Văn mẫu lớp 11: Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng (Dàn ý + 2 Mẫu)

Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450. - Bố cục: Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải. Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
9 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Văn mẫu lớp 11: Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng (Dàn ý + 2 Mẫu)

Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450. - Bố cục: Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải. Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

23 12 lượt tải Tải xuống
Dàn ý phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng
I.Mở bài
- Dẫn dắt giới thiệu về đoạn trích.
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du tác phẩm Truyện Kiều
II. Thân bài
1. Khái quát chung:
a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê Tiên
Điền, Nghi Xuân, Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa truyền thống khoa bảng vừa
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống thời đại nhiều biến cố lịch sử như nhà -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp tiêu biểu cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực hội tinh thần nhân đạo sâu
sắc.
b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450.
- Bố cục:
Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải
cuộc khởi binh của Từ Hải.
Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành
động.
2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh công ơn của Từ Hải:
Kiều tự nhận mình “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều điều không thể nào quên: “Chạm
xương chéo dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
Từ nhận mình “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng sức mạnh của bản thân.
Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều điều tất yếu bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chi việc cũng việc nhà/Lọ thâm
tạ với tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mài một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm gì!”.
3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính đại diện cho ước về công lí, sự bình đẳng hạnh phúc ấm no của
người dân.
- Nghệ thuật:
Thể thơ lục bát truyền thống.
Bút pháp đậm tính sử thi.
Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
Xây dựng hình tượng nhân vật vĩ, đặc sắc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
Phân tích bài Anh hùng tiếng đã gọi rằng
“Một nước không thể không quốc hoa, “Truyện Kiều” quốc hoa của ta; một
nước không thể không quốc túy, “Truyện Kiều” quốc túy của ta; một nước
không thể không quốc hồn, “Truyện Kiều” quốc hồn của ta” - đó lời nhận xét
của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”,
“quốc túy” “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành
tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công
bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc
phần “Gia biến lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo
ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình,
Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết
sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước của nhân dân về hạnh phúc công
trong hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy
Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường”
do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt.
Sự xuất hiện của Từ Hải nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều
hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính thế, những lời Kiều bày tỏ với
Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại
trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ người bạn tri âm còn vị
ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám
tới sẽ ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng còn
thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí
công đường điều xưa nay chưa từng tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh
của mình Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống
khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn
trước Từ Hải. Từ Hải được với “sấm sét” uy cùng.
“Chạm xương chéo dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi lòng tạc dạ ơn nghĩa này như
khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh
cũng một người ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân”. Gấm, bạc đều những vật cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số
lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể
bằng những vật chất hữu hình. đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của
Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn
không thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị
thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời
Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn
tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy
nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện ràng:
Từ rằng: "Quốc xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!”
Từ Hải đã tự coi minh bậc “Quốc sĩ" trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức ràng về
tài năng phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân kẻ hàm ơn thì với Từ
Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề
cao ngạo hết mực khiêm tốn quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay
trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện
dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành,
ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong
trần nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” chàng
Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng một Từ Hải phi phàm
“Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!”. Đây chính quan niệm sống lối ứng
xử cao đẹp, thể hiện “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải
chính người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân
động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực người anh hùng nhân dân hằng ao
ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến
tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ thâm tạ mới tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc
giúp Kiều báo ân báo oán chỉ một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó “việc
nhà”, đồng nhất tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều hiện thân cho
những con người hồng nhan bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị
đày đọa bởi hội đồng tiền nên tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong
lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. thể thấy, từ mục đích đến cách hành
động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa giàu tình thương. một
quan nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng trái lại, rất mực nho
nhã tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt
người Tần” ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay
biết chút tin tức về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót
thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời
khuấy nước mặc dầu” ấy không phải một con người ngồi trên vị thế cao cao tại
thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận nhân, mong
muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời
nói của Kiều để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà
thơ làm nổi bật lên nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi
miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ
đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối
lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện
lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ
mái tan” đã khắc họa sức mạnh song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh
hùng đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái
tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ
Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến
nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn
hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại
nhũng của con người văn song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Thiếu quả, thiếu vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi
Nam”, “một phương hải tần”. đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình
ảnh thiên nhiên với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà”
cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ
Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những
cụm từ “Đòi cơm”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc
người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng
lưỡi gươm công của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình
ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ hạng “giả áo túi cơm” thấp kém,
hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa nét cả thái độ
hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản
lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm
sét, làm đảo lộn giang sơn. Một hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn ước
của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian chàng Thạch Sanh
diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn
học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện người anh
hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng
hình tượng nhân vật vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa
thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng
nghĩa, sức mạnh quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc.
Nhân vật đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân
trong bất thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi múa xòe, hát đúm
hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”
Nguyễn Du chỉ một “Truyện Kiều”"
(Nguyễn Bính)
Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương
bất hủ. Trong đó tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn
nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn
gửi gắm trong tác phẩm này một giấc anh hùng, giấc về tự do công bằng
hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi
rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Đối mặt với Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa như một nạn
nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải giấc
của Nguyễn Du thì ngay đến Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp
được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một
bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng
những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi
thường, mang tầm vóc trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều
cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp
không thể nào quên:
Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời
nói của Kiều còn được khắc họa nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều,
việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân
một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó việc
quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ thâm tạ với tri ân?
Từ Hải tự nhận mình “quốc sĩ”, coi Kiều “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều việc
nghĩa khí đương nhiên bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ
Hải không hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào hội. Chỉ với một câu
nói đĩnh đạc bậc anh hùng đã thể hiện tưởng cao đẹp như một lời thách đấu
với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì
xem đó “việc nhà” đó chính sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn
lao, đại hơn. Đó phải chăng cũng nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng
sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình còn rất biết người. Bậc anh hùng này người
tình nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với cách tri ân, tri kỉ. Tuy
nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều
mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ
động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều
được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu quả, thiếu vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì
“sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”,
bày binh bố trận ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu
thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ
Hải, bọn gian thần triều đình chỉ “loài giá áo túi cơm” thôi. Từ Hải hiện lên
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền
thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời còn hi
sinh Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những
ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự
mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian
trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của
Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ
đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa oai hùng. Với màu sắc sử thi
hình tượng vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán
trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng
mỗi khi cất cánh, che trở cứu rỗi những con người thấp cổ họng, cứu
rỗi nạn nhân của hội tăm tối mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
| 1/9

Preview text:

Dàn ý phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng I.Mở bài
- Dẫn dắt và giới thiệu về đoạn trích.
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều II. Thân bài 1. Khái quát chung: a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống là thời đại có nhiều biến cố lịch sử như nhà Lê -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ và Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực xã hội và có tinh thần nhân đạo sâu sắc. b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450. - Bố cục:
● Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và
cuộc khởi binh của Từ Hải.
● Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động. 2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh và công ơn của Từ Hải:
● Kiều tự nhận mình là “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
● Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều là điều không thể nào quên: “Chạm
xương chéo dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
● Từ nhận mình là “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng và sức mạnh của bản thân.
● Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều là điều tất yếu mà bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều là bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chi việc cũng việc nhà/Lọ là thâm tạ với là tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải là vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải có khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa cơ trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn có sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” và sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mài một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm sá gì!”. 3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính là đại diện cho ước mơ về công lí, sự bình đẳng và hạnh phúc ấm no của người dân. - Nghệ thuật:
● Thể thơ lục bát truyền thống.
● Bút pháp đậm tính sử thi.
● Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
● Xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đặc sắc. III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
Phân tích bài Anh hùng tiếng đã gọi rằng
“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một
nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước
không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” - đó là lời nhận xét
của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”,
“quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành
tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công
bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc
phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo
ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình,
Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết
sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy
Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường”
do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt.
Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có
cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với
Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng

Tạ ân lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”

Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại
trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị
ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám
mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn
thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí
công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh
của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống
khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn
trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.
“Chạm xương chéo dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”

Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi lòng tạc dạ ơn nghĩa này như
khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh
cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số
lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể
bằng những vật chất hữu hình. Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của
Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ
không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị
thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời
Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy
nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”

Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ" trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về
tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ
Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề
cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay
trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện
dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”

Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong
trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng
Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm
“Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”. Đây chính là quan niệm sống và lối ứng
xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải
chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân
là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến
tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”

Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc
giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc
nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho
những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị
đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong
lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành
động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một
quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho
nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt
người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay
biết chút tin tức gì về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót
thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời
khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại
thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong
muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời
nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà
thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi
miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ
đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối
lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện
lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”

Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ
mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh
hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái
tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ
Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến
nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn
hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại
nhũng của con người văn võ song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm sá gì
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”

Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi
Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình
ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà”
cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ
Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những
cụm từ “Đòi cơm”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc
ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng
lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình
ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém,
hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và
hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản
lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm
sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước
mơ của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian có chàng Thạch Sanh
diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn
học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện ở người anh
hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng
hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa
thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng
nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc.
Nhân vật là đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân
trong bất kì thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi có múa xòe, hát đúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”
Có Nguyễn Du và chỉ một “Truyện Kiều”"
(Nguyễn Bính)
Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương
bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn
nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn
gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã
hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi
rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi

Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn
nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc
mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp
được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một
bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng
những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi
thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô
cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:
Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây

Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời
nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều,
việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân
là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?

Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc
nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ
Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu
nói đĩnh đạc là bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu
với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì
xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn
lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là
sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có
tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”

Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy
nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều
có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ
động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều
được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài. ...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì
“sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”,
bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu
thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ
Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi. Từ Hải hiện lên
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền
thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi
sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những
ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự
mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian vũ
trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô
đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi
và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán
trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng
mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu
rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.