp lánh, lời nói của
bà đon đả, cử chỉ lật đật đầy phấn chấn tất cả đều là những biểu hiện của tấm lòng
người mẹ, bà đang cố khoả lấp đang gắng xua tan bóng đen u ám tối tăm đang bày ra
trước mắt để gieo vào lòng các con những niềm hi vọng. Không chỉ có tình cảm mẹ
dành cho con trong bữa ăn còn có cả tình cảm mẹ mà người con dâu đă đưa hai tay
đón lấy bát “ chè khoán” mẹ trao và biết dù đó chỉ là cháo cám chị vẫn ăn ngon. Đó
chính là hành động chị đem tấm lòng của mình để đáp lại tấm lòng của mẹ. Nếu tình
cảm mẹ con dành cho nhau được biểu hiện qua chi tiết nồi cháo cám thì tình cảm vợ
chồng dành cho nhau được khẳng định bằng việc xuất hiện đại từ nhân xưng trong
cuộc trò chuyện “ Việt Minh phải không” “ Ừ sao nhà biết”. Từ” nhà” cho thấy tình
cảm giữa vợ chồng họ thật ấm áp hoà thuận. Bữa cơm ngày đói trong tác phẩm này
còn phản ánh không khí đấu tranh cách mạng và niềm tin niềm hi vọng vào sự đổi đời của người dân nghèo.
Trong âm thanh của tiếng trống thúc thuế, cuối bữa ăn vợ nhặt đã thông báo một
thông tin quan trọng: Việt Minh,…Thông tin ấy đã đem đến niềm hi vọng vào sự thay
đổi lớn lao của nhân vật Tràng không chỉ bổn phận trách nhiệm đối với người thân gia
đình mà còn có cả ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Câu chuyện “ người ta không
chịu đóng thuế nữa… người ta còn phá cả kho thóc của Nhật để chia chi người đói”
mà người vợ nhặt kể cho mẹ con Tràng nghe đã hé mở sự vùng dậy của ý thức phản
kháng, nghe chuyện, Tràng hỏi vợ: Việt Minh phải không”. Bằng hình ảnh đám người
đói cùng lá cờ đỏ bay phấp phới trong óc Tràng gợi ta nghĩ đến con đường tất yếu mà
vợ chồng Tràng mẹ con Tràng sẽ đi:con đường cách mạng. Đến với cách mạng để giải
phóng quê hương đó là niềm tin tưởng, niềm lạc quan và cũng là tấm lòng trân trọng
lòng yêu thương nhà văn Kim Lân dành cho người lao động.
Đúng như câu nói: “Tôi viết như một việc được thôi thúc bên trong nhưng cảm xúc,
suy tư đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất viết vào tôi viết về mình”. Hẳn tác giả phải thật
sự hiểu và tôn trọng những con người khổ đau ấy để tìm cho họ những ánh sướng của hi vọng.
Phân tích bữa cơm ngày đói ngắn gọn
“Vợ Nhặt” là một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những
trang văn của ông thấm đượm hiện thực của những năm đói kém 1945. Đặc biệt, cách
xây dựng chi tiết rất thành công của Kim Lân đã giúp tác phẩm trở nên hấp dẫn, ấn
tượng với người đọc. Đặc biệt, chi tiết về bữa cơm ngày đói đãi dâu mới về nhà chồng
của bà cụ Tứ đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng cũng đủ phản ánh hiện thực cuộc sống mà cái đói
đang bao trùm toàn xã hội. Khác với cách đối xử của các gia đình khi đón con dâu
mới về nhà với bữa cơm tươm tất đủ món, thì ở gia đình bà cụ Tứ: “Giữa mẹ rách…
cháo muối”. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả chi tiết bữa cơm ấy để gợi lên một xã hội
mà nạn đói hoành hành đã cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người. Những
người nông dân nghèo khổ ấy đang phải vật lộn, chiến đấu với tử thần để giành lại sự
sống. Tuy nhiên, trong khả năng của mình, bà Tư vấn nấu món sang nhất cho con dâu:
cháo cám. Người mẹ chồng ấy đã không nỡ bỏ bữa ăn đầu tiên của con dâu khi ở nhờ
nhà mình vì quá nghèo. Dù không phải là món ngon đầy đủ chất dinh dưỡng nhưng đó
là điều quý giá và trân trọng nhất mà bà Từ dành cho cô con dâu mới. Rõ ràng lúc bấy
giờ chỉ cần có cái ăn để duy trì sự sống chứ không cần ăn no hay không, nạn đói năm
1945 đã được nhà văn Kim Lân khắc họa một cách rõ nét và chân thực nhất.
Qua đó, người đọc cảm kích tấm lòng đáng quý của bà cụ Tứ, trong cảnh nghèo khó,
người đời tranh giành nhau, bà vẫn chia sẻ cuộc sống ấy với cô con dâu mới. Đồng
thời thể hiện sự kiên cường, không chịu khuất phục trước cuộc sống của những người dân nghèo khổ nơi đây.
Phân tích bữa cơm ngày đói Bài làm mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc về nông thôn Việt
Nam với những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. Ông viết chân
thật và xúc động về cuộc sống của người dân quê với tình cảm đứa con của ruộng
đồng. Và tác phẩm "Vợ nhặt" được trích từ tập "Con chó xấu xí" của ông là một trong
số những tác phẩm tiêu biểu tái hiện được chân thật cuộc sống khổ cực của người
nông dân trước nạn đói khủng khiếp 1945. Qua tác phẩm, ta thấy nổi bật lên chi tiết
bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng gây nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Truyện ngắn Vợ nhặt tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được Kim Lân sáng tác
ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công nhưng còn dang dở và mất bản
thảo. Sau khi hòa bình lập lại Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một
chi tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong
hoàn cảnh nạn đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông
thường bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự
gắn kết của con dâu với nhà chồng. Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy
lại vô cùng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Chỉ với những
chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy.
Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống
mong manh từ tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn
chúng ta ai cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở
đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này
nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động
lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng có lẽ đó là niềm vui
thật sự bởi dù trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn hạnh phúc
yêu thương nhau. Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh
nghèo khó bà cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình
họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc. Chính vì thế mà trong bữa cơm "Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà...
này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Những câu
chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi sáng đầy
hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn hướng về phía trước của
bà cụ Tứ, cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ ấy.
Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh
chóng bị dập tắt vì "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết
nhẵn". Dường như đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm
lòng nhân hậu, thương người và hết mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè
khoán đây, ngon đáo để cơ". Tuy nói là chè khoán nhưng thật sự đó là nồi cháo cám
chát xít, vốn là thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn cái thực trạng
tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con
người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên
được những phẩm chất tốt đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha
hóa. Nổi bật nhất đó chính là bà cụ Tứ, nào đâu phải bà không biết nồi cháo cám kia
chát xít chẳng hề ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo "ngon đáo để cơ" mà là bà đang cố
động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy. Ta cảm
thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng
khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà động viên các con: "Cám
đấy mày ạ", "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy", gieo vào lòng các con
mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật xót xa biết bao! Bà
cụ Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng
ngời những phẩm chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa,
chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc
quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các
con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ Tứ mà còn khát khao sống
mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực mà tiếp tục
nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và
truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến
với các con cũng như những người khác.
Không chỉ có bà cụ Tứ mà qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất là ở chi tiết nồi cháo
cám ta còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng
và người vợ nhặt. Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn
chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ". Qua đây ta thấy anh
Tràng là một người vô cùng khéo léo trong cách ứng xử. Mặc dù có hổ thẹn vì không
lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng hiểu được hoàn cảnh mà
không một lời oán than. Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến trong
tính cách của thị vô cùng rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà "chỏng lỏn",
"đanh đá", "chua ngoa" và "cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta
không còn thấy người đàn bà bỏ hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà
"cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc" trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà
thay vào đó là một người đàn bà hiểu chuyện: khi nhận bát cháo cám từ tay mẹ chồng
"người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tốt lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng". Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo, hiểu chuyện và biết
chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời kêu ca, muốn cùng gia
đình chồng vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi khao khát một mái
ấm gia đình hạnh phúc của người đàn bà ấy cho dù có khó khăn nhưng thị vẫn đồng
cảm và sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng nhà chồng. Thật đáng quý!
Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực
tàn khốc lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người
dân ta phải nhổ lúa trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện.
Chúng khiến người dân ta sống cũng như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây
ma ngoài đường, nhiều khi sống cũng không bằng chết. Nhân dân ta phải ăn cháo cám,
thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn. Trong hoàn cảnh
ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm
hại chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật
xây dựng tính cách nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh
tế cũng như nghệ thuật trần thuật mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã
xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu
thật chân thật và nhiều ý nghĩa.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng
qua đó lại ngời lên những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó
khăn, bần cùng cơ cực ấy nhưng họ vẫn có nhau, vẫn yêu thương nhau, vẫn hạnh phúc
và luôn lạc quan tin tưởng vào cách mạng thành công và tương lai tươi sáng. Bài làm mẫu 2
Vợ nhặt là truyện ngắn hiện thực xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết về nạn đói năm
1945. Thông qua các nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và chị dâu, nhà văn Kim Lân không
chỉ tái hiện một cách sinh động không khí oi bức. Sự ngột ngạt, trì trệ của nạn đói
cũng đã tô đậm thêm vẻ đẹp của tình yêu thương và sức sống mãnh liệt bên trong con
người. Đặc biệt, qua chi tiết bữa đói bữa no ở gần cuối tác phẩm, người đọc càng trân
trọng những vẻ đẹp đáng quý của những nhân vật này, bởi: “Trong hoàn cảnh éo le,
dẫu cận kề cái chết, nhưng con người ta lại không. nghĩ về cái chết, nhưng vẫn hướng
về cuộc sống, vẫn hy vọng, tin tưởng vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống để làm người. “
Sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ và bà cụ Tứ đã dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm
gia đình. Sự xuất hiện của chị vợ như thổi luồng sinh khí mới vào ngôi nhà của mẹ
con Tràng. Căn nhà lụp xụp, xập xệ của mẹ con Tràng trở nên gọn gàng, ngăn nắp,
mảnh vườn nhỏ cũng được dọn cỏ trở nên sạch sẽ, tươi mát. Vẻ mặt ủ rũ, ủ rũ của bà
cụ Tứ cũng trở nên khác hẳn ngày thường, anh trai Trang cũng trở nên nhanh nhẹn,
hoạt bát hơn. Không khí đầm ấm, chan hòa tình thân khiến mọi người quên đi những
ám ảnh kinh hoàng về cái đói. Tuy nhiên, trong bữa cơm gia đình, một lần nữa không
khí như giảm đi bởi cái đói, cái khát vẫn bủa vây, chực chờ lùa người ta đến tận cùng
của sự bất lực, tuyệt vọng.
Bữa cơm đầu tiên khi gia đình có nàng dâu mới cũng rất đặc biệt, không có “mâm cao
cỗ đầy” hay những món ăn đặc sắc mà lại đơn giản đến mức thảm hại. con rối và đĩa
muối ăn cháo hành .. “. Chỉ với vài nét miêu tả, nhà văn Kim Lân đã tái hiện chân
thực tình cảnh bi đát của con người trong nạn đói. cái chết, một nồi cháo lỏng lẻo mà
“mỗi người hai bát cạn” là nguồn sống của cả gia đình ông Tư Sư giữa cái đói và cái
khát Cái mâm cơm sơ sài, thiếu thốn ngày đói khiến mọi người cảm thấy tiếc cho họ.
Tuy nhiên, có thể nói Kim Lân đã rất tinh tế khi xây dựng chi tiết bữa cơm ngày đói,
bởi qua đó không chỉ tái hiện cảnh ngộ của những người nông dân nghèo khổ trong
nạn đói mà còn thể hiện giá trị nhân đạo. vô cùng sâu sắc. Trong thời kỳ đói kém, khi
mạng sống con người trở nên mong manh, nhỏ bé, nhưng các nhân vật trong truyện
vẫn luôn lạc quan và hướng tới một tương lai tốt đẹp. Trong bữa cơm, bà cụ Tứ nói về
những điều vui, điều tốt trong tương lai để động viên con cháu “Bà cụ kể chuyện vui,
chuyện vui sau này: Có tiền thì mua cặp. của những con gà … Không cần phải nhìn
lại nhiều, nhưng có những con gà cho bạn xem. ” Có lẽ bà cụ muốn truyền cho bạn
niềm hi vọng để hai bạn có thể yêu thương và cùng nhau vượt qua quãng thời gian khó khăn này.
Tấm lòng của người mẹ còn được thể hiện qua món quà cưới đặc biệt là bà lão “xúng
xính xó bếp, bưng ra một cái nồi bốc khói nghi ngút”. Món cháo cám được bà cụ Tứ
giới thiệu với giọng hào hứng “Vừa khuấy vừa cười: chè đây, ngon quá”. Tuy nhà đã
nghèo nhưng nạn đói hoành hành khiến gia đình vốn đã nghèo lại càng thêm khốn khó,
bi đát hơn. Tuy nhiên, để đón con dâu mới, bà cụ vẫn cố gắng chuẩn bị quà cưới để
tạo bất ngờ cho con cháu. Ngay khi không khí bữa cơm trùng xuống miếng cám đắng
nghét cổ họng, bà cụ vẫn ra sức động viên lũ trẻ: “Cảm ơn anh nhé. Cả xóm mình còn không có cám mà ăn”.
Có thể nói, bữa cơm đói hàng ngày phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói, khi con
người phải ăn những thứ không phải để con người duy trì sự sống. Tuy nhiên, đằng
sau sự đáng thương ấy, chúng ta cảm nhận được sự ấm áp cao cả của tình người. Cháo
đắng, cay xé lưỡi gợi ra một hoàn cảnh thật đáng thương nhưng đó là tất cả tình yêu
thương của bà cụ Tứ dành cho các con của mình. Vị đắng của bát cháo cũng khơi dậy
ở anh Tràng trách nhiệm trong gia đình, nhưng chính vị đắng của cháo đã góp phần
thể hiện sự dịu dàng, tinh tế và khát khao vun vén hạnh phúc gia đình của chị. con dâu.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, nhà văn Kim Lân không chỉ lên án tội ác của thực
dân Pháp, phát xít Nhật mà còn thể hiện sự trân quý đối với vẻ đẹp đáng quý của con
người, đó là lòng yêu thương, khát khao. khát khao hạnh phúc và sức sống mãnh liệt.
Trong cơn hiểm nghèo, dù bị đói khát tính mạng nhưng mọi người vẫn luôn lạc quan,
đùm bọc, đùm bọc lẫn nhau và hướng tới tương lai tốt đẹp với một niềm tin sắt đá. Bài làm mẫu 3
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang
văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc
xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút và
gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối
tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc dù chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói ở cuối tác phẩm là một chi tiết nhỏ
nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Thông thường, bữa cơm đón nàng
dâu mới là một bữa ăn có vai trò quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm ấm giữa gia đình
nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu không muốn nói là tuềnh toàng và thảm hại.
“Giữa cái mẹt rách… muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn
ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài.
Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời,
chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ
đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Và điều cần nhất
lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được sống. Do đó, xét
trong tình cảnh hiện thực năm 1945 mặc dù bữa cơm có đơn sơ, tuềnh toàng và sơ sài
bao nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ là một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới
của sự sống và cái chết. Đặc biệt, liêu cháo loãng nhanh chóng hết nên mẹ con cụ Tứ
phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.
Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm
trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì “một nỗi
tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén
những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả cô con dâu kia, dường
như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy chồng trong cái nghèo, cái đói
bủa vây như vậy. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt
chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. “Bà cụ vừa ăn vừa
kể chuyện… toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là
người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con
cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bông đùa của
bà cụ Tứ “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói toát lên khí chất của một bà mẹ
vừa hóm hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui
vẻ, xua tan đi không khí u ám chiếm lĩnh không gian ngôi nhà bà.
Có thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới ở phần cuối tác phẩm vừa tô đậm giá trị
hiện thực nạn đói năm 1945. Để qua đấy, người đọc có thể hình dung ra được những
thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao trùm mọi ngóc
ngách, ngôi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh mạng của biết bao con
người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng có tác dụng tô đậm thêm giá trị nhân đạo
của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương sâu sắc cho người nông dân lao
động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng như khí chất của con người lao động thời
kỳ bấy giờ. Dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, họ vẫn sống và đối xử với nhau bằng
hơi ấm của tình người. Và bằng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác
giả đã gây ấn tượng mạnh vào tâm trí của người đọc. Bài làm mẫu 4
Thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” không chỉ bởi nội dung đặc sắc cùng tinh thần
nhân văn cao cả mà còn được tạo nên bởi hàng loạt những chi tiết đặc sắc. Một trong
số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là chi tiết về mâm
cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo cám.
Trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã cùng bà cụ Tứ quét dọn làm
cho ngôi nhà lụp xụp của mẹ con Tràng trở nên sáng sủa như vừa được thổi thêm
luồng sinh khí mới. Trong bữa cơm gia đình, tác giả Kim Lân đã đặc biệt chú trọng
đến việc miêu tả mâm cơm ngày đói. Đó là một bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn với
một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng mà
mỗi người chỉ được lưng lưng hai bát, xuất hiện trên mâm cơm ngày đói còn là món
ăn vốn không dành cho con người – cháo cám.
Điều đáng nói là món cháo cám xuất hiện như một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ
chuẩn bị trong ngày đầu tiên con dâu về nhà, điều này được thể hiện trực tiếp qua sự
hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè khoán, chè khoán đây”. Khi
không khí bữa ăn trầm lại vì miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ thì bà vẫn cố động
viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”.
Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực
khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra. Trong nạn đói, cháo
cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt.
Cuộc sống trở nên thảm hại vì ám ảnh đói khát nhưng con người trong bức tranh nạn
đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc sống tốt đẹp ở tương lai,
thể hiện sức sống tinh thần đầy mạnh mẽ.
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự
trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở những người
nông dân nghèo. Họ là những nạn nhân đáng thương bị nạn đói vắt kiệt sức sống
nhưng họ vẫn luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt và sức sống tinh thần mạnh mẽ.
Bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt Bài làm mẫu 1
Dưới ngòi bút tài năng của mình, nhà văn Kim Lân đã thành công xây dựng chi tiết
bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ nhặt.
Cũng như bao gia đình khác, trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã
dậy thật sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp lại căn nhà sáng sủa, gọn gàng hơn. Bà cụ Tứ
cũng chu đáo, không quên chuẩn bị bữa cơm sáng đón tiếp con dâu. Nhưng khác xa so
với tưởng tượng của người đọc thì bữa cơm ấy lại là bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn
chẳng có gì ngoài một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo
lõng bõng. Dường như món cháo cáo đã là thức ăn xa xỉ để bà cụ Tứ chiêu đãi con
dâu ngày đầu ra mắt nhà chồng. Đó cũng như là một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ
chuẩn bị trực tiếp qua sự hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè
khoán, chè khoán đây”. Khi không khí bữa ăn trầm lại vì miếng cháo đắng chát nghẹn
ứ nơi cổ thì bà vẫn cố động viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm
mình khối nhà còn không có mà ăn”.
Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực
khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân ta. Trong
nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn,
món quà đặc biệt. Cuộc sống trở nên thảm hại vì ám ảnh đói khát nhưng con người
trong bức tranh nạn đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc
sống tốt đẹp ở tương lai, thể hiện sưc sống tinh thần đầy mạnh mẽ.
Chi tiết bữa cơm ngày đói ấy không chỉ tái hiện lại toàn cảnh nạn đói xã hội chúng ta
lúc bấy giờ mà còn thể hiện khát vọng mạnh mẽ, chiến đấu với tử thần để giành lại
được sự sống của người nông dân. Bài làm mẫu 2
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, tôi đặc biệt chú ý tới đoạn văn
miêu tả bữa cơm ngày đói.
Chi tiết nằm ở phần cuối của truyện ngắn Vợ nhặt. “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà
cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui,
toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại
đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu
cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy…".
Đó là bữa cơm của gia đình Tràng với lần đầu tiên có sự hiện diện của người phụ nữ
“vợ nhặt”. Hình ảnh bữa cơm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, gợi mở nhiều điều
về hiện thực. Trước hết, đó là sự thảm hại của cuộc sống người nông dân nơi xóm ngụ
cư vào những ngày nạn đói hoành hành. Bình thường, cuộc sống của người dân xóm
ngụ cư vốn đã đầy ắp những nỗi khó khăn. Giờ giữa nạn đói, mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại chú ý đặc tả hình ảnh bữa ăn nhà Tràng. Quan
sát bữa ăn của gia đình họ, người đọc không thể không trỗi lên một niềm thương cảm.
Bữa ăn chỉ có một ít cháo và rau chuối, không đủ cho ba miệng ăn. Bởi vậy, ngay sau
đó bà cụ Tứ đã bổ sung thêm món “chè khoán”. Gọi là “chè khoán” chứ thực chất đó
là món cháo cám, một thứ người ta vẫn thường dùng làm thức ăn cho gia súc. Vì
không phải là thức ăn của con người nên chỉ mới đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn,
“hai con mắt thị tối lại”. Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun
lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.
Không khí bữa ăn chùng xuống, bởi “không ai nói câu gì”, “tránh nhìn mặt nhau” và
đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” của riêng mình. Bữa ăn nhà Tràng quả là thê thảm nhưng
dù sao vẫn còn khá hơn nhiều nhà khác. Câu nói của bà cụ Tứ đã mách bảo cho ta
thực tế đó. "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy".
Một đoạn văn ngắn mà đã nói được một cách thấm thía nỗi cơ cực của con người. Qua
đây, người đọc có thể nhận ra thái độ cảm thông và cách tố cáo hiện thực của nhà văn Kim Lân.
Khi được hỏi về quan điểm viết truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói rằng: “Khi
tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn
khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.
Quan điểm đó đã chi phối sâu sắc tới quá trình triển khai, xử lý các tình huống nghệ
thuật của nhà văn. Đoạn văn miêu tả bữa cơm ngày đói vẫn không ngoài tinh thần chung đó.
Như đã nói ở trên, hình ảnh bữa cơm gia đình Tràng là một biểu hiện sinh động của
tình trạng thảm hại những ngày đói năm 1945. Cái đói đã đẩy con người về hàng súc
vật. Nhưng con người vẫn là con người, vẫn tìm cách nương tựa vào nhau mà sống,
vẫn khát khao, hi vọng. Bởi vậy, có một không khí khác trong đoạn văn miêu tả bữa
cơm ngày đói của Kim Lân. Đó là không khí đầm ấm, đầy ắp tình người của gia đình
Tràng. "Chưa bao giờ trong gia đình này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế". Nhân
vật tạo nên không khí đầm ấm đó không ai khác hơn là bà cụ Tứ. Trong bữa ăn "bà lão
nói toàn chuyện vui", lúc nào cũng "tươi cười, đon đả". Có thể cái "tươi cười, đon đả"
của cụ là để nhằm khỏa lấp tình trạng đen tối của hiện thực nhưng căn bản đó là nụ
cười hạnh phúc của người mẹ nghèo trước cuộc sống mới của Tràng. Bà hiểu, mọi
cuộc hôn nhân đều hàm chứa một khát vọng xây đắp cuộc sống của con người. Cho
nên, câu chuyện trong bữa ăn với các con của bà là những "hoạch định" về tương lai.
Đó là việc sử dụng chỗ đầu bếp làm cái chuồng gà. Bà hi vọng khi có tiền sẽ mua lấy
đôi gà, "ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…".
Chợt nhớ tới triết lý “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây” trong bài ca dao Mười cái
trứng nổi tiếng của nền văn học dân gian Việt Nam. Bản chất con người Việt Nam là
vậy, luôn biết tin tưởng và lạc quan.
Bữa cơm ngày đói do vậy, tuy có "thảm hại" xong vẫn đầm ấm tình người, vẫn ánh
lên những tia hi vọng vào cuộc sống sẽ đổi thay. Ngòi bút của Kim Lân đã chạm vào
được tầng sâu của hiện thực. Bài làm mẫu 3
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã
miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu
của họ. Nổi bật trong truyện là chi tiết bữa cơm ngày đói sau khi Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà.
Tràng - một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ,
trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và
bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà
mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy
làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy
mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng
dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản: “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
Đó là bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ - một bữa cơm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Trước hết, hình ảnh bữa cơm là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, gợi mở về
hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Thông thường trong cuộc sống bình, sau khi lấy vợ thì
cuộc sống trong gia đình sẽ có sự thay đổi, bữa ăn hàng ngày sẽ đầy đủ, chỉn chu hơn.
Nhưng trong hoàn cảnh của Tràng thì bữa cơm đầu tiên của lại chỉ có vài món ăn đơn
giản. Đó là sự thảm hại của cuộc sống người nông dân nơi xóm ngụ cư vào những
ngày nạn đói hoành hành. Cuộc sống của họ vốn đã rất khó khăn, nhưng giữa nạn đói,
mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn. Chi tiết bữa ăn ngày đói càng làm nhấn mạnh
cuộc sống khổ cực của họ. Nhưng đặc biệt là nhà văn lại miêu tả, họ ăn rất ngon lành,
lại nói với nhau những điều rất vui vẻ. Từ đó cho thấy sự lạc quan, niềm tin vào một
vào tương lai tốt đẹp của những người dân lao động nghèo.
Đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi đó là “chè khoán”. Kim Lân đã miêu tả thật khéo léo:
“Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm
nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy…”.
Hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ lại kéo họ trở về thực tế. Bà cụ Tứ gọi là “chè
khoán” chứ thực chất đó là món cháo cám - đó là thứ đồ ăn dùng để chăn nuôi gia súc.
Thái độ của thị khi đón lấy bát “cháo cám” được miêu tả: “hai con mắt thị tối lại”.
Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Không khí bữa ăn cũng vì thế mà lắng xuống. Cả gia
đình “không ai nói câu gì”, “tránh nhìn mặt nhau” và đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” của
riêng mình. Hình ảnh nồi cháo cám càng làm cho hoàn cảnh trở nên thê thảm hơn.
Nhất là đối với người vợ nhặt, những tưởng sau khi theo Tràng về sẽ thoát khỏi cuộc
sống nghèo đói, nhưng nào đâu gia cảnh của nhà Tràng cũng chẳng khá hơn.
Như vậy, chi tiết bữa ăn ngày đói thật giàu ý nghĩa. Bữa ăn ngày đói tuy có thảm hại
nhưng vẫn thể hiện về niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Bài làm mẫu 4
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả thật điều đó đã được thể hiện qua truyện
ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đó là chi tiết bữa cơm ngày đói sau khi Tràng
có được vợ. Đây là một chi tiết giàu ý nghĩa thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
“Vợ nhặt” kể về Tràng một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư.
Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ
với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi
về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà
khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng cảm
thấy mình có sự thay đổi kì lạ. Sau đó là bữa ăn ngày đói của cả gia đình.
Trong cuộc sống, bữa ăn đầu tiên của một gia đình sau khi có nàng dâu mới rất quan
trọng. Nhưng ở trong Vợ nhặt thì bữa ăn chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo”. Toàn là những món ăn hết sức đơn giản. Bữa cơm đã cho
thấy sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời việc
miêu tả bữa ăn cũng cho thấy một hiện thực ở nông thôn Việt Nam những năm 1945.
Nạn đói hoành hành, đẩy con người vào cuộc sống nghèo đói. Nhưng trong hoàn cảnh
vậy, họ vẫn lạc quan, “cả nhà đều ăn rất ngon lành”, rồi họ nói với nhau về chuyện tương lai tốt đẹp.
Đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là chè khoán. Món ăn thường dùng
trong chăn nuôi gia súc. Vậy mà ở đây lại là thức ăn của con người. Cách gọi của bà
cụ Tứ gợi ra tiếng cười xót xa cho cảnh ngộ của con người trong nạn đói. Tuy vậy,
cách đón nhận của mỗi người lại khác nhau. Bà cụ Tứ vẫn tươi cười, đón đả: “- Cám
đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà
ăn đấy”. Người vợ nhặt thì đón lấy bát “cháo cám” được miêu tả: “hai con mắt thị tối
lại”. Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Nồi cháo cám đã kéo họ về với hiện thực cuộc sống
đói nghèo. Kim Lân tiếp tục miêu tả: “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm
đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi
người”. Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng đã gửi gắm nhiều ý nghĩa.
Qua chi tiết mà Kim Lân xây dựng, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc về nạn đói
năm 1945, cũng như thấu hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh đó. Bài làm mẫu 5
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân chính là một trong những tác phẩm kinh điển
tái hiện chân thực, sinh động của nạn đói những năm 1945 khiến 2 triệu đồng bào
nhân dân ta chết vì đói.
Thật vậy, sự đói kém của những vùng làng quê đã được thể hiện trực tiếp bằng những
hình ảnh như: đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết như ngả rạ, ba bốn cái thây nằm
còng queo bên đường và mùi gây của xác người.
Bức tranh tổng quan về nạn đói những năm 1945 được khắc họa vô cùng chân thực và
sinh động dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân. Tiếp theo, nạn đói tiếp tục được thể
hiện qua tình huống nhân vật Tràng lấy được vợ. Sự nghèo khó đã đưa hai con người
đến với nhau. Ở lần gặp thứ hai, vì quá đói mà nhân vật Thị đã đánh mất hết tự trọng
để mà “đòi nợ” Tràng lời hứa mời ăn hôm trước. Và cũng vì sự nghèo khó ấy mà chỉ
bằng một câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng mà Thị trở về nhà Tràng và họ nên
duyên vợ chồng với nhau.
Việc lấy vợ là một sự kiện thiêng liêng và trọng đại nhưng vì cái nghèo mà ta được
chứng kiến một đám cưới không thể đơn giản hơn. Tràng cũng đã tưởng tượng đến sự
đói nghèo không biết có sống nổi để mà nuôi nhau hay không nhưng Tràng vẫn nhắm
mắt mặc kệ. Sự nghèo khổ của gia đình nhà Tràng còn được thể hiện bằng tâm tư, tâm
trạng chua xót của người mẹ. Những giọt nước mắt của bà lão rơi xuống minh chứng
cho tình yêu thương con, cùng với đó là sự chua xót cho tình cảnh nghèo khó của gia
đình nhà mình. Hoàn cảnh nghèo khó khủng khiếp của gia đình Tràng cũng như bao
gia đình khác được thể hiện bằng hình ảnh của nồi cháo cám.
Nồi cháo cám thể hiện cho sự nghèo khó đến tột cùng của gia đình những người nông
dân lúc bấy giờ. Sự nghèo đói đã đưa đến kết thúc mở cho truyện đó là hình ảnh của lá
cờ phấp phới, mở đường cho những người nông dân nghèo khó lúc bấy giờ phá kho
thóc của Nhật để có thể sống sót khỏi nạn đói. Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt của nhà
văn Kim Lân đã thể hiện được tài tình và xuất sắc nạn đói những năm 1945 mà những
người nông dân phải gánh chịu. Bài làm mẫu 6
Những nghịch lý, mâu thuẫn luôn là một phương diện của xã hội, nhất là khi xã hội ấy
đang rối ren, bế tắc trong cảnh đói nghèo của năm 1945 hay đang bát nháo, giả dối
trên con đường Âu hóa ở thành thị. Hãy nhìn vào cái đám cưới qua ngòi bút xây dựng
tình huống truyện của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt để cảm nhận được bữa cơm ngày đói.
Tràng là dân xóm ngụ cư nghèo khổ lại xấu xí. Trong cơn đói quay quắt và người chết
như ngả rạ, Tràng lại “cưới” một cô vợ nghĩa là thêm một miệng ăn.
Những cái không có hoặc không bình thường trong “đám cưới”: Đám cưới ở đây được
hiểu hoàn toàn theo nghĩa bóng là hai người lấy nhau, về sống cùng nhau trong một
mái nhà chứ không hề có một sự chuẩn bị, tổ chức hay bất cứ dấu hiệu nào của cái đám vui.
Không có dạm hỏi, làm quen hay mai mối, cũng không hề tìm hiểu nhau như những
cái đám cưới bình thường. Lí do Thị theo Tràng về nhà chỉ bằng vài ba câu bông đùa
và bốn bát bánh đúc. Để bám víu, tầm gửi thân phận trong cảnh đói khổ Thị đã không
hề suy nghĩ lựa chọn cho quyết định của mình còn Tràng thì sự tình đến bất ngờ khiến
Tràng chỉ “chậc, kệ” phó mặc cho cuộc đời.
Không có sính lễ của đàng trai cũng không có của hồi môn bên đàng gái. Món quà mà
Tràng cho vợ ngày cưới là “cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt”. Đám cưới chẳng hề có
một quan khách hay họ hàng nào đến chia vui bởi vì nghèo túng miếng cơm còn
không có ăn thì lấy đâu đãi khách khứa “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy,
nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này”
Đêm tân hôn diễn ra trong căn chòi rúm ró, phên nứa rách nát lại có tiếng khóc tỉ tê
bên ngoài vọng vào. Thảm hại nhất là bữa ăn sáng hôm sau ngày gia đình chào đón
nàng dâu mới. Đã không có mâm cao cổ đầy để ra mắt họ hàng lại chẳng được bữa
cơm thịnh soạn cho ra hồn “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo… Nồi cháo lõng bõng, mỗi người ăn có lưng lưng hai bát đã
hết nhẵn”. Bữa ăn bị gián đoạn và sự xuất hiện bất ngờ của nồi “chè khoán” - thật ra là
món cháo cám chát đắng, thức ăn lẽ ra của động vật chứ không phải con người.
Đằng sau đám cưới không có gì Kim Lân xây dựng tình huống truyện và những chi
tiết mang sức ám ảnh đến lay động lòng người. Sự tuềnh toàng và thảm hại trong cái
đám cưới đã phản ánh được chân dung cảnh nghèo túng đến thảm thương của người
dân trước năm 1945, họ phải giành giật, đấu tranh hằng ngày với cái đói, cái chết.
Ngược lại với cái đói, cái nghèo, con người trong Vợ Nhặt lại ấm áp, giàu tình yêu
thương và khát khao sống. Bữa ăn không đủ no nhưng mọi người ăn với thái độ vui vẻ.
Đến lúc nồi cháo cám xuất hiện dù miếng cám chát xít nghẹn ứ cổ nhưng cô con dâu
vẫn chấp nhận vì cô thông cảm, thấu hiểu cho cảnh ngộ éo le của cơn đói. Bà cụ Tứ
hiện lên trong bữa ăn như một ngọn lửa cố gắng đem ánh sáng của mình thắp niềm tin
cho hai con. Bà kể toàn những chuyện vui, ở cái tuổi xế chiều bà vẫn lạc quan, tin
tưởng vào chân lí của ông bà “không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”. Bà truyền
cho các con mình chút an ủi, chút hi vọng cho cuộc sống quá tối tăm. Chi tiết nồi chè
khoán “ngon đáo để” là chi tiết xúc động về tình mẫu tử về tấm lòng nhân hậu của người mẹ nghèo.
Trong tất cả những thứ không có thì Kim Lân đã khẳng định điều thiêng liêng tồn tại
trong truyện, đó chính là tình người. Tình người giúp Thị tìm được nơi nương tựa,
giúp Tràng và bà cụ Tứ thêm hi vọng sống, giúp xóm ngụ cư vui tươi hơn mọi khi và
cũng giúp trang văn ấm áp lạ thường.