Văn mẫu lớp 11: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở | Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý diễn biến tâm trạng Chí phèo sau khi gặp Thị Nở Dàn ý số 1 I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Một tác giả lúc nào cũng
trăn trở về cách sống và cách viết, luôn nhìn đời bằng con mắt của tình thương.
Chí Phèo là một tác phẩm Nam Cao đã dùng tình thương để nhìn và để viết nên như vậy
● Với cái nhìn đầy tình thương, Nam Cao đã để cho sự lương thiện một lẫn nữa
quay trở về với Chí sau khi gặp được Thị Nở II. Thân bài
1. Khái quát về hoàn cảnh Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở
● Chí Phèo đã từng là một người nông dân lương thiện
● Sau khi bị Bá Kiến hãm hại, Chí Phèo bị bắt vào tù
● Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở
thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính:
● Làm tay sai cho Bá Kiến
⇒ Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bị coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”
2. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở – Hoàn cảnh gặp gỡ:
● Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu
● Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về
● Hắn gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà (Thị Nở)
● Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng
⇒ Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo
3. Diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở a. Thức tỉnh
– Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
● Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp
đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
● Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
● Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
● Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
● Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
● Hắn đủ tỉnh để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc
⇒ Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên
b. Niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về
● Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ,
chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
● Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình
như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc
● Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn
● Hắn muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con
● Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về
● Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay
là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”
⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến
niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy
c. Thất vọng, đau đớn
– Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, bởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn:
● “Ngẩn người”, “ngẩng mặt”: Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình
cảnh của mình ⇒ đáng thương
● Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua
● Hành động: Nắm lấy tay Thị ⇒ mong muốn níu kéo hạnh phúc
● Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”
⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng d. Phẫn uất
● Mong muốn quay trở lại làm người lương thiện không thể thực hiện được, niềm
phẫn uất trong Chí đẩy lên cao
● Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.
● Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói
thẳng với Bá Kiến: niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình
⇒ Hành động tự kết liễu thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng III. Kết bài
● Khái quát lại diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
● Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân Dàn ý số 2 I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích. II. Thân bài
1. Hoàn cảnh Chí Phèo gặp Thị Nở
● Chí Phèo đi uống rượu nhà thầy cúng về.
● Khi về Chí Phèo không về thẳng mà ra sông tắm.
● Khi ra sông Chí Phèo gặp Thị Nở đang ngủ hớ hênh dưới trăng.
● Cuộc gặp định mệnh của hai người.
2. Biến cố xảy ra
● Sáng hôm sau Chí Phèo bị trúng gió và được Thị Nở đưa về lều.
● Khi tỉnh dậy đây là lần duy nhất Chí Phèo tỉnh khi anh ở tù về.
● Anh nhìn thấy tô cháo hành Thị Nở mang cho anh.
3. Tâm trạng Chí Phèo
● Anh cảm thấy vui sướng.
● Anh muốn làm người, trở thành một con người.
● Anh mơ về tương lai, những điều đẹp đẽ. III. Kết luận
● Bi kịch của con người sinh ra là người mà không được làm người.
● Sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người
và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. .........................
Tóm tắt tâm trạng của Chí Phèo khi gặp Thị Nở
Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
- Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm
khi bên ngoài vẫn sáng”
- Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
- Cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
- Thấy “sợ rượu” → dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
- Cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
- Nhận thức được hoàn cảnh của mình, thấy mình cô độc.
→ Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm Chí thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.
Phân tích Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở ngắn gọn
Trong vườn văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, Nam Cao là đóa hoa
nở muộn. Trước Nam Cao, ta đã có những Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng,... Tuy là cây bút đến sau, nhưng Nam Cao vẫn kịp có cho mình những tác phẩm
xuất sắc, phản ánh rõ hiện thực xã hội đương thời, lên án, vạch trần những cái xấu xa,
những cái lầm than trong những kiếp người. Tiêu biểu có thể kể đến truyện ngắn "Chí
Phèo" - tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Tác phẩm viết về bi kịch của người nông
dân Việt Nam và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Trong
đó, chi tiết để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc có lẽ là diễn biến tâm
trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Người nông dân Việt Nam với bi kịch tha hóa bước vào trang sách Nam Cao, trở
thành Chí Phèo, rồi Chí Phèo lại từ trang văn Nam Cao bước ra, phản ánh biết bao số
phận lầm than ngoài đời thực. Với bút pháp xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao
khiến cho nhân vật sống động tới nỗi chỉ cần nghe tới tên Chí Phèo, trong đầu ta lập
tức hiện ra hình ảnh anh nông dân lương thiện bị áp bức, dồn ép thành một thằng lưu
manh và sau cùng chết trong tức tưởi. Lũ chúa đất và nhà tù thực dân biến Chí từ một
chàng thanh niên mồ côi ngờ nghệch phải đi làm thuê ở đợ kiếm cái ăn thành "con quỷ
dữ" của làng Vũ Đại. Trông thấy Chí trong hình hài xăm trổ, gương mặt dọc ngang
đầy sẹo trong những lần rạch mặt ăn vạ, không tiếc làm chuyện ác, ta ngỡ như Chí
Phèo đã tha hóa hoàn toàn, đã biến đổi, dị dạng cả nhân hình lẫn nhân tính, bản chất
lương thiện dường như đã bị che lấp hoàn toàn. Thế rồi Nam Cao để Thị Nở đến bên
Chí, mở ra cánh cửa lương tri đã bị tội ác của lũ cường hào ác bá đóng vào bấy lâu.
Tình cảm chân thành, hành động ngờ nghệch của Thị thức tỉnh Chí, thức tỉnh con
người vốn ngủ sâu trong hình hài "con quỷ dữ". Nam Cao là thế đó. Ông không bao
giờ để nhân vật của mình lặng yên chìm trong bóng tối mà luôn vùng vẫy, đấu tranh
cho những điều tốt đẹp.
Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại ngờ nghệch như đứa trẻ, ấy vậy mà
sống tình cảm. Bởi vì ngờ nghệch, Thị chẳng sợ Chí như người dân làng này vốn sợ.
Thị nhìn hắn với cái nhìn dành cho con người, chứ không phải nhìn một con quỷ như
người ta vẫn hay nhìn hắn. Nam Cao đã đặt vào trong hình hài xấu xí của thị một vẻ
đẹp tâm hồn sâu kín. Hình ảnh của thị với bát cháo hành nghi ngút khói trên tay đem
đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã
cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… hình ảnh
ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô
tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và
cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính
toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ
khiến ta cảm động quá!
Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy
là thực tại của bản thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải
đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều
ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn
sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết
dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo
chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ
phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm
xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm
giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm
thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài
kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của
những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ
thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá
khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của
hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói
rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ
biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu
người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như,
bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.
Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may
là Thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành,
một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo
ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được
một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của
người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của
Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một
con người. Bát cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên,
không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có
người chăm sóc, bởi Thị nghỉ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên
Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo
hành là tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ
Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc
sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể
làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện
bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về
với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi
hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.
Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời
ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người". Mà đã là người, ai
chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ.
Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự mong muốn xây dựng gia đình với Thị
Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai mảnh đời bất hạnh
gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và "chịu
ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng chỉ được năm ngày. Năm ngày
ấy có lẽ là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí. Sau năm ngày ấy, Thị Nở nhớ ra
mình còn một người cô ở đời. Thị phải "đừng yêu để hỏi cô thị đã".
Nghiệt ngã thay! Chí đã thức tỉnh lương tri, đã trở lại là người, khao khát sống cuộc
đời lương thiện, nhưng điều ấy không ai biết. Bà cô Thị Nở lại càng không biết. Bà
nghe cháu gái nhắc đến Chí Phèo thì xỉa xói ngay vào mặt cháu gái rằng lấy ai không
lấy lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng "không cha, suốt ngày chỉ có một việc là rạch
mặt ăn vạ". Thị Nở uất lắm. Bao nhiêu uất giận ấy Thị trút cả vào Chí, từ chối sự níu
kéo của Chí, rồi vùng vằng bỏ về. Những lời nói và hành động của Thị Nở như cái tát
vào mặt Chí Phèo, khiến hắn nhận ra bi kịch đời mình. Hắn không còn cái cơ hội được
trở lại làm con người nữa. Người ta xem hắn là "con quỷ", hắn mãi mãi là thằng Chí
Phèo gieo rắc bất hạnh lên cuộc sống của bao nhiêu con người ở làng Vũ Đại. Người
duy nhất xem hắn là người, gần gũi với hắn, cũng quyết tuyệt từ chối hắn. Tuyệt vọng,
hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”.
Lương tri và lương tâm đã thức tỉnh không cho phép hắn trở lại làm một con quỷ. Hắn
tìm say để lại sống cuộc đời khi trước, nhưng "hơi cháo hành", hay tiếng gọi của tình
người, của lương tri cứ ám ảnh lấy hắn, không cho phép hắn bỏ quên con người đã
thức tỉnh. Hắn đi đòi lương thiện. Nhưng chao ôi, còn ai trả lại cho hắn được sự lương
thiện ngày xưa nữa? Nhân dạng hắn đã đánh mất từ lâu rồi: những vết sẹo trên mặt đã
khiến gương mặt hắn không rõ hình hài là mặt người hay mặt thú. Người ta ghê sợ
hắn. Câu hỏi "Ai cho tao lương thiện?" vang lên trong tức tưởi, phản ánh bước đường
cùng của cuộc đời một người nông dân bị tha hóa. Sự bế tắc và bi kịch tột cùng ấy đưa
hắn đến nhà Bá Kiến, và sau cùng, đưa hắn đến cái chết đầy đau đớn.
Truyện ngắn khép lại bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thấp
thoáng hiện ra cái lò gạch cũ. Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu
cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân
nghèo. Hiện thực xã hội đã được phơi bày trọn vẹn trong tác phẩm.
Thông qua diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, ta thấy được khả năng
xây dựng tâm lý nhân vật tài tình của Nam Cao. Nhà văn thể hiện lòng nhân ái, lòng
tin vào trái tim lương thiện của con người trước hiện thực éo le.
Qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng
và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển
hình cho người nông dân trước Cách mạng bị bần cùng hóa, lưu manh hóa đến tha hóa
nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm - cái
tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút
Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).
Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 1
Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với
con người. Ông thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị
đày đọc vào cảnh nghèo đói cùng đường” (Nguyễn Đăng Mạnh). Với tấm lòng nhân
đạo ấy, Nam cao đã khước từ thứ văn chương lãng mạn đế đến với dòng văn học hiện
thực. Đây cũng chính là nơi Nam Cao đã kí thác toàn bộ những tâm tư tình cảm, triết
lí nhân sinh của mình về cuộc đời, con người. Hàng loạt các tác phẩm đã ra đời nhằm
“minh oan”, “chiêu tuyết” cho những con người bị miệt thị một cách bất công: Chí
phèo, Một bữa no, Lang Rận, Tư cách mõ... Trong đó Chí Phèo là một tác phẩm tiêu
biểu nhất của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, viết về đề tài người nông dân
nghèo và đánh dấu một bước phát triển đáng kế của văn xuôi Việt Nam. Có thể nói
nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm là một điển hình nghệ thuật về người nông dân
nghèo từ lương thiện sa vào tha hóa rồi lại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
nhưng luôn cố vẫy vùng để đến với ánh sáng của thiên lương. Chi tiết để lại ấn tượng
sâu sắc nhất trong lòng người đọc đó chính là mối tình giữa Chí Phèo và thị Nở. Mối
tình có một không hai trong làng văn Việt Nam khiến ta phải đọc rồi suy ngẫm rất
nhiều về tình người trong cõi nhân thế.
Chí Phèo tự lúc nào đã đi vào trang văn Nam Cao và rồi lại từ trang văn Nam Cao
bước ra. Nhân vật điển hình đến mức gấp sách lại ta vẫn thây day dứt về một anh Chí
vốn hiền lành lương thiện thế nhưng do sự áp bức ghê gớm cùa bọn chúa đất, thực dân
đã khiến anh trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Tưởng chừng Chí Phèo đã bị
tha hóa hoàn toàn với một tâm hồn chai đá, những hành động mất lí trí, bị hủy hoại cả
về nhân tính lẫn nhân hình, bản chất lương thiện bị che lấp. Nhưng trong trái tim anh
vẫn len lỏi một thứ ánh sáng nhiệm mầu, đó chính là ánh sáng của lương tri. Nam Cao
là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình chìm trong bóng tối mà luôn để
nhân vật trượt trên mặt phẳng nghiêng”, luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cái thế giới
của con thú trở về với thế giới con người. Ranh giới ấy rất mong manh và vô cùng khó
khăn. Liệu Chí có thể thực hiện được không? Ai sẽ là người giúp anh làm được điều
này? Thị Nở ?Chính thị Nở là người hé mở cánh cửa để Chí trở về với ánh sáng của
lương tri. Đọc đoạn văn này người đọc vô cùng sảng khoái trước nghệ thuật phân tích
nội tâm tâm lí nhân vật rất tinh tế của Nam Cao.
Nhưng cái hay của Nam Cao không chỉ là những đoạn văn phân tích tâm lí nhân vật
sắc sảo mà còn là Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật hết sức ấn tượng – thị Nở
một người ngấn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn nhưng
lại có một sức hút, sức hút của tình người đã kéo Chí về với ánh sáng nhân tâm. Nếu
ta vẽ một chân dung thj Nở riêng biệt chắc ta phải hoảng hốt bỏ chạy vì cái “dung
nhan” ấy. Nhưng nếu ta vẽ hình ảnh của thị với nồi cháo hành nghi ngút khói trên tay
đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn
bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… thì hình
ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên,
rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí
và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính
toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ
khiến ta cảm động quá!
Chính Nam Cao cũng không thể kìm lòng trước vẻ đẹp ấy. Nên ở trang văn này, ta bắt
gặp những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên rất đỗi thơ mộng. Đó là những ánh
sáng dịu hiền của trăng, trăng in cái bóng dáng xệch xạc, méo mó của Chí Phèo trên
đường làng, trăng trên vườn chuối, hình ảnh cả hai ngủ say dưới trăng… Và trong
khung cảnh ấy ông đã ghép một đôi tâm sự rất xứng đôi: Chí Phèo – thị Nở. Đương
nhiên hai con người ấy có ngôn ngữ tâm sự riêng của họ, ta không bàn đến mà chi biết
rằng: từ sau cái đêm trăng thanh gặp thị, Chí Phèo đã nhận thầy một thứ thèm khát
(không phải thèm rượu) đang sôi sục lên trong anh đó chính là sự mong muốn làm
người. Niềm mong muốn ấy được Nam Cao miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế những thay
đổi rất tinh vi từ trong từng tế bào của Chí.
Điều đầu tiên nhà văn để cho Chí nhận ra thực tại của mình qua hình ánh cái túp lều.
Đó là cái túp lều ngoài bờ sông (thuộc đất lưu không) mà anh đã phải đánh đổi bằng
máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được ấy. Một cái túp lều ẩm thấp,
tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây
không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết
mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thay thế bởi Chí Phèo chưa bao
giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy.
Tiếp đó, nhà văn để cho Chí Phèo cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống:
tiếng chim ríu rít, tiếng trò chuyện của các người buôn hàng, tiếng anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc đó ngày nào chả có. Nhưng đã bảy,
tám năm trời nay, từ khi ra khỏi tù, lúc nào Chí cũng chìm trong cơn say thì làm sao
Chí nghe được. Cuộc đời của anh là những cơn say dài mênh mông, vô tận, “tràn từ
cơn say này sang cơn say khác…” đến mức “…Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc
say, thức dậy vẫn còn say…Hắn làm tấtcả trong lúc người hắn say…”. Thế đấy, đã
bao giờ hắn tình để mà nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật chứ. Đây là
lần đầu tiên sau một giấc ngủ dài Chí nghe thấy những thanh âm ấy. Những thanh âm
của cuộc sống giản dị đã thức kéo thiên lương trong anh, lòng anh bỗng mơ hổ buồn.
Chao ôi buồn rồi lại nao nao buồn! Cái buồn đó cứ như một cơn gió lúc thì ổ ạt lúc thì
nhẹ nhàng. Bằng bút pháp phân tích nội tâm sâu sắc, tinh tế, Nam Cao đã mô tả quá
trình thức tỉnh lương tri của Chí Phèo theo trình tự logic biện chứng.
Nhận ra được thực tại, đón nhận được giọt âm thanh của cuộc đời, nhà văn để cho Chí
nhớ về quá khứ “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gừ đình nho nhỏ, . chồng
cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá
giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái ước mơ chân chính, nhỏ nhoi nhưng sao lại
quá khó đối với Chí. Rồi Chí nhìn về hiện tại và tương lai “Chí Phèo hình như đã
trông thấy tuổi già của hắn; đói rét, ốm đau và cô độc Chí sợ cô độc nhất. Khi đã sợ cô
đơn là lúc con người ta cô đơn nhất và khao khát sự sum vầy. Nhưng Chí vốn là con
hoang, không gia đình, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Hắn lại là con quỷ
dữ trong mắt người dân ở làng Vũ Đại, không ai chấp nhận hắn chứ đừng nói đến chuyện sum vầy.
Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may
là thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành,
một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo
ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được
một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của
người khác thì mới có được. Nhưng thứ thị ho Chí không đơn giản chì là bát cháo
hành mà còn là một tình yêu thương mộc mạc , là sáng soi rọi vào sâu thẳm tâm hổn
Chí làm bừng lên chất người trong anh, làm cho anh khát khao trở về lương thiện,
“thèm làm hòa với mọi người”. Nhìn bát cháo hành bốc khói, nhìn nụ cười tình tứ của
thị, Chí vừa vui mà vừa buồn, ta thây được sự ăn năn và hạnh phúc từ trong nụ cười
của Chí. Cầm bát cháo húp, mồ hôi đổ ra những giọt to như giọt nước nhưng Chí vẫn
cười, vẫn đắm say trong niềm hạnh phúc mà bát cháo hành mang lại. Ôi! Nếu không
có bát cháo hành kia liệu ta có thấy được nụ cười của Chí không hay chỉ thấy sự lưu
manh hung tàn của một con quỷ dữ? Bát cháo hành là sức mạnh của tình yêu nồng
thắm, là biểu tượng của tình người duy nhất ờ làng Vũ Đại. Nếu đặt trong mối tương
quan với nhân vật bà Ba vợ bá Kiến – người đàn bà đẹp nhât làng nhưng lại là “con
quỷ cái” (bà ta chỉ biết lợi dụng Chí, kêu Chí lên bóp chân, lúc ấy anh chỉ thấy nhục
chứ yêu đương gì), thì thị Nở rất đẹp. Vẻ đẹp của tình nghĩa nguyên sơ. Quả thật, thị
Nở Thị Nở càng xấu, tác phẩm lại càng hay! Đó là một thành công tuyệt vời của Nam
Cao khi ông đã xây dựng được một hình tượng Tất thú vị.
Trước sự chăm sóc của thị, lòng Chí bỗng trở nên trẻ con. Chí làm nũng với Thị như
với mẹ vậy. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hoà với mọi người biết bao”. Đó là lời kệ, lời miêu tả nội tâm Nam Cao hay
đó chính là tiếng lòng thẳm sâu của Chí? Chỉ có điều là nó bị vùi lấy bảy, tám năm
trời nay. Hôm nay nó đã trở về. Chính thị Nở đã dánh thức lòng thèm khát lương tri
của Chí. Nói cho cùng đây là sự kết duyên của hai tâm hồn đồng điệu. Tuy Thị Nở
xấu xí nhưng tâm hồn lại đẹp. Chí Phèo đã bị tha hóa nhưng vẫn còn bản chất lương
thiện của người nông dân. Và khi bản chất ấy sống dậy là khi Chí khao khát gia đình”
Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Như thế này mãi nghĩa là Chí muốn có cuộc sống
bình yên và hạnh phúc không chỉ riêng bên Thị Nở mà còn bên mọi người. Cái tình
yêu của Thị và Chí nói đúng nghĩa hơn là vừa cho vừa nhận” Đó là cái lòng yêu của
một người làm ơn. Nhưng cũng có lòng yêu của người chịu ơn”.Mối tình của Chí
Phèo Thị Nở quả thực là”đôi lứa xứng đôi”. Nhưng dụng ý của Nam Cao không dừng
lại ở đây. Nếu cứ để Chí và Thị sống hạnh phúc bên nhau thì đâu còn là hiện thực phê
phán nữa. Mối tình định mệnh của Chí chỉ diễn ra chóng vánh trong năm ngày. Đó là
năm ngàu hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chí, là năm ngày Chí được sống trong sự
chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Và khi hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời
rồi, hắn mới cảm nhận được mùi thơm của cháo hành” trời ơi cháo mới thơm làm
sao”Mùi vị cháo thơm hay đây lòa vị ngọt của cuộc đời ? Hay là tấm lòng săn sóc của
Thị Nở? Hình ảnh thị Nở cũng trở nên đẹp đẽ từ việc chăm sóc Chí Phèo bằng bát
cháo hành. Hình ảnh ấy gợi cho ta cái không khí đầm ấm của gia đình nông thôn xưa,
thế nhưng họ lại vấp phải rào cản lớn nhất : ” Bà cô thị Nở”” Ai lại đi lấy thằng Chí
Phèo” Bà đại diện cho định kiến khắt khe cổ hủ của xã hội phong kiến đã làm đầy tràn
li bi kịch của Chí, đẩy Chí Phèo đến tận cùng của tuyệt vọng, cắt đứt cái cầu nối cuối
cùng không cho Chí hòa nhạp với cộng đồng . Khi bị cự tuyệt, hắn bỗng nhiên ngẩn
người, Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại”Hắn đuối theo thị”. Hoàn toàn vô vọng Chí cố
uống rượu đế say, để tìm quên đau khổ. Nhưng “càng uống lại càng tỉnh”; “hơi rượu
không sặc sụa, hắn cứ thoảng thoảng thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rưng rức”.
Nam Cao đã thật tinh tế thật sâu sắc khi miêu tả những biến đổi tâm trạng của nhân
vật. Từ tâm trạng ấy, ta thấy những khát khao chân chính của Chí. Nhưng khi lương
tri đã trở về lại là lúc bi kịch ập đến. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Nếu ta đánh giá cao tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật miêu tả, phân tích nội tâm
nhân vật và đặc biệt là nghệ thuật thắt nút – tháo nút – thắt nút trong tác phẩm thì
chính đoạn văn miêu tả mối tình Chí – thị là sự tháo nút của nhà văn nhưng lại là để
lần thắt nút cuối cùng giải quyết toàn bộ xung đột bằng hành động quyết liệt của Chí ở cuối tác phẩm.
Đó là hành động đi đòi lương thiện của Chí. Trong tận cùng đớn đau tuyệt vọng, trong
cơn khát thèm lương thiện, mơ ước gia đình, Chí đã tìm đến nhà bá Kiến (kẻ đã cướp
đi đời lương thiện của Chí) không phải đế rạch mặt ăn vạ hay xin đi tù đế có chỗ trú
thân như mọi lần mà là để đòi lương‘ thiện : “Tao muốn làm người lương thiện”. Thế
nhưng, Chí không còn đường nào khác, khi anh nhận ra được một bi kịch: “Không
được! Ai cho tao lương thiện, làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt
này? Tao không thể là người lương thiện nữa . Biết không ?”. Chí nói rất dõng dạc câu
nói đòi quyên làm người và đó cũng Bà những tiếng kêu tuyệt vọng của Chí. Bởi
trong cái xã hội “Chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) ấy, quyền sổng chính đáng của con
người không được chấp nhận. Vậy nên chỉ có một cách: giết bá Kiến và tự sát. Hành
động của Chí Phèo như là một quy luật tất yếu . Nó không đơn giản là hành động trả
thù cá nhân mà là hành động trả thù giai cấp. Bị đè nén, bị áp bức nhiều thì họ phải
đứng lên chống lại. Nhưng hiện thực lúc bấy giờ, giết bá Kiến rồi Chí Phèo cũng chỉ
có một con đường chết. Đó cũng chính là kết cục chung của các tác phẩm hiện thực
phê phán: nhân vật hoặc lâm vào ngõ cụt không lối thoát , hoặc là chết. Cái chết của
Chí để lại thương tâm cho người đọc. Không ít người lên án, cho rằng Nam Cao quá
nhẫn tâm hoặc gắn cái hạn chế cho nhà văn. Nhung không phải thế, yêu thương sâu
sắc người nông dân, gắn bó máu thịt với cuộc sống của họ.Nam Cao chắc sẽ rất đau
trước cái chết của Chí. Nhưng thời đại ấy, không thể viết khác được. Đó là hạn chế
của thời đại chứ không phải của nhà văn.
Tác phẩm khép lại là hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và đâu đó hiện ra một
cái lò gạch bỏ hoang (nơi Chí Phèo ra đời). Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu
vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của
người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội cũng lại phơi bày ,Lại một quy luật “tre già
măng mọc”: Chí Phèo chết sẽ có một Chí Phèo con ra đời, Bá Kiên chết rổi nhưng còn
trăm ngàn bá Kiến khác… Biết khi nào người nông dân mới thoát khỏi bốì cảnh ây?
Đó là trăn trớ của nhà văn, là sự day dứt của người đọc. Trang văn Nam Cao bề ngoài
lạnh lùng nhưng bên trong chan chứa tấm lòng nhân hậu, nhân đạo, nhân văn cao cả là vậy.
Tóm lại đoạn văn miêu tả tâm trạng, sự đổi thay, những khát khao và cả cái bi kịch
dẫn đên thảm kịch của Chí là đoạn văn thành công nhất của Nam Cao. Có thể coi đây
là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí. Là đoạn văn thế hiện lòng yêu thương con
người và cả lòng tin tưởng vào “thiện căn” ở con người Nam Cao. Cũng từ đó mà tác
phẩm thêm sức sông kì diệu, tô đậm hơn giá trị hiện thực và làm ngời sáng giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
Đến đây ta có thể mạnh dạn mà đồng tình với một ý kiến của ai đó khi nói “Nếu
không viết Chí Phèo, Nam Cao đã để lại cho văn học Việt Nam một khoảng trống
lớn”. Đúng vậy qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê
phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật
mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị tha hóa, lưu manh hóa
nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm – cái
tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút
Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 2
Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của
nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng
đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề
tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn
đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo, ông đặc biệt khắc họa rõ nét
diễn biến tâm trạng của nhân vật này từ sau khi gặp Thị Nở. Đây là một thành công
đáng kể của tác giả trong truyện ngắn này.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là
“Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng
đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ
bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù,
Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát
cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần
người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm
người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị
ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách
dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Trước cuộc gặp gỡ đầy tình cờ với thị Nở trong đêm trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông,
Chí Phèo là một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Hắn triền miên trong những cơn say
dài bất tận và sống trong tình trạng vô thức. Sau cái đêm định mệnh ấy, cuộc đời Chí
Phèo tưởng như được lật sang một trang mới. Sáng sớm hôm sau, hắn tỉnh dậy. Hắn
bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một
con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng
đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen
thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người
đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa :
“có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo
khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà
vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và
cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng
giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương
thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người
trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.
Hắn đang nghĩ vu vơ thì thị Nở đến, mang theo một nồi cháo hành còn nóng nguyên.
Đầu tiên, Chí Phèo “rất ngạc nhiên”. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy “mắt hình như ươn
ướt”. Con quỷ dữ Chí Phèo đã biết khóc. Hắn cảm động đến như vậy là bởi đây là lần
đầu tiên hắn được người ta cho, xưa nay, muốn có cái gì, hắn phải giật cướp và dọa
nạt. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà lòng “bâng khuâng”, rồi hắn nhìn thị Nở đang
cười toe toét mà cảm thấy thị “có duyên”. Có cái gì đó đang trỗi dậy trong lòng Chí
Phèo, phải chăng đó là tình yêu ? Có thế thì mới nhìn một người đàn bà “ma chê quỷ
hờn” thành ra “có duyên” chứ ! Rồi thì hắn thấy “vừa vui vừa buồn” và “một cái gì
nữa giống như là ăn năn”. Chí vui bởi vẫn đang còn một người quan tâm đến hắn. Chí
buồn và ăn năn bởi tội ác mình gây ra quá nhiều, con đường trở về làm một người
bình thường của hắn có lẽ là sẽ lắm chông gai. Đưa bát cháo lên miệng, Chí Phèo thấy
cháo “mới thơm làm sao” và húp một húp, Chí cảm thấy “cháo hành ăn rất ngon”.
Cháo hành vốn là thứ quê mùa, không phải cao lương mĩ vị gì, lại được nấu bởi bàn
tay của một người “dở hơi” thì chắc là dở lắm; thế mà với Chí Phèo thì nó thật ngon.
Bát cháo từ tay người đàn bà là thị Nở ấy làm Chí Phèo nhớ về bà Ba vợ Bá Kiến. Chí
Phèo thừa hiểu, “cái con quỷ cái” ấy chỉ lợi dụng hắn chứ yêu đương gì. Hắn chưa bao
giờ được một người đàn bà nào yêu cả. Bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn
suy nghĩ nhiều. Ngồi ăn cháo hành cạnh thị Nở, hắn thấy “lòng thành trẻ con”, “hắn
muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Ngòi bút Nam Cao thật sắc sảo và tràn đầy tình
thương khi miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Chí. Ông nhận ra phần người không
bao giờ mất trong hình hài con quỷ dữ Chí Phèo. Phần người ấy đã hoàn toàn trở về
với Chí và khiến hắn “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hòa” với mọi người biết
bao. Hắn hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Hắn hi vọng tràn trề “họ sẽ lại nhận
hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Niềm hi
vọng được làm người lương thiện làm Chí Phèo thấy “lòng rất vui”. Chí thấy mình và
thị Nở sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi, và quyết định lấy thị. Năm ngày sau đó là
năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí Phèo. Hắn và thị Nở sống với nhau như vợ
chồng. Hắn đã không còn kinh rượu nữa nhưng cố uống cho thật ít để tỉnh táo. Bây
giờ hắn “say” thị Nở chứ không còn say rượu. Bây giờ, hắn là con người chứ không còn là “con quỷ”.
Thế nhưng, năm ngày ấy thật ngắn ngủi. Đến ngày thứ sáu thì thị Nở nhớ ra thị đang
còn một bà cô đi làm ăn xa sẽ về trong ngày hôm ấy. Thị phải dừng yêu để về nhà hỏi
cô thị đã. Thị trở về nhà rồi quay lại nhà Chí Phèo với cơn tức giận sau những lời xỉa
xói đay nghiến của bà cô. Thị tới và “trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”. Nghe những
lời ấy, Chí Phèo “nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu”. Đầu óc bị tê liệt bấy lâu của hắn
phải nghĩ ngợi một tí rồi mới “hiểu” được những lời của bà cô thị Nở. Hắn hiểu một
cách sâu sắc về những lời ấy. Hắn hiểu rằng không còn ai coi hắn là con người nữa.
Một người cuối cùng mà hắn hi vọng nhất cũng đã từ chối hắn. Hắn hiểu ra rằng
người ta không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện. Đó là bi kịch đau đớn
của cuộc đời hắn : bị cự tuyệt quyền làm người. Nhận ra bi kịch thê thảm ấy, Chí Phèo
lại uống rượu. Nhưng bây giờ, càng uống, hắn “càng tỉnh ra” và lại càng “buồn” hơn.
Hắn cứ thấy hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức”.
Thương thay, hắn sinh ra là người mà giờ đây muốn làm người cũng không thể được.
Hắn cứ thế uống, uống cho đến say mềm đi. Rồi hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng.
Trong cơn say, đầu óc của hắn vẫn không thể nào quên được bi kịch đau đớn của đời
mình, và càng không thể nào quên được kẻ đã đẩy hắn vào bi kịch ấy. Không ai khác
ngoài Bá Kiến. Bởi vậy mà hắn không đến nhà “con đĩ Nở” như dự định ban đầu mà
đi thẳng đến nhà lão bá. Đến đấy, hắn cất tiếng đòi lương thiện thống thiết : “Tao
muốn làm người lương thiện” nhưng cũng đồng thời hiểu rằng “tao không thể làm
người lương thiện được nữa”. Những câu nói cuối cùng của Chí nghe sao thật xót xa,
cay đắng. hắn chỉ còn một cách nữa, cách để được nhẹ nhàng, thanh thản, đó là ra đi
cùng với bản chất người của mình. Nhưng trước khi ra đi, hắn phải trả thù, phải giết
kẻ đã khiến hắn không được làm người nữa. Hắn hành động dứt khoát, quyết liệt : giết
bá Kiến và tự vẫn. Chí Phèo tự vẫn bởi hắn có sống tiếp cũng không thể được làm
người lương thiện nữa. Cái chết đau đớn, tức tưởi của Chí Phèo vừa là tiếng nói tố cáo
tội ác của tầng lớp thống trị phong kiến vừa là lời khẳng định, tin tưởng vào bản chất
lương thiện không bao giờ mất đi trong những người nông dân cùng khổ đáng thương.
“Chí Phèo” là minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng
nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa
phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước
đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu
truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn
mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng
góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể
chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn
như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá
được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài
năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.
Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” đã miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng của Chí
Phèo từ sau khi gặp thị Nở. Qua đó, nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm
sâu sắc với hoàn cảnh bi đát của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời khẳng
định và tin tưởng vào bản chất lương thiện tốt đẹp của họ. Đó cũng chính là tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945. Truyện ngắn này đã đưa tên tuổi Nam Cao vào hàng những nhà
văn hiện thực xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 3
Nam Cao là nhà văn chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm
1930 đến năm 1945. Tác phẩm kiệt tác để lại tên tuổi của ông là “Chí Phèo” phản ánh
nỗi thống khổ, cơ cực của người nông dân trong xã hội cũ. Nhân vật cùng tên truyện
để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Chí sau
khi gặp thị Nở- quãng thời gian hồi sinh ngắn ngủi nhưng giàu giá trị nhân đạo mà nhà
văn dành cho nhân vật của mình.
Chí Phèo bản chất vốn là một người hiền lành, chất phác nhưng vô tình bị xã hội đẩy
đến mức đường cùng, đại diện cho cường quyền ấy là Bá Kiến vì ghen với Chí được
bà Ba “quý mến” mà tìm mọi cách cho hắn đi ở tù. Bảy tám năm đi biệt khi quay trở
về làng Vũ Đại Chí là một kẻ mất nhân hình lẫn nhân tính để cho thế lực hắc ám như
cụ Bá hoàn thành nốt công đoạn biến thành con quỷ dữ mà mọi người đều ghê sợ và
xa lánh, Chí trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến kể từ đó hắn chỉ chuyên hành nghề
rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Cuộc đời hắn chìm trong men say hết ngày này
qua ngày khác chưa bao giờ hắn tỉnh để biết mình còn tồn tại có mặt ở trên đời.
Nam Cao không nhẫn tâm để nhân vật của mình sống mãi là kiếp thú vật nên đã cho
thị Nở xuất hiện cùng bát cháo hành tình người và tình cảm chân thành đánh thức
lương tri Chí sau những ngày bị vùi lấp. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau khi
gặp thị Nở chứng tỏ tài năng khám phá và phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Hôm ấy, sau trận nôn mửa lúc nửa đêm khi đã ngủ cùng thị Chí Phèo tỉnh dậy sau một
cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở
về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người
ốm sợ cơm”. Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia
vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá”… Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh
để nghe thấy và cảm nhận tiếng gọi tha thiết của sự sống.
Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của
người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của Chí từng ước mơ về một gia đình
nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để
làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát
của anh canh điền hiền lành chất phác. Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện
thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới
cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương
lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn
đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm
Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận thức về
ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người.
Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành và tình thương yêu dành cho Chí khiến hắn vô
cùng ngạc nhiên, xúc động và trỗi dậy mong muốn được làm người lương thiện. Đây
là đoạn văn mang nhiều giá trị nhân đạo nhất mà nhà văn dành cho nhân vật của mình.
Trưa hôm ấy Chí được săn sóc bởi đôi bàn tay của thị. “Hắn thấy mắt hình như ươn
ướt. Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho.” Bởi xưa nay hắn toàn phải
cướp giật hoặc dọa nạt chứ nào ai cho không hắn cái gì ấy vậy mà thị lại giàu tình
thương, sự cảm thông chia sẻ và quan tâm để làm điều đó cho hắn. Hắn cảm động vô
cùng. Giọt nước mắt hạnh phúc được trở lại làm người đã chảy ra, hắn đã thực sự cảm
nhận được mùi vị của tình người. Thị chính là hiện thân của tình người với bát cháo
hành là liều thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn bị
sứt mẻ, bị bóp méo bấy lâu của Chí. Hắn đối với thị hiền lành biết bao “Ôi sao mà hắn
hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém
người?” Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương
thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có
thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” Nhà văn đã cho ta
thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã
đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở.Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với
mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại
làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những
tháng ngày đen tối và tội lỗi.
Cũng như bao người khác khi nhận thức được giá trị của bản thân Chí khao khát có
một hạnh phúc gia đình “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” đây là một lời gợi ý cho
một cuộc sống mới cũng là một lời tỏ tình rất bình dị với sự bẽn lẽn của một anh canh
điền hiền lành chất phác. Trong con mắt của kẻ say tình những điều xấu xí nhất của
người đàn bà xấu xí như thị đối với Chí lại trở nên đáng yêu và có duyên “Xấu mà e lệ
thì cũng đáng yêu”. Nam Cao để cho con mắt của một kẻ lưu manh tha hóa biến thành
con quỷ dữ nay trở lại làm người lại nhìn thấy vẻ đẹp tiềm ẩn trong thị bị xã hội vùi
lấp không nhìn thấy. Người đàn bà ấy tuy vẻ bên ngoài “Xấu ma chê quỷ hờn” bởi
dòng giống con nhà mả hủi lại có tấm lòng nhân hậu và tình thương ngập tràn dành
cho Chí. Năm ngày bên nhau của đôi lứa ngắn ngủi trôi qua trong những phút giây
hạnh phúc, Chí trong khoảng thời gian ấy được sống là chính mình. “Hắn không còn
kinh rượu nhưng cố uống thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để
yêu nhau.” Chí đã ý thức được rằng mình có gia đình và cần phải chăm lo cho điều ấy.
Đáng tiếc thay thị lại là một người dở hơi đem câu chuyện tình về hỏi ý kiến của bà cô
già gây ra bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí bởi định kiến xã hội.
Như vậy tâm trạng nhân vật chí Phèo sau khi gặp thị Nở đã được nhà văn miêu tả chi
tiết tỉ mỉ đi sâu vào ngóc ngách trong tâm hồn để khám phá ra những điều mới mẻ
trong nhân vật. Nhưng giá trị nổi bật nhất của Nam Cao làm nên thành công của tác
phẩm là ở chỗ: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi
nhọ người nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng
định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ đã bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Nam Cao đã khéo lột tả nội tâm nhân vật Chí Phèo trong những ngày hồi sinh khi gặp
thị Nở với cách sử dụng ngôn ngữ sinh động, giản dị nồng ấm hơi thở đời sống thường
ngày của người nông dân để lại giá trị nhân đạo cao đẹp sống mãi với thời gian. Bản
chất lương thiện và khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người
không bao giờ bị mất đi dù cho bị quỷ dữ tha mất linh hồn nhưng chỉ cần được thắp
sáng bởi ngọn lửa tình người nó lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Qua đó cũng
cho ta bài học nhận thức rằng chỉ có tình thương mới cảm hóa được trái tim sắt đá, cô
độc và mỗi chúng ta sống trong cộng đồng người hãy biết yêu thương, chia sẻ cảm
thông cho nhau bởi “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương”.
Phân tích Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 1
Tình yêu là là ngọn nguồn của mọi hạnh phúc cũng như khổ đau. Tình yêu còn giúp
con người trở nên mạnh mẽ, lạc quan, giúp ta hướng thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của
nhà văn Nam Cao tuy chuyện tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở chỉ là một lát cắt nhỏ
nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là một khởi đầu mới cho Chí, đem Chí trở
về cuộc sống của một con người lương thiện mà lâu nay Chí đánh mất.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, nghèo khổ và bất hạnh. Từ khi lọt lòng đã bị mẹ bỏ
rơi, Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người làng Vũ Đại. Lớn lên
Chí là một thanh niên khỏe mạnh, làm thuê ở nhà Bá Kiến. Vì bà ba dâm đãng hãm
hại, Chí bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân và bị đánh mất nhân hình và nhân tính
của mình, ra tù lại trở thành tay sai cho Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng khi thị Nở xuất hiện, cuộc đời Chí được lật sang một trang mới, đẹp đẽ, hạnh
phúc, mà cũng đầy khổ đau, bất hạnh.
Thị Nở sống cùng bà cô. Thị là một người phụ nữ quá lứa, sinh ra trong mả hủi, tính
dở hơi. Không chỉ vậy thị xấu ma chê quỷ hờn, nên đã nhiều tuổi mà chẳng có được
hạnh phúc cho riêng mình.
Vẫn như mọi lần, Chí uống rượu say, trên đường trở về nhà, Chí thấy trong người khó
chịu nên đã ra sông tắm. Còn thị Nở đi gánh nước, mệt nên nằm ngủ ngay cạnh bờ
sông. Bởi vậy, đã tạo nên cuộc gặp gỡ tiền định này. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi con
người, suy nghĩ của Chí Phèo.
Cuộc sống của Chí Phèo đã thực sự thay đổi, sau bao nhiêu ngày chỉ biết đến say sưa,
chỉ biết đến rạch mặt ăn vạ thì sau đêm gặp gỡ với Thị Nở đây là lần đầu tiên Chí tỉnh.
Lần đầu tiên Chí nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra sự tồn tại của mình và tương
lai tăm tối của bản thân. Khi Chí Phèo mở mắt ra thì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã
cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe tiếng chim kêu ríu rít bên ngoài đủ biết.
Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi lờ mờ […] chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy
thế bởi chưa bao giờ hết say. Sự thức tỉnh của Chí Phèo bắt nguồn trước hết phải là từ
sự tỉnh rượu, từ tỉnh rượu hắn mới tỉnh ngộ, mới nhận ra nhiều điều. Chí nhận thấy
những âm thanh vui vẻ, ríu rít xung quanh mình là tiếng chim, tiếng của những người
đi chợ. Âm thanh quen thuộc quá, mà bấy lâu nay trong cơn say triền miên Chí không
hề nhận thấy. Hắn nhớ về ngày trước, nhớ về anh nông dân lương thiện, với những mơ
ước thật giản dị về một gia đình ấm cúng và cuộc sống lao động cần mẫn. Nhưng
chính hắn cũng phải tự giật mình về hoàn cảnh hiện tại của bản thân: Tỉnh dậy, hắn
thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già
rồi hay sao […] Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau,
và cô độc, cái này con đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Ngòi bút của Nam Cao đã
lách sâu vào tâm hồn của Chí để nhận ra những thay đổi dù là nhỏ bé nhất.
Không chỉ vậy, Chí Phèo còn xúc động sâu sắc trước sự quan tâm, chăm sóc của Thị
Nở dành cho mình. Thấy bát cháo hành Thị Nở đưa cho mình Thằng này rất ngạc
nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Chí Phèo xúc động đến tột
cùng khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ một người khác. Đây cũng là lần đầu
tiên ta thấy người vẫn bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại khóc. Đó là giọt nước mắt
của niềm vui, của hạnh phúc khi được nhận hơi ấm tình người, bởi lần này là lần thứ
nhất hắn được một người đàn bà cho , những thứ xưa nay hắn có được chỉ là do cướp
giật, hắn chưa được ai quan tâm, chăm sóc bao giờ. Chí nhớ về bà ba và nỗi nhục khi
phải bóp chân cho bà ba. Chính bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn phải bâng
khuâng, phải suy nghĩ nhiều. Ta có thể thấy rằng, phần nhân tính bị chìm khuất bao
lâu nay của Chí nay đã dần dần xuất hiện trở lại do nhận được tình yêu thương của Thị
Nở. Với việc phân tích diễn biến tâm lí hết sức sâu sắc và hợp lí, Nam Cao đã ngầm
khẳng định bản chất lương thiện của người nông chỉ bị vùi lấp bởi những độc ác, xấu
xa của cuộc sống, nó sẽ ngay lập tức được khơi dậy khi có điều kiện phù hợp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở còn khơi dậy niềm hi vọng trong Chí Phèo. Niềm hi vọng
được làm người lương thiện : Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người
biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người
khác lại không thể được…. . Khát vọng làm người lương thiện của Chí thật chính
đáng, hợp lí khi mà nhân tính của Chí đã quay trở lại. Bởi vậy, Chí đã đề nghị với Thị
Nở sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Năm ngày đó Chí sống trong sung sướng, hạnh
phúc, đến ngày thứ sáu Thị Nở về xin phép bà cô và đó cũng là lúc khởi phát bi kịch.
Sau những lời bà cô dè bủi và nhất quyết không cho lấy Chí, Thị Nở sang nhà Chí
Phèo nói hết những lời bà cô nói và quay về nhà, trước sự tuyệt vọng tột cùng của Chí.
Chí Phèo lấy rượu uống, càng uống lại càng tỉnh, càng đau đớn, hắn ôm mặt khóc
rưng rức. Đỉnh điểm của sự phẫn uất và tuyệt vọng Chí vác dao với ý định giết cả nhà
Thị Nở, nhưng lại quen chân sang nhà Bá Kiến. Chí Phèo giết chết Bá Kiến và tự kết
liễu mình. Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn, muốn làm người lương thiện nhưng bị cự
tuyệt. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực nửa phong kiến đương thời.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa quan trọng với nhân vật Chí Phèo. Về nội dung,
Thị Nở xuất hiện góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm và làm nổi bật chủ đề tác
phẩm: Thị Nở đã giúp Chí Phèo hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của Nam
Cao; nhưng chính Thị cũng đẩy Chí vào bi kịch, qua đó tố cáo xã hội thực dân nửa
phong kiến. Về nghệ thuật, Thị Nở giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời tình
huống gặp gỡ này cũng giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách, tâm hồn của nhân vật trung tâm.
Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Nam Cao đã cho thấy sự
biến đổi trong nhận thức của Chí Phèo, đó là sự phục sinh của nhân tính. Nhưng đồng
thời cũng cho thấy bi kịch đau đớn của Chí khi bị cự tuyệt làm người, cự tuyệt về cuộc sống lương thiện.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 2
Nhắc đến nhà văn Nam Cao chúng ta không thể không nói đến một ngòi bút phê phán
hiện thực xã hội Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã đi theo
con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh” và tạo ra nhiều tác phẩm thấm đượm tư
tưởng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn có nhiều tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo
sâu sắc, viết về cuộc sống tối tăm, chật hẹp của những người nông dân. Trong đó “
Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác, nhân vật chính của tác phẩm là Chí Phèo – nhân
vật điển hình, một con người đặc biệt với một cuộc sống đặc biệt. Tâm trạng nhân vật
được biến đổi linh hoạt và có lẽ nó được dâng trào khi tình yêu thiên sử giữa Thị Nở và Chí Phèo bắt đầu.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều tác phẩm văn học viết về tình yêu thiên sử, đó là
một tình cảm trong sáng, cao đẹp, nó luôn ẩn náu trong tâm hồn của mỗi con người. Ở
nước Anh có vở kịch nổi tiếng về tình yêu Romeo và Juliet, ở Trung Quốc có chuyện
tình Quách Tĩnh – Hoàng Dung. Còn ở Việt Nam khi nhắc đến tình yêu thiên sử phải
nhắc đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo, tình yêu giữa hai con người không tưởng trong
một hoàn cảnh không tưởng.
Những ai đã đọc tác phẩm “ Chí Phèo” thì không thể nào quên nhân vật Chí. Chí Phèo
là một đứa trẻ mồ côi, không cha, không mẹ, bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không.
Nhờ chén cơm của người làng, Chí lớn lên và trở thành một con người lương thiện với
những ước mơ nhỏ bé, bình dị. Năm 20 tuổi, Chí làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến.
Vì một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù. Sự độc ác của một tên địa chủ
khét tiếng với sự dã man của nhà tù thực dân đã làm thay đổi con người Chí. Bảy, tám
năm sau Chí ra tù và bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Chí trở nên con người quỷ
dữ của làng Vũ Đại, Chí uống rượu say , tìm đến nhà Bá Kiến trả thù với sự xảo quyệt
của mình Bá Kiến đã biến Chí thành tay sai đắc lực của mình. Từ đây, Chí chỉ uống
rượu say rồi chửi cả làng cả xóm, Chí đi cướp bóc, rạch mặt ăn vạ và quẩy phá tất cả mọi người.
Tưởng Chí cứ sống mãi kiếp như thế rồi sẽ chôn thây ở một cái bụi nào đó. Nhưng
không, Chí đã thấy được tia sáng dẫn lối của cuộc đời mình. Dưới màn đêm thanh
vắng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng, Chí Phèo đã gặp Thị Nở – tình yêu thiên sử của
cuộc đời mình. Trong buổi đêm ấy, Chí Phèo gặp Thị Nở không chỉ đơn giản là sự va
chạm về xác thịt mà nó đã khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng của con
người.Một con quỷ của làng Vũ đại cộng với một người phụ nữ xấu nhất làng đã
thành một tình yêu kỳ diệu. Kỳ diệu ở chỗ, một con người lưu manh hóa, bị cả làng xa
lánh lại có tình yêu. Kỳ diệu ở chỗ, một người phụ nữ ngẩn ngơ, xấu ma chê quỷ hờn
lại có tình yêu. Đó là điều kỳ diệu , điều kỳ diệu có thể thay đổi cả một con người.
Quỷ dữ say ngàn năm đã tỉnh dậy sau một đêm, một con người lưu manh đã cảm nhận
được cuộc sống. Trước đây, vây quanh Chí chỉ có rượu cay, rượu thơm, rượu nồng.
Nhưng giờ đây, Chí tỉnh rượu sau bao nhiêu năm say triền miên. Trận thổ nữa đêm đã
loại bỏ hết men rượu trong người Chí, Chí cảm thấy mình tỉnh hơn bao giờ hết. Lần
đầu tiên trong cuộc đời Chí nghe thấy những âm thanh của cuộc sống. “Mặt trời đã lên
cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ, lúc nghe tiếng chim bên ngoài đã đủ biết… chim
hót ngoài kia vui tai quá! Có cả tiếng cười nói của người đi chợ, anh thuyền chài gõ
mái chèo đuôi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chẳng có, nhưng hôm nay hẳn
mới nghe thấy”. Một người như Chí chỉ có rượu làm bạn mà đã nghe thấy tiếng gọi
cuộc sống, đó là một điều kỳ diệu.
Điều kỳ diệu không chỉ có thế, đây cũng là lần đầu tiên Chí biết chiêm nghiệm về
cuộc đời mình, “ Tỉnh dậy hắn thấy mình đã già mà vẫn còn cô độc”, Chí đã sang con
dốc bên kia của cuộc đời rồi mà vẫn còn lẻ bóng. Những người bằng tuổi Chí thì đã có
gia đình sum vầy hạnh phúc, cha con quây quần. Nhìn lại cuộc đời, Chí thấy mình đã
yêu nhiều, lắm chỗ hư hỏng nặng nề. Chí nhớ rằng, trước kia Chí cũng từng có một
ước mơ, có một gia đình nhỏ bé, chồng cuốc mướn cấy thuê, vợ dệt vải. Nhưng vì cái
xã hội này mà Chí đã quên đi cái cuộc đời này. Mọi người mới sinh ra không ai là độc
ác cả mà chỉ tại cái xã hội tàn bạo này đã biến họ thành một con người khác, bị lưu
manh hóa, bị xã hội coi thường, khinh bỉ, xa lánh.
Và rồi, thị Nở cũng xuất hiện, thị sang mang cho Chí bát cháo hành nóng hổi, bát cháo
hành không chỉ để cho Chí giải cảm mà còn là sự quan tâm bởi tay một người đàn bà.
Thị quan tâm, chăm sóc Chí thật tốt, tình cảm của thị gửi đến cho Chí quá đột ngột
khiến Chí quá ngạc nhiên “ hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”.
Cầm bát cháo trên tay hít một hơi dài, húp một mạch đến cạn bát. Chí thấy cháo hành
mới ngon làm sao, “ những người suốt đời không ăn cháo hành không biết cháo hành
ăn rất ngon”. Giờ đây, Chí tin tưởng rằng thị sẽ làm cầu nối đưa Chí về thế giới bằng
phẳng kia, Chí muốn làm người lương thiện. Thế mới biết, sự lương thiện của một con
người luôn ẩn náu trong một góc khuất nào đó ngay cả khi họ bị biến thành quỷ dữ.
Đương lúc niềm tin dâng trào thì chí Phèo lại rơi vào một bi kịch đau đớn hơn bi kịch
lúc đau gấp trăm ngàn lần, thị Nở cự tuyệt Chí Phèo. Đang lúc tình yêu say đắm ,thị
Nở thương Chí Phèo, Chí Phèo mến thị Nở mà bà cô thị rắp tâm chia cắt mối tình đẹp.
Thái độ của bà cô thị đại diện cho thái độ của những người dân trong làng, họ không
thể tiếp nhận lại Chí Phèo, ước mơ của Chí Phèo đã bị dập tắt , rồi cuộc đời Chí sẽ trôi về đâu?
Theo bản tính sẵn có, cứ buồn là Chí tìm đến rượu, uống cho say để quên đi cuộc đời.
lần này cũng thế, Chí lại uống rượu. Rượu luôn trung thành với Chí nhưng giờ Chí
càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng buồn. Chí thấy thoang thoảng mùi cháo
hành. Trước lúc uống, Chí định bụng sẽ đến nhà Thị Nở giết cả nhà con mụ đàn bà
xấu xí ấy nhưng khi có rượu trong người, Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến. Chí đòi
sự lương thiện: “ ai cho tao lương thiện”? Chí giết chết Ba Kiến rồi tự sát, Chí chết
giãy đành đạch giữa vũng máu, Chí chết bởi Chí không muốn trở lại kiếp quỷ dữ. Cái
chết của Chí là sự giải thoát cho mọi đau khổ, cuộc đời Chí đặt dấu chấm hết.
Tâm trạng của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở đã được nhà văn Nam Cao miêu tả rất
sâu sắc. Bằng việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như: miêu tả và phân tích tinh
tế diễn biến tâm lí nhân vật, xây dựng được nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển
hình, kết cấu truyện linh hoạt , mới mẻ, phóng túng và cả sử dụng ngôn ngữ tự nhiên,
giản dị sử dụng khẩu ngữ đan xen cách trần thuật linh hoạt, đã tạo nên một tình yêu
thiên sứ giữa thị Nở và Chí Phèo.
Khép lại truyện ngắn “ Chí Phèo”, tác phẩm đã thể hiện cả giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc mới mẻ. Hiện thực ở chỗ đã phản ánh số phận bi thảm của những
người nông dân bị áp bức bóc lột trước cách mạng. Đồng thời tố cáo chế độ thực dân
nửa phong kiến tàn bạo. Còn nhân đạo ở chỗ , phát hiện và miêu tả những phẩm chất
tốt đẹp của con người ngay cả khi họ biến thành quỷ dữ. “ Chí Phèo” là một kiệt tác
của nền văn học Việt Nam.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 3
Chí phèo là nhân vật điển hình cho lớp nông dân Việt Nam trước cách mạng, bị bần
cùng hóa và rơi vào tình trạng tha hóa khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân
vật Chí Phèo hiện lên đa diện, phức tạp, vận động tâm lí theo một chu trình khép kín
nhưng cũng hết sức bất ngờ. Đặc sắc nhất là diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Trước khi vào tù, Chí Phèo từng là anh nông dân hiền lành lương thiện. Vì cơn ghen
vu vơ của Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến biến
Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đúng lúc hắn đang rơi vào hố sâu của tội ác
và tuyệt vọng thì Nam Cao đã đưa “thiên sứ” thị Nở đến trong cuộc đời của Chí.
Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say dài. Hắn nhận ra cảm giác “miệng
đắng” và “lòng mơ hồ buồn”. Cảm thấy “sợ rượu như người ốm thường sợ cơm”. Chí
nhận ra và cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: “tiếng chim hót, tiếng anh
thuyền chài đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Đó là âm thanh vang vọng của
cuộc sống thường nhật. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống
và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Âm thanh ấy như cơn mưa rào mùa hạ, như
dòng suối ngọt ngào đổ vào tâm hồn quỷ dữ và thức dậy cả một trời ký ức tươi đẹp.
Âm thanh ấy nhắc cho hắn nhớ đến một tuổi trẻ từng mơ ước “một gia đình nho nhỏ,
chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải…”.
Âm thanh ấy cũng đánh thức hiện tại đầy cay đắng. Hắn không nhớ mình năm nay bao
nhiêu tuổi; chỉ biết đã qua bên kia con dốc của cuộc đời. Hắn nhận ra hiện tại đã già
mà vẫn còn cô độc. Nghĩ đến tương lai, hắn chạnh lòng vì phải đối mặt với một “đói
rét, ốm đau và cô độc, cô độc, còn sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Khi ý thức được hiện
tại, đoán biết được tương lai, Chí không còn là quỷ dữ nữa mà đã trở lại năng lực làm người.
“Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí
giản dị của mọi thời.” Qua phân tích truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, hãy bàn luận ý kiến trên
Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn
ướt”. Hắn xúc động vì lần đầu tiên được chăm sóc, lại là sự chăm sóc của một người
đàn bà. Và cũng bởi vì đây là lần đầu Chí được bàn tay của một người đàn bà cho.
Hắn nhận ra bát cháo hành mà hắn đón lấy là “cái cho” đầu tiên của cuộc đời, vì xưa
nay muốn có cái ăn, hắn phải rạch mặt ăn vạ. Điều ấy khiến Chí chạnh lòng nhận ra bi kịch của đời mình.
Chí cảm nhận về cháo hành như cảm nhận về tình người, tình yêu thương mà bây giờ
hắn mới nhận ra. Hắn nhận ra “cháo hành ăn rất ngon” nhưng cũng tự hỏi “sao đến
bây giờ mới được ăn”; rồi lại tự trả lời “có ai nấu cho mà ăn đâu”. Phút giây ấy, người
đọc có thể hình dung ra tình cảnh thê thảm của Chí: không người thân, không kẻ
thương, Chí cô độc đến tuyệt đối giữa làng Vũ Đại.
Như vậy, bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc, là bát cháo của tình yêu thương,
của tình người. Hương vị cháo hành còn là hương vị của tình yêu mà lần đầu Chí cảm
nhận được. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ
khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân
tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn
trong con người Chí Phèo.
Không phải là nước cháo, không phải là lá hành, chính bàn tay chăm sóc ân cần của
thị Nở và hương vị của cháo hành đã xoa dịu trái tim con quỷ dữ và thức dậy bản tính
người, thức dậy thiên lương trong sâu thẳm con người của Chí. Sức mạnh của tình yêu
thương đã lan tỏa từ bát cháo hành, xông đến tận cùng thớ não và tim gan của Chí,
đưa hắn ra khỏi vùng tối của cuộc đời, mang hắn đến bến bờ thiên lương. Trái tim đầy
tổn thương của hắn phải chăng đã được vá lại từ tình yêu thương của thị Nở.
Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở
hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo,
Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con
người ta thấy xấu cũng thành đẹp. Và Chí say thị thật. Đàn bà không có men như rượu
nhưng cũng có thể làm người ta say. Chí thấy thị có duyên lắm. Vậy là Chí tỉnh, hắn
đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được những hương vị của cuộc
sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của
Chí. Đó là tính thiện – Nam Cao tin rằng: lương thiện là thứ không bao giờ mất đi ở
người nông dân. Đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn dành cho nhân vật.
Đã có lúc, Chí hồn nhiên, hắn thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như
làm nũng với mẹ. Ý nghĩ hồn nhiên ấy khiến Chí như trẻ lại. Còn người đọc nhận ra
một điều chua chát: Chí không có mẹ, hắn chưa bao giờ được nhận sự yêu thương từ
mẹ. Bởi thế thị đối với hắn như người ban ơn vậy. Rồi hắn khao khát hạnh phúc. Tình
yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Giá cứ như thế
này mãi thì thích nhỉ”; “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.
Rồi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người. Chí không còn là kẻ rạch
mặt ăn vạ nữa, không còn là con quỷ dữ nữa. Hắn thực sự đã trở lại làm người với hai
chữ “con người” đúng nghĩa. Như vậy, thị Nở chính là “thiên thần” của Chí. Thị
không có đôi cánh tình yêu như trong thần thoại nhưng lại ấm nóng như lửa và mạnh
mẽ như gió. Nếu là gió, thị sẽ thổi tung đám tàn tro nguội lạnh vây quanh cuộc đời của
Chí. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ để trả lại cho anh hình hài của một con người.
Gặp thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm
vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Chí khát khao
trở lại tháng ngày tươi đẹp. Và thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về xã hội loài
người nhưng niềm mong mỏi ấy đã bị chặn đứng bởi định kiến của bà cô, mà cũng là của xã hội ấy.
Chí thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người lương thiện. Thị Nở không thể làm chiếc cầu nối đưa hắn trở lại. Hi vọng
được sống với thị Nở, sâu xa hơn là hi vọng được quay về với cuộc đời lương thiện
như một đốm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị dập tắt. Chí “ngẩn người” vì thất
vọng rồi hắn thấy “thoang thoảng hơi cháo hành”.
Hương vị tình yêu vẫn còn, nhưng chỉ là tô đậm thêm bi kịch tình yêu của hắn. Chí
ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: xã hội làng Vũ Đại,
ngay cả một con đàn bà xấu xí cũng đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không
coi hắn là một con người. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt
hắn. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước
mắt đau đớn, tủi nhục của kiếp người. Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về,
lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Rượu một khi
không đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí
của con người. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ
nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già
nhà nó”. Nhưng hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến. Khi
đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt Bá Kiến, đanh thép kết tội. Câu hỏi cuối
cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau
đớn, làm day dứt tâm can người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con
người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi ấy cũng là lời
kêu cứu của Nam cao: hãy yêu thương con người. Hãy cứu lấy con người.
Hành động giết Bá Kiến và tự sát thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng của
người nông dân Chí Phèo. Đó là lúc nhân phẩm trở về, Chí Phèo hiểu ra nguồn gốc bi
kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Cái chết của Chí chứng tỏ
Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa
tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân
lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Chừng nào còn xã hội người ăn thịt người ấy thì sẽ còn những bi kịch như Chí.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đôi chỗ miêu tả lạnh lùng. Trần thuật hấp dẫn. Tình
huống truyện độc đáo. Kết cấu vòng tròn khép kín. Mở đầu Chí Phèo cha ra đời nơi
chiếc lò gạch cũ, kết thúc tác phẩm, lại một Chí Phèo con ra đời cũng bên cạnh lò
gạch cũ. Đó là kết thúc vòng tròn khép kín, không lối thoát.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một phát hiện mới của Nam Cao
trong đời sống tinh thần của người nông dân. Bi kịch bi cự tuyệt quyền làm người của
nhân vật Chí Phèo thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Nam Cao với nỗi
đau khổ tột cùng của người nông dân. Tiếng nói tố cáo xã hội bất nhân, tàn ác đã đẩy
con người vào bi kịch. Nhà văn lên tiếng cảm thông, bênh vực và phát hiện ra vẻ đẹp
tâm hồn sâu thẳm của người nông dân; trước sau bản tính lương thiện tốt đẹp vẫn là
thứ không bao giờ mất đi ở họ. Nam Cao có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật hết sức
sắc sảo. Đặc biệt là tài nghệ miêu tả những diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị nở.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 4
Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên khai sinh là Trần Hữu Tri sinh ra trong
một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý
Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, vừa
mới mẻ vừa độc đáo. Các sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc
nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Nổi bật lên là tác phẩm “Chí
Phèo”, tác phẩm là sự kết tinh tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực nhân đạo sâu
sắc của nhà văn. Đặc biệt với biệt tài phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, Nam Cao đã
cho mọi người thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp
Thị Nở cho đến hết tác phẩm.
Ngay từ thuở nhỏ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh đáng thương. Vốn là đứa trẻ mồ côi
không nơi nương tựa, nhờ chén cơm của người làng Chí lớn lên trở thành anh thanh
niên tốt bụng, giàu lòng tự trọng. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Lý Kiến rồi bị
Lý Kiến hãm hại đẩy vào tù. Ở tù ra
Chí bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, từng bước biến thành tay sai cho Bá Kiến,
trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tưởng rằng Chí Phèo sẽ vẫn tiếp tục với cuộc
sống của một con quỷ dữ nhưng không, trong một lần tình cờ gặp Thị Nở, Thị đã đánh
thức bản chất lương thiện sâu trong con người Chí.
Trong một lần say, Chí gặp Thị họ đã ăn nằm với nhau rồi cùng say ngủ dưới ánh
trăng. Đến nửa đêm Chí đau bụng, Thị dìu hắn vào trong lều đắp chăn cho hắn rồi ra
về. Đến sáng hôm sau, cũng như nhiều người say tỉnh dậy, Chí cảm thấy miệng đắng,
toàn thân uể oải, chân tay thì bủn rủn. Hay là đói rượu? nhắc đến rượu hắn thấy rùng
mình, người nao nao khó chịu “Hắn sợ rượu giống như những người ốm sợ cơm, tiếng
chim hót ngoài kia vui tai quá! Tiếng cười nói của người đi chợ… Những tiếng quen
thuộc này ngày nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, chao ôi là buồn!”
Rồi hắn nghe thấy cuộc đối thoại của mấy bà đi chợ, hắn nao nao buồn bởi chúng
nhắc cho Chí một cái gì đó xa xôi. Hình như đã có thời hắn ước mơ một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, một cuộc sống hạnh phúc giản dị được
xây dựng bằng chính bàn tay lao động của mình. Tỉnh dậy hắn thấy mình già mà vẫn
còn cô độc, buồn thay cho đời! Có lẽ nào? Hắn già rồi ư? Hình như Chí Phèo nhìn
thấy trước được cuộc sống sau này của mình ốm đau, đói rét, cô độc, cái này còn đáng
sợ hơn tuổi già, ốm đau, đói rét.
Một cách tự nhiên mọi suy nghĩ của Chí lại hướng về thị Nở. Khi thị bước vào với bát
cháo hành hắn “ngạc nhiên”, “mắt hình như ươn ướt”. Bởi vì, đây là lần đầu tiên hắn
được một người đàn bà cho. Ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm lòng đầy tình
thương của Thị Nở, hắn cảm động và phục sinh linh hồn. Hương vị bát cháo hành hay
hương vị của tình thương và cảm động, hạnh phúc giản dị Chí Phèo được hưởng đã
đánh thức bản chất lương thiện vùi dập bấy lâu của mình.Trời ơi! Hắn muốn làm
người lương thiện, hắn thèm được lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết
bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, mọi người sẽ nhận lại hắn vào cuộc sống lương
thiện này. Hắn đặt niềm tin hi vọng vào thị Nở.
Nhưng hi vọng vừa mới hé mở đã đóng lại ngay bởi sự trở lại của lương tri đã đẩy Chí
đến đỉnh điểm bi kịch. Chí đã tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn
linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của quỷ dữ. Thủ phạm chính là Bá Kiến,
nhưng tham gia còn có định kiến xã hội lực lượng không kém phần tàn nhẫn đẩy Chí
đến cùng quẫn bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy là bà cô của thị Nở, bà kiên
quyết ngăn cản mối tình này làm cho con đường trở lại làm người lương thiện của Chí
bị chặn đứng. Chí bị thị Nở cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng
còn sót lại cự tuyệt. Đau đớn đến tột cùng Chí mang rượu ra uống nhưng “càng uống
lại càng tỉnh”, “tỉnh ra chao ôi buồn”. Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng Thị đã đi, đã đi.
Chí ngồi “ôm mặt khóc rưng rức” và rồi hắn quyết định đi trả thù kẻ mà gây cho hắn
ra nông nổi này. Ban đầu Chí định đi giết chết cả nhà thị Nở, giết con cọm già đã ngăn
cản hắn. Nhưng trong tiềm thức Chí nhận ra rằng kẻ đã cướp đi quyền làm người, bộ
mặt lẫn linh hồn mình là Bá Kiến chứ không phải ai khác. Thế rồi trong cơn say Chí
xách dao đi tìm Bá Kiến, rồi đâm chết Bá Kiến. Chí hỏi đời “Ai cho tao lương thiện”?
Trả thù rồi thì sao, sự thật không thay đổi được nữa rồi Chí tự sát, tuy chết mà vẫn uất
ức vẫn muốn nói gì đó mà không thốt thành lời.
Qua cái chết bi kịch của Chí chứng tỏ ý thức, nhân phẩm của Chí đã trở lại. Nó thể
hiện sự khát khao được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ
xã hội phong kiến thực dân tàn bạo không những dồn người nông dân vào đường cùng
mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra và miêu tả phẩm
chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ biến thành thú dữ. Đồng thời, tác giả
đã đưa ra lời cầu cứu khẩn thiết: hãy bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá
nhân trước những thế lực xấu xa của cuộc sống.
Góp phần tạo nên thành công của tác phẩm, tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình
trong hoàn cảnh điển hình. Phân tích và miêu tả diễn biến tâm trạng, nội tâm nhân vật
tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng khẩu ngữ, giọng điệu đan xen, cách trần thuật linh
hoạt. Kết cấu truyện linh hoạt, giàu kịch tính, hấp dẫn.
Tác phẩm “Chí Phèo” là kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại, nó thể hiện trình độ bậc
thầy về truyện ngắn Nam Cao. Qua tâm trạng nhân vật Chí Phèo tác giả cho ta thấy rõ
bi kịch: “Sinh ra là người mà không được làm người” đồng thời thể hiện rõ khát khao
lương thiện của con người và bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 5
Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực
(1930-1945). Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao
có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế
nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào
hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam
Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa.
Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong
những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời
Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương
thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã
vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào
mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam
Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ
tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật
lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự
nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp
Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am hiểu sâu
sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của
Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.
Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí
Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà
chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con
người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hồi sinh mãnh liệt. Nhưng
ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch
từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy
muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần
đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên
những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười
nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng Chí bâng khuâng, mơ hồ buồn.
Tỉnh rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời
mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện
tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời,
Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng
ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào.
Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của
cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con.
Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng
chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già
đói rét, ốm đau và cô độc. Và Chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí
thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.
Có thể nói ‘‘Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị
Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc,
bất ngờ của ngòi bút Nam Cao”. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng
vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác,
tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo
của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 6
Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới
khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo.
Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề
tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị
bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của
Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân
vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch
tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp
nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị
Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không.
Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe
mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính
Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba
vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn
người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt
vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba
sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể
sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã
nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp
tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh,
lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp
đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái
đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt
gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách
Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ
Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò
chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một
bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn
lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi
bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một
con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do
hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí
Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc
biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh
mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị
chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm
hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu,
thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai
người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí
Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm
sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi trời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là
lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng
đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời
thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ,
tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót...Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào
chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn
tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng
gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo... Khi tỉnh táo,
Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết,
hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì
mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm
qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo
không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí.
Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc
bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của
hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc.
Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao
giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình
trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng
nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến
mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một người đàn bà
cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong
đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng
có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối
với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát
cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện
tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ
thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà
xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó
điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã
làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành
của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được trong đời
mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương
vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần
đầu tiên đến với Chí Phèo?
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau
của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này
chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây
bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân
lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù
thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu
tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi
gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối
và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh
và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình
thương và muốn trở thành những người lương thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng
sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không
thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn
cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo –
con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi
chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng
chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi
anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã
trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh
thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được
sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như
một đốm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt
ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn ruột nhưng cũng
phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều
này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì
lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót
trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát
không coi hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn
lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt
trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó
chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời
lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người
nhưng không được làm người. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy
Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá
muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở
về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng
uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi
cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã
cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động
muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyết liệt khiến Chí đi đến một hành động đâm
chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó,
Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị
cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi
đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này
đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo:
Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt
người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn
bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của
Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là
cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm
hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ
làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải
đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng
ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh
thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ
dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù
đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện.
Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa
phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu
manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách
mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời
qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã
hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này
thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con
người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm
còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người
sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành
công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền
văn học hiện thực 1930 – 1945.
Diễn biến tâm trạng Chí phèo sau khi gặp Thị Nở
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 1
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông
đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng
ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm "Chí Phèo". Tác phẩm là
sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo
cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi
gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong
một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ
mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của
mọi người trong làng. Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng
tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến
một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già
đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn
rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần
đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất
lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.
Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của
người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh
rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và
lòng mơ hồ buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức
không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời
thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh
thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát... Tất cả những hình
ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận
được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá
khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước
có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao
động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với
tuổi già đau ốm... hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu
được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm
người, suy nghĩ , lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một
cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành.
Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự
chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên
khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: "thằng này rất
ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Đúng thế, trong Chí giờ
đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn
thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét
của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp
lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà
không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm
động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc. Đây là lần đầu tiên
Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm
sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người.
Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ
ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn,
hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn
ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ
làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy "thèm lương thiện, muốn làm
hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung..." Vậy là hương vị bát
cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất
trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc
Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện
lương sẽ được thực hiện cùng thị Nở. Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ
Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện,
chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó.
Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại
nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình
lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ
dữ - cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có
định kiến của xã hội - lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế
tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết
ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo bị
chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và
dễ bị tiêu tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến
tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt.
Chí "ngẩn người", "sửng sốt", "gọi thị lại, nắm lấy tay"nhưng không được. Đau đớn
cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng "càng uống càng tỉnh ra" và "tỉnh ra,
chao ôi, buồn". Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho
hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn "ôm mặt khóc rưng rức và quyết
định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này". Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay
không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ
cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người
và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về,
tỉnh táo để xác định kẻ thù: "Ai cho tao lương thiện ?",tỉnh táo để thể hiện mong muốn
cháy bỏng của bản thân: "Tao muốn làm người lương thiện !" và tỉnh táo với sự thật
phũ phàng trước mắt: "Tao không thể làm người lương thiện được nữa". Những câu
nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí
Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn
không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để
được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người
này. Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong
khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu
trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như
một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng
chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống
lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến
không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào
chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt
đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để
quay lại làm người. Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: Hãy cứu lấy con
người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của
cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu
truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ
sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí
Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra : làm thế nào
để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến
không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức
thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu "Chí Phèo" trở thành một
trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 2
Nam Cao là một trong những tác giả hiện thực nổi tiếng trong trường phái hiện thực.
Ông được mệnh danh là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật, luôn đi tìm
kiếm " con người trong con người". Tác phẩm của ông dù là viết về tri thức hay nông
dân đều đi sâu vào bên trong nhân vật. Tác phẩm Chí Phèo là một trong những truyện
ngắn nổi tiếng thể hiện tài năng của Nam Cao khi phân tích nhân vật Chí Phèo. Trong
đó Nam Cao rất xuất sắc khi khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Chí Phèo xưa là đứa con hoang, bị bỏ tại cái lò gạch cũ và được người trong làng
truyền tay nuôi. Chí hiền lành, làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng sau này, vì bị nghi
ngờ dính líu với bà Ba nên hắn bị Bá Kiến vu oan phải vào tù. Sau khi về, chẳng còn
ai nhận ra hắn vì nhân dạng đã biến đổi hoàn toàn. Hắn đinh ninh sẽ trả thù Bá Kiến
nhưng rồi lại bị Bá Kiến mua chuộc làm tay đâm thuê chém mướn. Giờ đây hắn tha
hóa cả về nhân hình lẫn nhân cách trở thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Nhưng rồi,
khi Thị Nở xuất hiện, Chí đã thay đổi hoàn toàn bởi lần đầu tiên có người tự nguyện
cho hắn thứ gì đó mà hắn không phải xin hay dọa dẫm.
Hắn tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận hết thảy tất cả những gì đang diễn ra trong buổi
sớm mà từ trước đến nay hắn không hề hay biết. Để rồi hắn nhớ về quá khứ và ước
mơ giản dị mà xa vời. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến cho hắn, Chí rất ngạc
nhiên, xúc động bởi lần đầu tiên hắn được chăm sóc , bởi bát cháo hành tỏa ra hương
thơm ngào ngạt. Chắc rằng chỉ có hắn trong thời khắc ấy mới cảm nhận được vị ngon
tuyệt vời của bát cháo và vị thơm của "tình người". Trong lòng hắn rung động, bâng
khuâng trước Thị, người đàn bà xấu xí, dở hơi và ế chồng và cảm thấy ăn năn với Thị
vì những chuyện mình đã làm trong quá khứ, khiến bao gia đình tan vỡ,... Dường như
những cảm nhận khi ăn bát cháo hành ấy chính là cầu nối tâm hồn giữa Chí Phèo và
Thị Nở. Trong hắn trào lên những cảm xúc khinh miệt khi nghĩ về con người Bà Ba,
một con quỷ dữ đội lốt một người đàn bà xinh đẹp. Hắn thấy nhục và thấy khinh mọi
hành động mà bà ta đã làm. Nghĩ về Thị Nở dù xấu ma chê quỷ hờn nhưng sẵn một
lòng lương thiện, còn bà Ba kẻ ăn trắng mặc trơn lại là mặt người dạ thú. Nam Cao
qua những khắc họa tâm trạng của Chí, tạo ra sự tương phản giữa hai người đàn bà đã
cho ta một bài học khi nhìn nhận ai đó, nhất định không được " nhìn mặt mà bắt hình dong".
Chí Phèo được Thị Nở chăm sóc, thức tỉnh bởi hương vị của cháo hành, hắn nhận thức
được thực tại sau trận ốm này, hắn không còn mạnh như trước và muốn làm hòa với
mọi người, hắn tin rằng Thị Nở chính là người mở đường cho hắn, sẽ giúp hắn bắc
nhịp cầu đến bến bờ thiên lương. Trong nội tâm hắn bỗng tràn lên những khát khao
hoàn lương mãnh liệt, cái mầm nhân tính trong Chí Phèo có thể bị che lấp bởi sự tha
hóa nhân phẩm, bởi những con say và những lần rạch mặt đòi nợ thuê nhưng nó
không hề bị mất đi. Dường như dưới ngòi bút sắc sảo am tường của Nam Cao, tính
cách của Chí Phèo được hiện rõ và ông cũng thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu và luôn
đặt niềm tin vào bản chất thiên lương ăn sâu trong tận xương tủy của những người dân
lao động dù họ có bầm dập, bị tha hóa đến nhường nào.
Luôn có những khát khao hoàn lương, luôn có một mái ấm như bao người nhưng kết
cục chẳng mấy tốt đẹp với Chí Phèo. Bởi hắn bị Thị Nở từ chối sống chung. Điều gì
khiến Thị thay đổi đến vậy? Có lẽ không phải do Thị bạc tình, không muốn thành đôi
với Chí mà do bà cô của Thị nói những lời độc địa, ngăn cấm Thị. Bà cô như một cái
loa phát ngôn cho những thứ hẹp hòi, ích kỉ của người làng Vũ Đại và cả xã hội phong
kiến đương thời. Chí Phèo chỉ còn biết ngẩn người trước lời của Thị Nở, trong hắn lại
thoang thoảng hương cháo hành, dư vị tình yêu thoáng qua mong manh và yếu ớt.
Tình yêu ấy không có sức mạnh để có thể vượt qua nổi thực tại trớ trêu. Dù hắn muốn
níu kéo tình yêu nhưng chẳng thể làm được, đổi lại bản tính trong hắn lại trỗi dậy, đập
gạch ăn vạ, uống rượu say khướt, hơi rượu không sặc sụa mà chỉ thấy thoang thoảng
hương cháo hành. Đó là tình yêu ám ảnh cả tâm hồn lẫn thể xác của Chí. Hắn chỉ biết
khóc, ôm mặt khóc như một đứa trẻ, đòi xách dao đi giết Thị Nở, giết bà cô nhưng
thực chất hắn đến nhà Bá Kiến. Có thể nói hành động của Chí là sai đường nhưng
đúng hướng. Hắn tuyệt vọng vì bị từ chối sống chung, cũng như từ chối làm người
lương thiện. Hắn đau đớn biết bao vì lương chi đã tỉnh, ý thức sâu sắc thực tại rằng
hắn bị từ chối nguyên nhân sâu xa không phải tại Thị Nở mà tại Bá Kiến, người xua
tay đuổi hắn là cả những định kiến của người làng Vũ Đại.
Hắn xách dao đến giết Bá Kiến cũng là lúc hắn tự kết liễu đời mình. Đó là một lựa
chọn duy nhất để quay về. Tuy hắn không được sống như một người lương thiện
nhưng hắn chết để làm người lương thiện. Quả thật, cái giá của thiên lương là cái giá
cắt cổ đối với những kẻ như Chí, có lẽ phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình.
Qua cái chết tức tưởi của Chí, Nam Cao lên án xã hội bất lương, tàn bạo và cảm thông
với những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Những người sống no đủ đã khó,
sống thiên lương còn khó hơn bội phần
Nam Cao, một nhà tâm lí tài ba với ngòi bút tinh tế, ông đã khắc họa tâm trạng của
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở rất xuất sắc. Qua đó giúp độc giả có thêm những bài học
nhận thức sâu sắc về con người.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 3
Tình yêu là ngọn nguồn của mọi hạnh phúc cũng như khổ đau. Tình yêu còn giúp con
người trở nên mạnh mẽ, lạc quan, giúp ta hướng thiện. Truyện ngắn Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao tuy chuyện tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở chỉ là một lát cắt nhỏ
nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là một khởi đầu mới cho Chí, đem Chí trở
về cuộc sống của một con người lương thiện mà lâu nay Chí đánh mất.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, nghèo khổ và bất hạnh. Từ khi lọt lòng đã bị mẹ bỏ
rơi, Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người làng Vũ Đại. Lớn lên
Chí là một thanh niên khỏe mạnh, làm thuê ở nhà Bá Kiến. Vì bà ba dâm đãng hãm
hại, Chí bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân và bị đánh mất nhân hình và nhân tính
của mình, ra tù lại trở thành tay sai cho Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng khi thị Nở xuất hiện, cuộc đời Chí được lật sang một trang mới, đẹp đẽ, hạnh
phúc, mà cũng đầy khổ đau, bất hạnh.
Thị Nở sống cùng bà cô. Thị là một người phụ nữ quá lứa, sinh ra trong mả hủi, tính
dở hơi. Không chỉ vậy thị xấu ma chê quỷ hờn, nên đã nhiều tuổi mà chẳng có được
hạnh phúc cho riêng mình.
Vẫn như mọi lần, Chí uống rượu say, trên đường trở về nhà, Chí thấy trong người khó
chịu nên đã ra sông tắm. Còn thị Nở đi gánh nước, mệt nên nằm ngủ ngay cạnh bờ
sông. Bởi vậy, đã tạo nên cuộc gặp gỡ tiền định này. Cuộc gặp gỡ đã thay đổi con
người, suy nghĩ của Chí Phèo.
Cuộc sống của Chí Phèo đã thực sự thay đổi, sau bao nhiêu ngày chỉ biết đến say sưa,
chỉ biết đến rạch mặt ăn vạ thì sau đêm gặp gỡ với Thị Nở đây là lần đầu tiên Chí tỉnh.
Lần đầu tiên Chí nhận thức thế giới xung quanh, nhận ra sự tồn tại của mình và tương
lai tăm tối của bản thân. Khi Chí Phèo mở mắt ra thì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã
cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe tiếng chim kêu ríu rít bên ngoài đủ biết.
Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi lờ mờ […] chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy
thế bởi chưa bao giờ hết say. Sự thức tỉnh của Chí Phèo bắt nguồn trước hết phải là từ
sự tỉnh rượu, từ tỉnh rượu hắn mới tỉnh ngộ, mới nhận ra nhiều điều. Chí nhận thấy
những âm thanh vui vẻ, ríu rít xung quanh mình là tiếng chim, tiếng của những người
đi chợ. Âm thanh quen thuộc quá, mà bấy lâu nay trong cơn say triền miên Chí không
hề nhận thấy. Hắn nhớ về ngày trước, nhớ về anh nông dân lương thiện, với những mơ
ước thật giản dị về một gia đình ấm cúng và cuộc sống lao động cần mẫn. Nhưng
chính hắn cũng phải tự giật mình về hoàn cảnh hiện tại của bản thân: Tỉnh dậy, hắn
thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già
rồi hay sao […] Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau,
và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Ngòi bút của Nam Cao đã
lách sâu vào tâm hồn của Chí để nhận ra những thay đổi dù là nhỏ bé nhất.
Không chỉ vậy, Chí Phèo còn xúc động sâu sắc trước sự quan tâm, chăm sóc của Thị
Nở dành cho mình. Thấy bát cháo hành Thị Nở đưa cho mình Thằng này rất ngạc
nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Chí Phèo xúc động đến tột
cùng khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ một người khác. Đây cũng là lần đầu
tiên ta thấy người vẫn bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại khóc. Đó là giọt nước mắt
của niềm vui, của hạnh phúc khi được nhận hơi ấm tình người, bởi lần này là lần thứ
nhất hắn được một người đàn bà cho , những thứ xưa nay hắn có được chỉ là do cướp
giật, hắn chưa được ai quan tâm, chăm sóc bao giờ. Chí nhớ về bà ba và nỗi nhục khi
phải bóp chân cho bà ba. Chính bởi vậy, bát cháo hành của Thị Nở làm hắn phải bâng
khuâng, phải suy nghĩ nhiều. Ta có thể thấy rằng, phần nhân tính bị chìm khuất bao
lâu nay của Chí nay đã dần dần xuất hiện trở lại do nhận được tình yêu thương của Thị
Nở. Với việc phân tích diễn biến tâm lí hết sức sâu sắc và hợp lí, Nam Cao đã ngầm
khẳng định bản chất lương thiện của người nông chỉ bị vùi lấp bởi những độc ác, xấu
xa của cuộc sống, nó sẽ ngay lập tức được khơi dậy khi có điều kiện phù hợp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở còn khơi dậy niềm hi vọng trong Chí Phèo. Niềm hi vọng
được làm người lương thiện : Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người
biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người
khác lại không thể được…. . Khát vọng làm người lương thiện của Chí thật chính
đáng, hợp lí khi mà nhân tính của Chí đã quay trở lại. Bởi vậy, Chí đã đề nghị với Thị
Nở sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Năm ngày đó Chí sống trong sung sướng, hạnh
phúc, đến ngày thứ sáu Thị Nở về xin phép bà cô và đó cũng là lúc khởi phát bi kịch.
Sau những lời bà cô dè bỉu và nhất quyết không cho lấy Chí, Thị Nở sang nhà Chí
Phèo nói hết những lời bà cô nói và quay về nhà, trước sự tuyệt vọng tột cùng của Chí.
Chí Phèo lấy rượu uống, càng uống lại càng tỉnh, càng đau đớn, hắn ôm mặt khóc
rưng rức. Đỉnh điểm của sự phẫn uất và tuyệt vọng Chí vác dao với ý định giết cả nhà
Thị Nở, nhưng lại quen chân sang nhà Bá Kiến. Chí Phèo giết chết Bá Kiến và tự kết
liễu mình. Chí Phèo rơi vào bi kịch đau đớn, muốn làm người lương thiện nhưng bị cự
tuyệt. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép với xã hội thực nửa phong kiến đương thời.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa quan trọng với nhân vật Chí Phèo. Về nội dung,
Thị Nở xuất hiện góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm và làm nổi bật chủ đề tác
phẩm: Thị Nở đã giúp Chí Phèo hồi sinh, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của Nam
Cao; nhưng chính Thị cũng đẩy Chí vào bi kịch, qua đó tố cáo xã hội thực dân nửa
phong kiến. Về nghệ thuật, Thị Nở giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển, đồng thời tình
huống gặp gỡ này cũng giúp bộc lộ phẩm chất, tính cách, tâm hồn của nhân vật trung tâm.
Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Nam Cao đã cho thấy sự
biến đổi trong nhận thức của Chí Phèo, đó là sự phục sinh của nhân tính. Nhưng đồng
thời cũng cho thấy bi kịch đau đớn của Chí khi bị cự tuyệt làm người, cự tuyệt về cuộc sống lương thiện.
Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở - Mẫu 4
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có
rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi,
họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình
yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông
dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở
đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu
sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội.
Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí
Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo
cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng.
Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến
Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí
từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con qủy dữ khi trở về làng.
Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh
gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị
nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận
thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời
mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và
trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng
nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh
lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà
văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma
chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông
chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau.
Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ
đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”.
“Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý
của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết
mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo
hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại
trong xã hội này còn nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt
được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi
chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc
đời Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.
Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người
thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng
mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm
thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những
người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm
nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn
thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã
già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta
mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn,
chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận
ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió
cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy
trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét
và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn
ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá
nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố
trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc
cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và
mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều.
Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm
Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của
mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa.
Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí
muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với
mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết
rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc
này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có
tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có
duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh
nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi
tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn
lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng
Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để
cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người
khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai Thị, cũng chẳng
xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước
mơ ngày nào còn dang dở của mình.
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi
Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao
kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng
lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để
đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương
thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến
quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để
không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là
tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt
với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và
kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng
tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến
bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không
có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say,
nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh
khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính
là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong
người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình
yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn.
Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim.
Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực
tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một
tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh
phúc, những thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau
khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị Thị chối
từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí
Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới
người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những
dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi
người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.