Văn mẫu lớp 11: Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Đề tài người nông dân trước cách mạng.
- Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt.
2. Thân bài:
a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông
dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và
cụ Tứ.
- Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt
như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc
kéo xe.
- Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi
cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.
- Cụ Tứ, một người đàn tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy
được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, vẫn phải lao động miệt
mài, với một tương lai u ám một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua
cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
b. Xóm ngụ cư:
- Bi kịch nạn đói kinh hoàng ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu
nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi mùi gây của xác
người”.
- Khung cảnh thê lương, tối tăm lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như
bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi
khủng khiếp”
=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi cái chết hiện diện, bao trùm khắp
không gian thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt
tuyệt vọng.
c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:
- “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách độc một lùm rau chuối
thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.
- Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng
ngắt, nghẹn nơi cổ họng của Tràng chính mùi vị khốn khổ của những năm tháng
kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành
giật lại sự sống.
- Trong đêm tân hôn của Tràng thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc
ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện
thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.
3. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề
Dàn ý số 2
I. Mbài
Gii thiu chung vtruyn ngn "Vnht" và giá trnhân đo sâu sc ca tác phm.
II. Thân bài
1. Nn đói khng khiếp năm 1945
* Trong truyn đã din tả với tt cnim xót thương thông cm ca tác giả về cảnh bi
thm ca qun chúng lao đng trong nn đói khng khiếp năm 1945.
a. Cái đói bao trùm khp nơi và tràn đến cái xóm nghèo ca dân ngcư.
Nhng gia đình tNam Đnh, Thái Bình lũ lưt đi chiếu, dt díu bng bế
nhau lên, xám li như nhng bóng ma.
Bui sáng nào cũng có vài ngưi chết còng queo bên đưng, tomùi gây gây
của xác chết.
Toàn bcâu truyn ca Tràng din ra trên cái cnh đói khvà tang tóc y.
Cảnh xóm ngcư vào bui chiu Tràng đưa ngưi vtheo v; tiếng hkhóc
trong đêm, mùi đt đng rm.
b. Tình cnh ca gia đình Tràng
Tràng: nghèo, không ly ni vợ.
Vợ Tràng: Vì đói mà phi theo không vlàm v, không có cưi cheo gì.
Tình cm xót xa ca ba cơm đón nàng dâu mi (ni cháo loãng và bát cám).
2. Scưu mang, nim hi vng ca ngưi lao đng nghèo kh
Truyn đã làm sáng lên trên cái nn đen ti m đm y sc sng, khát vng : mái m
gia đình và snương ta, che chcho nhau ca nhng ngưi lao đng nghèo kh,
sáng lên nim tin hy vng ca họ.
a. Tình hung Tràng có v, “nht” đưc vvà ý nghĩa
Thái độ của Tràng tlúc chcoi là chuyn tm phào đến lúc xem đó là truyện
nghiêm chnh ca đi mình
Dẫn và phân lích nhng li nói, hàng đng ca Tràng khi mi gp ngưi đàn
bà và trong cnh đưa chta vnhà.
b. Ánh sáng ca hơi m hnh phúc gia đình gia lúc nn đói hoành hành
Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mnh vưn trong bui sáng hôm sau.
Sự biến đi trong tâm trng ca Tràng, ca ngưi vnht.
Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, ni xót xa, thương cm và nim hy vng cùa
ngưi mẹ.
Nim hi vng ca họ về sự đổi thay sphn hưng vcuc cách mng.
3. Kết bài:
Khng đnh li vn đ
Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân một nhà văn nhiều đóng góp
tích cực về thể loại truyện ngắn đề tài nông dân. Mặc trong hai giai đoạn sáng
tác ông viết không nhiều tuy nhiên khi nhắc đến ông người đọc không thể không nhớ
đến các truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ nhặt….
Trong đó thể nói “Vợ nhặt” truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ
nhặt người đàn về làm vợ trong hoàn cảnh XH đang diễn ra nạn đói khủng khiếp
Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó giá trị nhân phẩm của con
người những phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn
cảnh XH tối tăm.
Tràng một thanh niên thân phận địa vị XH thấp kém. Anh một ngoại nh
xâu, quê kệch với đôi mắt nhỏ hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống
với bà mẹ già trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh cũng không có một
nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày anh gò lưng kéo xe bò chở thóc mướn để
kiếm miếng ăn nuôi thân nuôi mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân
lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN trước kia.
Với thân phận địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong
cảnh cô đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ không một người
đàn nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế
nhưng trong diễn biến câu chuyện Tràng lại vợ hay nói đúng hơn tình cờ nhặt
được vợ không phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.
Tràng gặp người đàn ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe vào dốc
tỉnh thấy mấy chị con i đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đỡ
mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh ni”. Tràng không
có chủ tâm chọc ghẹo cô nào nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này,
nhà tôi ơi nói thật hay nói khoác đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe
bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà
xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu Tràng không nhận
ra chị là ai khi người đàn bà gợi nhắc Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ Tràng phải mời
chị ăn trầu nhưng chị không chịu ăn trầu mà lại đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều:
“Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà chẳng
nói năng gì. Chị ăn xong Tràng ổm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như nói chơi: “Này
nói đùa chớ về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng không ngờ
người đàn bà đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.
Tràng vợ việc khác thường ngoài sức tưởng tượng của mọi người từ người dân
xóm ngụ đến cụ Tứ cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nửa
sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình
Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngã rạ. Không buổi
sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi mùi gây của xác
người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai. Trong hoàn cảnh nạn đói nạn chết đói đang
hoành hành, một thanh niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn
nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm
đó là vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu
có ý nghĩa phê phán xã hội gây gắt.
“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực thống trị,
tác phẩm còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện
khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh hội tối
tăm.
Trước hết đó khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc
lướt qua truyện chúng ta thấy việc Tràng người đàn về chung sống với nhau
diễn ra hình như là hết sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ
ấy không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi thì chắc hẳn họ đã không nên vợ
nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái
ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ
những tình cảm mới lạ. Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường,
anh tủm tỉm cười nụ một mình hai mắt thì sáng lên lấp lánh. lúc Tràng quên đi
cuộc sống tối tăm ê chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy một
cái gì mới mẻ lạ lắm nó ôm ấp mênh mang khắp da thịt. Còn người đàn bà mặc dù chị
vẻ khó chịu trước ánh mắt mò những lời trêu chọc trong xóm ngụ nhưng
vẫn không giấu được vẻ e thẹn.
Đặc biệt sau đêm chung sống với nhau. Tràng người đàn như được lột xác
biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn thì trông hiền hậu đúng mực còn
Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng phấn chấn tràng ngập trong lòng. Hơn nữa
anh còn ý thức được rằng mình một người chồng, người chủ gia đình phải trách
nhiệm gánh vác.
ràng đằng sau vẻ tình cngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt được vợ thì
chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thúc đẩy Tràng và người đàn bà đến với nhau và
nên vợ nên chồng bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè nặng lên xã hội.Đáng lưu ý
hơn nữa sống trong cảnh tối tăm thê thảm nhưng người lao động vẫn thể hiện một
tấm lòng nhân hậu vị tha cao cả. Điều đó thể hiện tập trung qua thái độ suy nghĩ của
cụ Tứ đối với người đàn xa lạ Tràng nhặt về nhà làm vợ. Theo lẽ thường
trong hoàn cảnh nạn đói đang đe doạ từng ngày, từng giờ, cụ Tứ đdo ngăn
cấm xua đuổi người đàn kia. Bởi nếu đồng ý cho người đàn về chung
sống với con mình thì điều đó cũng nghĩa là rước về nhà thêm một miệng ăn, trước
cái đói về nhà. Thế nhưng cụ Tứ lại không làm như vậy. Trái lại, cụ còn cảm
thông, tủi hổ cho chị và vui vẻ chấp nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó
khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình con mình mới được vợ”.
Không xua đuổi hắt hủi một con người cùng đường khốn khổ còn xem như là một
ân nhân, tấm lòng nhân hậu vị tha của bà cụ Tứ thật là cao cả hiếm thấy.Cùng với khát
vọng hạnh phúc khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm, giành lấy
sự sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính đáng
ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe cụ Tứ nói
đến chuyện đóng thuế. Đặc biệt hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc cờ đỏ
bay phấp phới hiện ra trong suy nghĩ của Tràng.Truyện thành công với tình huống
truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm nhân vật tinh tế cách dùng ngôn
ngữ lời ăn tiếng nói của người dân lao động. “Vợ nhặt” được xem một thành công
lớn của nhà văn Kim Lân.
“Vợ nhặt” truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân lấy đề tài về nạn đói 1945 nhưng
truyện được sáng tác sau CM tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng thời gian cần
thiết để suy ngẫm nhìn nhận vấn đề và dụng công nghệ thuật. Nhờ đó Kim Lân đã nêu
lên được những vấn đề XH, con người một cách sâu sắc dựa trên tình huống truyện
độc đáo kết hợp với nghệ thuật kể chuyện linh hoạt và ngòi bút miêu tả tinh tế.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt
Bài làm mẫu 1
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đưa người đọc tới với những số phận của con
người bên vực thẳm của nạn đói lịch sử nước ta năm 1945, nạn đói này đã làm chết
hai triệu người dân, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân.
Nhưng trong tác phẩm của mình Kim Lân đã viết một câu nói cùng sâu sắc rằng
“Những người đói họ không đến cái chết nghĩ đến cái sống”. Vợ nhặt Văn Đây
câu nói đầy tính nhân văn, nhân đạo của tác giả dành cho đứa con tinh thần của mình.
Chính câu nói của tác giả Kim Lân giúp chúng ta phải đi sâu tìm hiểu kỹ hơn về giá trị
hiện thực sâu sắc nhân văn của tác phẩm Vợ nhặt để giải đáp cho những thắc mắc của
chúng về số phận những người nông dân khốn khổ trong thời kỳ phong kiến nửa thực
dân như thế nào.
Nhà văn Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, ông người vô cùng hiểu bản chất,
cũng như thói quen của người nông dân. Ông cũng là người đã trải qua nạn đói khủng
khiếp này nên chỉ nhà văn thấu cảm nỗi khốn khổ của người dân. Nói một cách
khác Kim Lân chính nhân chứng sống của lịch sử về một giai đoạn khó khăn bần
hàn của dân tộc.
Thông qua tác phẩm Vợ nhặt của mình ông cũng muốn tố cáo tội ác của giặc chế
độ phong kiến. Chính chế độ hội tàn ác, chà đạp lên số phận những người dân lao
động khốn khổ, bóc lột, vét tới tận cùng khiến cho người dân không còn đường
sống, khi con giun xéo mãi cũng quằn, họ buộc phải đứng lên, vùng dậy đòi quyền
sống, quyền tự do, hạnh phúc cho mình.
Trong tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân đã đặt câu chuyện trong một bức tranh
khái quát, thể hiện được đầy đủ được bối cảnh hội lúc đó. Kim Lân đã đặt những
nhân vật của mình vào nạn đói khủng khiếp với những người nghèo khổ bồng bế dắt
díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”.
Những bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma, người chết
như ngả rạ, sáng nào người đi làm đồng cũng nhìn thấy vài cái xác mới, thấy nằm
còng queo bên đường, trong bầu không khí vẩn lên mùi xác người đang bốc mùi hôi
thối.
Nạn đói nghèo khổ đã đã tràn đến xóm ngụ cư, nạn đói bủa vây xung quanh mọi gia
đình số phận nông dân nghèo khổ. Nhân vật Tràng của chúng ta cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Anh sống cảnh mẹ góa con côi, nghèo khổ, lầm lũi, côi cút.
Bức tranh bối cảnh hội lúc đó người nông dân, đang bên bờ vực thẳm của sự
sống cái chết của nạn đói. Người chết nhiều hơn cả người sống, những người sống
thì đi lại vật vờ như những thây ma. Cuộc sống lay lắt như ngọn đèn trước gió sống
hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao.
Trong xóm ngụ cư toàn những người dân tứ xứ về ở chung những khuôn mặt hốc hác,
gầy gò như bóng ma, cuộc sống đói khát, không nhà nào có đèn, có chút ánh sáng nào
cả, chỉ một bóng tối, ngồi trong đường, bất động như thây ma không nhúc
nhích.
Trong gia đình Tràng sống cảnh mẹ góa con côi, Tràng làm nghề kéo xe, mẹ anh bà cụ
Tứ đã già, không còn nhiều sức lao động chỉ thể làm việc nhà, không kiếm ra tiền.
Tràng cũng không giàu con nhà danh gia vọng tộc, ngoại hình bên ngoài thì thô
kệch, hai quai hàm bạnh ra, Bình thường một người như anh cu Tràng sẽ khó lấy
được vợ nhưng trong bối cảnh nghèo khổ người chết như ngả rạ đó.
Anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt được món đồ từ ngoài đường mang
về. Một tình huống truyện cùng độc đáo thể hiện sự tinh tế, phản ánh giá trị hiện
thực sâu sắc của tác giả, khi mạng người chẳng khác nào một món đồ, một đồ vật i
vãi ngoài đường. quá rẻ rúm. Bởi cuộc sống nghèo khổ quá khiến cho người con
gái, vợ anh cu Tràng cần một gia đình, cần một nơi nương tựa, một vòng tay ấm áp
bên cạnh mình.
Thị dễ dàng nhận lời anh Tràng về làm vợ không cưới xin, không đăng
kết hôn hay hai họ chứng kiến chúc phúc. Trong bối cảnh nghèo khổ ấy việc cưới vợ,
gả chồng cũng khiến con người ta làm qua loa đại khái. Nhưng những số phận của
hàng xóm những người xung quanh gia nhân vật chính của chúng ta cũng không khác
gì. Những ngôi nhà rúm ró, nằm co ro trong bóng tối, cuộc sống của họ đều lay lắt
như ngọn đèn trước gió, bị bóng tối nạn đói vây quanh. Sau đêm tân hôn, bữa ăn đầu
tiên khiến người đọc xúc động, hình ảnh nồi cháo cám đã tái hiện hiện thực sâu sắc về
nạn đói và số phận của những người nông dân nghèo khó.
Trong bữa cơm người ta nói tới những người dân phá kho thóc Nhật của Việt Minh,
họ ước tới cuộc sống mới, ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính nạn đói
những số phận người nông dân bi thảm những nhân chứng sống làm nên tính
hiện thực sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
Bài làm mẫu 2
Kim Lân một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại người trong
cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt - một bức
tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:
Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói bồng bế,
dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma sau đó '"người chết
như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", không khí vẩn lên mùi gây của xác
người", rồi "mùi đốt đống rấm những nhà người chết theo gió thoảng vào khét
lẹt" "tiếng hờ khóc tỉ trong đêm khuya" Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào
gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: xóm ngụ
''những khuôn mặt hốc hác u tối" trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào
ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng "ngồi dưới những đất ; không buồn nhúc
nhích". Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy
xe thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp
hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"... Số phận của họ
khác "cái nhà vắng teo đứng rúm trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ
dại" và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"...
một hiện thực tuy chưa nét nhưng đã hiện ra cuối truyện trong ý nghĩ của
Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá
cờ đỏ to lắm". Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây hiện
thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.
Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói cờ cách mạng
những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng
những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như chứng tích
văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên.
Bài làm mẫu 3
Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều
những tác phẩm những cây bút xuất sắc, nhưng mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại
thấy một khía cạnh riêng, mang tính nhân của người viết. như Nguyễn Công
Hoan giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẫu
truyện ngắn cười ra nước mắt như Tinh thần thể dục hay Kép bền. Hay Ngô Tất
Tố nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế trong Tắt
đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy
bi kịch của Chí Phèo.
rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại một
trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm
Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn
cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt
đẹp của con người. Lấy tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ tính
phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ
mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ
nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ
nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.
Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch
sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người
nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và
cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy Tràng, một chàng trai còn trẻ, tư,
nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u
ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm
tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi
đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói
hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa miếng ăn, rồi cuối cùng 4 bát bánh đúc
đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp
nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu
đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu,
đáng ra nên nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng vẫn đăm đăm nỗi lo không
lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, vẫn phải lao động
miệt mài, với một tương lai u ám một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được
qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
Đó nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng còn khủng khiếp hơn khi
người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước
đến nghĩa địa. thể nói rằng chưa từng một nhà văn nào lại thể vẽ ra một bi
kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu
nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi mùi gây của xác
người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi
lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng
hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. thể nói rằng nạn đói
đã biến một ngôi làng thành nơi cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian
thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt tuyệt vọng.
Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người đây dường
như đã nhìn thấy cái chết của mình, đang chậm rãi chờ tới “khó ai thể tin
mình sống nổi” trong đó cả 3 con người đang cầm cự Tràng, thị cụ Tứ. Bởi
dẫu Chí Phèo đã dưới đáy của hội, nhưng vẫn lúc tin vào hạnh phúc với
Thị Nở, còn mẹ con Tràng những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào
việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ ấy dường như đã
bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống cái chết chỉ một bức màn mỏng,
mong manh cùng, động một cái thôi đã vài người ngã xuống, thảm hại bi
thương.
Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói
trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối
ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, không phải nạn đói, lẽ chẳng ai nuốt nổi
bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng
gây ấn tượng giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn hình ảnh nồi cháo
cám cụ Tứ bảo món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn nơi
cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con
người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống.
còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không cả cám để ăn rồi chờ thần chết
đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng thị Kim
Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ lúc to lúc nhỏ”, u ám
thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn
đói.
Vợ nhặt của Kim Lân một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy đó
một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh nhỏ, tàn tbước từng bước lần về
nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm
trên xóm nhỏ. Đồng thời ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp phát xít
Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.
Bài làm mẫu 4
Ban-giắc nói: “Nghệ thuật phải là tấm gương xê dịch trên con đường lớn”. Câu nói đề
cập tới giá trị hiện thực, một trong những chức năng quan trọng của văn học (phản ánh
và cải tạo xã hội). “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những tác phẩm điển hình cho
chủ nghĩa hiện thực trong văn học.
Trước hết, trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống thê
thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Khi đó, giá trị con người trở nên rẻ
mạt. Anh phu Tràng chỉ mất một câu tầm phơ tầm phào cộng thêm bốn bát bánh
đúc thế mà có vợ theo không. Còn cô vợ nhặt chỉ vì cái đó mà liều nhắm mắt đưa chân
đi theo một người đàn ông xa lạ. Cái đám cưới kỳ lạ ấy diễn ra trong nền của một đám
đại tang. Mặt khác, Kim Lân đã thể hiện được không khí cùng thê lương, ảm đạm
của hội lúc bấy giờ. Nạn đói năm 1945 không chỉ dấu mốc lịch sử còn
dấu ấn tinh thần khủng khiếp trong người dân lúc bấy giờ. Không gian sống trở thành
một bãi tha ma lớn với những “người chết đói như ngả rạ”, “ba bốn cái thây ma nằm
còng queo bên đường”… Tất cả những hiện hữu trong cuộc sống bây giờ chỉ sự
hiện hữu của cái chết. Cái chết hiện hình thành mùi vị (“mùi ẩm hôi”, “mùi gây của
xác người”). Cái chết hiện thành hình ảnh (“bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như
những bóng ma”). Cái chết hiện thành màu sắc (“màu đen của quạ đàn”, “màu xám
của những khuôn mặt sắp chết đói”). Cái chết còn hiện hữu trong âm thanh (“tiếng
khóc hờ của những gia đình người chết đói”). Sự sống đang đuối dần trong khi cái
chết ngày một chiếm lĩnh, bủa vây lấy không gian sống. Cái đói giống như nạn dịch
bệnh khủng khiếp lây lan ra khắp mọi nơi. Cái chết như đã được báo trước con
người khó thể tránh khỏi. Thậm chí, con người sẽ không thể thoát khỏi cái chết.
Cái đói còn như đang rượt đuổi con người. Trong hình ảnh “bồng bế, dắt díu” rồi dẫn
đến “nằm ngổn ngang”, 2 cụm động từ này đã thể hiện hình ảnh con người chạy trốn
khỏi cái đói ngay sau lưng thì lại bị một cái đói chờ ngay trước mắt, bị đeo bám
xung quanh. Cái chết lấn át sự sống. Lằn ranh giữa sự sống và cái chết quá mong
manh. Tóm lại qua ngòi bút của Kim Lân không gian sống của con người chỉ là những
bãi tha ma túy xong cái đói đấy đi tới đâu thì cái chết đi từ đấy sự sống con người chỉ
tạm thời cho nên bằng mọi giá con người phải bám lấy sự sống Tóm lại qua bức
tranh hiện thực nhà văn đã gợi lại quá khứ vô cùng đau thương của dân tộc dân tộc thị
phát xít Nhật và thực dân Pháp nhổ lúa trồng đay một cổ Đôi chồng.
Thứ hai, qua tác phẩm, Kim Lân còn cho thấy tấm ng của người dân hướng về cách
mạng. Tiếng thúc thuế dồn dập những lời trao đổi của vợ chồng Tràng hướng về
Việt Minh “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói cờ đỏ bay phấp phới…”,
đã phản ánh được một hiện thực: người những người dân lao động nghèo khổ khao
khát cách mạng đến nhường nào. Bởi lẽ, chỉ cách mạng mới giúp họ thoát khỏi cái
đói, cái chết. Giá trị hiện thực của tác phẩm nằm chỗ không chỉ diễn tả được những
đã đang diễn ra còn thể hiện được những sẽ diễn ra. Truyện ngắn đã
phản ánh được hiện thực cách mạng mang tính xu thế. Tác phẩm như dự báo trước
cuộc cách mạng tháng Tám “long trời lở đất” sẽ nổ ra là tất yếu. Qua việc phản ánh đó,
Kim Lân đã xui người nông dân làm cách mạng, mở ra trong họ tương lai tươi sáng.
m lại, giá trị hiện thực sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân đã đưa truyện ngắn
này trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất. Đó cũng
chính do làm nên sức sống bất diệt của truyện ngắn tên tuổi Kim Lân trong
lĩnh vực văn học nghệ thuật Việt Nam.
| 1/14

Preview text:


Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt Dàn ý số 1 1. Mở bài
- Đề tài người nông dân trước cách mạng.
- Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt. 2. Thân bài:
a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông
dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ.
- Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt
như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe.
- Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi
cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.
- Cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy
được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt
mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua
cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn. b. Xóm ngụ cư:
- Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu
nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như
bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp
không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.
c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:
- “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối
thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.
- Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng
ngắt, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng
kinh hoàng ấy, con người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống.
- Trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc
ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện
thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói. 3. Kết bài: Khái quát lại vấn đề Dàn ý số 2 I. Mở bài
Giới thiệu chung về truyện ngắn "Vợ nhặt" và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. II. Thân bài
1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
* Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi
thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
a. Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.
• Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế
nhau lên, xám lại như những bóng ma.
• Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, toả mùi gây gây của xác chết.
• Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy.
Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc
trong đêm, mùi đốt đống rấm.
b. Tình cảnh của gia đình Tràng
• Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.
• Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.
• Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm
gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ,
sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
a. Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
• Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là truyện
nghiêm chỉnh của đời mình
• Dẫn và phân lích những lời nói, hàng động của Tràng khi mới gặp người đàn
bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà.
b. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành
• Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
• Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.
• Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng cùa người mẹ.
• Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng. 3. Kết bài:
Khẳng định lại vấn đề
Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng góp
tích cực về thể loại truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai đoạn sáng
tác ông viết không nhiều tuy nhiên khi nhắc đến ông người đọc không thể không nhớ
đến các truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ nhặt….
Trong đó có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ
nhặt người đàn bà về làm vợ trong hoàn cảnh XH đang diễn ra nạn đói khủng khiếp
Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá trị nhân phẩm của con
người và những phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn cảnh XH tối tăm.
Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị XH thấp kém. Anh có một ngoại hình
xâu, quê kệch với đôi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống
với bà mẹ già trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh cũng không có một
nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày anh gò lưng kéo xe bò chở thóc mướn để
kiếm miếng ăn nuôi thân và nuôi bà mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân
lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN trước kia.
Với thân phận và địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong
cảnh cô đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ không một người
đàn bà nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế
nhưng trong diễn biến câu chuyện Tràng lại có vợ hay nói đúng hơn là tình cờ nhặt
được vợ không phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.
Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe bò vào dốc
tỉnh thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đỡ
mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh ni”. Tràng không
có chủ tâm chọc ghẹo cô nào nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này,
nhà tôi ơi nói thật hay nói khoác đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe
bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà
xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu Tràng không nhận
ra chị là ai khi người đàn bà gợi nhắc Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ Tràng phải mời
chị ăn trầu nhưng chị không chịu ăn trầu mà lại đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều:
“Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà chẳng
nói năng gì. Chị ăn xong Tràng ổm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như nói chơi: “Này
nói đùa chớ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng không ngờ
người đàn bà đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.
Tràng có vợ là việc khác thường ngoài sức tưởng tượng của mọi người từ người dân
xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nửa vì
sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình ở
Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngã rạ. Không buổi
sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai. Trong hoàn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang
hoành hành, một thanh niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn
nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm
đó là vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu
có ý nghĩa phê phán xã hội gây gắt.
“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực thống trị,
tác phẩm còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện và
khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh xã hội tối tăm.
Trước hết đó là khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc
lướt qua truyện chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung sống với nhau
diễn ra hình như là hết sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ
ấy không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi thì chắc hẳn họ đã không nên vợ
nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái
ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ
những tình cảm mới lạ. Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường,
anh tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc Tràng quên đi
cuộc sống tối tăm ê chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy một
cái gì mới mẻ lạ lắm nó ôm ấp mênh mang khắp da thịt. Còn người đàn bà mặc dù chị
có vẻ khó chịu trước ánh mắt tò mò và những lời trêu chọc trong xóm ngụ cư nhưng
vẫn không giấu được vẻ e thẹn.
Đặc biệt là sau đêm chung sống với nhau. Tràng và người đàn bà như được lột xác
biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn bà thì trông hiền hậu đúng mực còn
Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng phấn chấn tràng ngập trong lòng. Hơn nữa
anh còn ý thức được rằng mình là một người chồng, người chủ gia đình phải có trách nhiệm gánh vác.
Rõ ràng là đằng sau vẻ tình cờ ngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt được vợ thì
chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thúc đẩy Tràng và người đàn bà đến với nhau và
nên vợ nên chồng bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè nặng lên xã hội.Đáng lưu ý
hơn nữa dù sống trong cảnh tối tăm thê thảm nhưng người lao động vẫn thể hiện một
tấm lòng nhân hậu vị tha cao cả. Điều đó thể hiện tập trung qua thái độ suy nghĩ của
bà cụ Tứ đối với người đàn bà xa lạ mà Tràng nhặt về nhà làm vợ. Theo lẽ thường
trong hoàn cảnh nạn đói đang đe doạ từng ngày, từng giờ, bà cụ Tứ có đủ lí do ngăn
cấm và xua đuổi người đàn bà kia. Bởi vì nếu bà đồng ý cho người đàn bà về chung
sống với con mình thì điều đó cũng có nghĩa là rước về nhà thêm một miệng ăn, trước
cái đói về nhà. Thế nhưng bà cụ Tứ lại không làm như vậy. Trái lại, bà cụ còn cảm
thông, tủi hổ cho chị và vui vẻ chấp nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó
khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”.
Không xua đuổi hắt hủi một con người cùng đường khốn khổ mà còn xem như là một
ân nhân, tấm lòng nhân hậu vị tha của bà cụ Tứ thật là cao cả hiếm thấy.Cùng với khát
vọng hạnh phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm, giành lấy
sự sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính đáng
ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe bà cụ Tứ nói
đến chuyện đóng thuế. Đặc biệt là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ
bay phấp phới hiện ra trong suy nghĩ của Tràng.Truyện thành công với tình huống
truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và cách dùng ngôn
ngữ lời ăn tiếng nói của người dân lao động. “Vợ nhặt” được xem là một thành công
lớn của nhà văn Kim Lân.
“Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân lấy đề tài về nạn đói 1945 nhưng
truyện được sáng tác sau CM tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng thời gian cần
thiết để suy ngẫm nhìn nhận vấn đề và dụng công nghệ thuật. Nhờ đó Kim Lân đã nêu
lên được những vấn đề XH, con người một cách sâu sắc dựa trên tình huống truyện
độc đáo kết hợp với nghệ thuật kể chuyện linh hoạt và ngòi bút miêu tả tinh tế.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt Bài làm mẫu 1
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đưa người đọc tới với những số phận của con
người bên vực thẳm của nạn đói lịch sử nước ta năm 1945, nạn đói này đã làm chết
hai triệu người dân, trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân.
Nhưng trong tác phẩm của mình Kim Lân đã viết một câu nói vô cùng sâu sắc rằng
“Những người đói họ không đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Vợ nhặt Văn Đây là
câu nói đầy tính nhân văn, nhân đạo của tác giả dành cho đứa con tinh thần của mình.
Chính câu nói của tác giả Kim Lân giúp chúng ta phải đi sâu tìm hiểu kỹ hơn về giá trị
hiện thực sâu sắc nhân văn của tác phẩm Vợ nhặt để giải đáp cho những thắc mắc của
chúng về số phận những người nông dân khốn khổ trong thời kỳ phong kiến nửa thực dân như thế nào.
Nhà văn Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, ông là người vô cùng hiểu bản chất,
cũng như thói quen của người nông dân. Ông cũng là người đã trải qua nạn đói khủng
khiếp này nên chỉ có nhà văn là thấu cảm nỗi khốn khổ của người dân. Nói một cách
khác Kim Lân chính là nhân chứng sống của lịch sử về một giai đoạn khó khăn bần hàn của dân tộc.
Thông qua tác phẩm Vợ nhặt của mình ông cũng muốn tố cáo tội ác của giặc và chế
độ phong kiến. Chính chế độ xã hội tàn ác, chà đạp lên số phận những người dân lao
động khốn khổ, bóc lột, vơ vét tới tận cùng khiến cho người dân không còn đường
sống, khi con giun xéo mãi cũng quằn, họ buộc phải đứng lên, vùng dậy đòi quyền
sống, quyền tự do, hạnh phúc cho mình.
Trong tác phẩm của mình nhà văn Kim Lân đã đặt câu chuyện trong một bức tranh
khái quát, thể hiện được đầy đủ được bối cảnh xã hội lúc đó. Kim Lân đã đặt những
nhân vật của mình vào nạn đói khủng khiếp với những người nghèo khổ bồng bế dắt
díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”.
Những bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma, người chết
như ngả rạ, sáng nào người đi làm đồng cũng nhìn thấy vài cái xác mới, thấy nằm
còng queo bên đường, trong bầu không khí vẩn lên mùi xác người đang bốc mùi hôi thối.
Nạn đói nghèo khổ đã đã tràn đến xóm ngụ cư, nạn đói bủa vây xung quanh mọi gia
đình số phận nông dân nghèo khổ. Nhân vật Tràng của chúng ta cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Anh sống cảnh mẹ góa con côi, nghèo khổ, lầm lũi, côi cút.
Bức tranh bối cảnh xã hội lúc đó người nông dân, đang ở bên bờ vực thẳm của sự
sống và cái chết của nạn đói. Người chết nhiều hơn cả người sống, những người sống
thì đi lại vật vờ như những thây ma. Cuộc sống lay lắt như ngọn đèn trước gió sống
hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao.
Trong xóm ngụ cư toàn những người dân tứ xứ về ở chung những khuôn mặt hốc hác,
gầy gò như bóng ma, cuộc sống đói khát, không nhà nào có đèn, có chút ánh sáng nào
cả, chỉ có một bóng tối, ngồi ủ rũ trong xó đường, bất động như thây ma không nhúc nhích.
Trong gia đình Tràng sống cảnh mẹ góa con côi, Tràng làm nghề kéo xe, mẹ anh bà cụ
Tứ đã già, không còn nhiều sức lao động chỉ có thể làm việc nhà, không kiếm ra tiền.
Tràng cũng không giàu có con nhà danh gia vọng tộc, ngoại hình bên ngoài thì thô
kệch, hai quai hàm bạnh ra, Bình thường một người như anh cu Tràng sẽ khó mà lấy
được vợ nhưng trong bối cảnh nghèo khổ người chết như ngả rạ đó.
Anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt được món đồ từ ngoài đường mang
về. Một tình huống truyện vô cùng độc đáo thể hiện sự tinh tế, phản ánh giá trị hiện
thực sâu sắc của tác giả, khi mạng người chẳng khác nào một món đồ, một đồ vật rơi
vãi ngoài đường. Nó quá rẻ rúm. Bởi cuộc sống nghèo khổ quá khiến cho người con
gái, vợ anh cu Tràng cần một gia đình, cần một nơi nương tựa, một vòng tay ấm áp ở bên cạnh mình.
Thị dễ dàng nhận lời anh Tràng về làm vợ dù không có cưới xin, không có đăng ký
kết hôn hay hai họ chứng kiến chúc phúc. Trong bối cảnh nghèo khổ ấy việc cưới vợ,
gả chồng cũng khiến con người ta làm qua loa đại khái. Nhưng những số phận của
hàng xóm những người xung quanh gia nhân vật chính của chúng ta cũng không khác
gì. Những ngôi nhà rúm ró, nằm co ro trong bóng tối, cuộc sống của họ đều lay lắt
như ngọn đèn trước gió, bị bóng tối nạn đói vây quanh. Sau đêm tân hôn, bữa ăn đầu
tiên khiến người đọc xúc động, hình ảnh nồi cháo cám đã tái hiện hiện thực sâu sắc về
nạn đói và số phận của những người nông dân nghèo khó.
Trong bữa cơm người ta nói tới những người dân phá kho thóc Nhật của Việt Minh,
họ mơ ước tới cuộc sống mới, mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính nạn đói
và những số phận người nông dân bi thảm là những nhân chứng sống làm nên tính
hiện thực sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Bài làm mẫu 2
Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong
cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt - một bức
tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:
Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói bồng bế,
dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma và sau đó là '"người chết
như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", không khí vẩn lên mùi gây của xác
người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét
lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya" Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào
gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư
là ''những khuôn mặt hốc hác u tối" trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào có
ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng "ngồi ủ rũ dưới những xó đất ; không buồn nhúc
nhích". Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy
xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp
hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"... Số phận của họ có
khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ
dại" và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"...
Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của
Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá
cờ đỏ to lắm". Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện
thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.
Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là
những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng
những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm như chứng tích
văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên. Bài làm mẫu 3
Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng trên văn đàn Việt Nam đã có rất nhiều
những tác phẩm và những cây bút xuất sắc, nhưng ở mỗi một tác giả, tác phẩm ta lại
thấy một khía cạnh riêng, mang tính cá nhân của người viết. Ví như Nguyễn Công
Hoan là giọt nước mắt đau đớn, nỗi khốn khổ của người nông dân dưới những mẫu
truyện ngắn cười ra nước mắt ví như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Hay Ngô Tất
Tố là nỗi đớn đau, xót xa cho những kiếp người cùng cực dưới nạn thuế má trong Tắt
đèn. Hoặc một Nam Cao lạnh lùng, với hiện thực trần trụi đau đớn với kiếp sống đầy bi kịch của Chí Phèo.
Và rồi đến với Kim Lân, một tác giả có số lượng tác phẩm cực ít thế nhưng lại là một
trong 10 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam với hai tác phẩm
Làng và Vợ Nhặt. Thành công của Kim Lân đến từ sự khác biệt trong lối hành văn và
cách tư duy, ông dùng cái hiện thực để làm nổi bật lên những cá tính và phẩm chất tốt
đẹp của con người. Lấy tư tưởng nhân văn nhân đạo phát triển lên, không chỉ có tính
phản ánh mà còn mở ra cho nhân vật của mình một lối thoát mới ấy là Cách mạng, thứ
mà những nhà văn viết về đề tài này trước đó chưa khai mở được. Trong tác phẩm Vợ
nhặt bức tranh hiện thực hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân bằng những câu văn nhẹ
nhàng, nhưng vô cùng ám ảnh và u ám.
Bối cảnh trong Vợ nhặt là một bối cảnh rất đặc biệt, là giai đoạn đau thương trong lịch
sử dân tộc. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người
nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà
cụ Tứ. Người nông dân đầu tiên hiện lên ấy là Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư,
nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u
ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe. Cái đói, cái khổ những năm
tháng ấy khiến một anh con trai vốn sức vóc cũng trở nên tiều tụy, mệt mỏi “Tràng cúi
đầu bước từng bước chậm chạp”, tàn tạ vô cùng. Còn thị, một người đàn bà, bị cái đói
hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà
đánh đổi cả một đời làm vợ người. Thị đã ở bên bờ vực của cái chết, nên thị phải chấp
nhận mang trên mình cái danh người “vợ nhặt”, tựa như cọng rơm, cọng rác vứt đâu
đó ngoài xó chợ. Cuối cùng là bà cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu,
đáng lý ra nên ở nhà bồng cháu, bồng chắt, thế nhưng bà vẫn đăm đăm nỗi lo không
lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động
miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được
qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
Đó là nạn đói qua số phận ba nhân vật chính, nhưng nó còn khủng khiếp hơn khi
người ta nhìn ra ngoài kia, nơi những con người của xóm ngụ cư đang đếm từng bước
đến nghĩa địa. Có thể nói rằng chưa từng có một nhà văn nào lại có thể vẽ ra một bi
kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh đến thế, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu
nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”. Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi
lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng
hồi khủng khiếp”, như tiếng vẫy gọi đầy ám ảnh của tử thần. Có thể nói rằng nạn đói
đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và
thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.
Bức tranh hiện thực của Kim Lân hiện lên tàn khốc đến nỗi con người ở đây dường
như đã nhìn thấy cái chết của mình, và đang chậm rãi chờ nó tới “khó ai có thể tin
mình sống nổi” trong đó có cả 3 con người đang cầm cự là Tràng, thị và cụ Tứ. Bởi
dẫu Chí Phèo dù đã ở dưới đáy của xã hội, nhưng vẫn có lúc tin vào hạnh phúc với
Thị Nở, còn mẹ con Tràng và những con người ngoài kia thậm chí còn chẳng tin vào
việc sống sót chứ đừng nói đến hạnh phúc gia đình. Xóm ngụ cư ấy dường như đã
bước một bàn chân sang nghĩa địa, sự sống và cái chết chỉ là một bức màn mỏng,
mong manh vô cùng, động một cái thôi là đã có vài người ngã xuống, thảm hại và bi thương.
Bi kịch nạn đói còn thể hiện cả trong đời sống của gia đình Tràng, “bữa cơm ngày đói
trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối
ăn với cháo”. Nếu trong cảnh khác, mà không phải nạn đói, có lẽ chẳng ai nuốt nổi
bữa cơm “đạm bạc” ấy, thế nhưng cả nhà Tràng đều ăn rất ngon lành vui vẻ. Nhưng
gây ấn tượng và có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc nhất vẫn là hình ảnh nồi cháo
cám mà bà cụ Tứ bảo là món “chè khoán” mừng tân hôn. Vị đắng ngắt, nghẹn ứ nơi
cổ họng của Tràng chính là mùi vị khốn khổ của những năm tháng kinh hoàng ấy, con
người ta tàn tạ đến mức phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật lại sự sống. Và
còn biết bao nhiêu cảnh đời khốn khổ vật vạ, không có cả cám để ăn rồi chờ thần chết
đến đến mang mình đi. Rồi ám ảnh đến mức trong đêm tân hôn của Tràng và thị Kim
Lân vẫn đặt vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, u ám và
thiểu não càng làm nổi bật lên cái hiện thực khốc liệt của người nông dân trong nạn đói.
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, người ta thấy ở đó
một nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước từng bước lần về
nghĩa địa, thấy được cái không khí tang thương, u uất, tràn ngập mùi tử thi bao trùm
trên xóm nhỏ. Đồng thời có ý nghĩa phản ánh sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít
Nhật những kẻ đã gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào. Bài làm mẫu 4
Ban-giắc nói: “Nghệ thuật phải là tấm gương xê dịch trên con đường lớn”. Câu nói đề
cập tới giá trị hiện thực, một trong những chức năng quan trọng của văn học (phản ánh
và cải tạo xã hội). “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những tác phẩm điển hình cho
chủ nghĩa hiện thực trong văn học.
Trước hết, trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống thê
thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Khi đó, giá trị con người trở nên rẻ
mạt. Anh phu Tràng chỉ mất một câu hò tầm phơ tầm phào cộng thêm bốn bát bánh
đúc thế mà có vợ theo không. Còn cô vợ nhặt chỉ vì cái đó mà liều nhắm mắt đưa chân
đi theo một người đàn ông xa lạ. Cái đám cưới kỳ lạ ấy diễn ra trong nền của một đám
đại tang. Mặt khác, Kim Lân đã thể hiện được không khí vô cùng thê lương, ảm đạm
của xã hội lúc bấy giờ. Nạn đói năm 1945 không chỉ là dấu mốc lịch sử mà nó còn là
dấu ấn tinh thần khủng khiếp trong người dân lúc bấy giờ. Không gian sống trở thành
một bãi tha ma lớn với những “người chết đói như ngả rạ”, “ba bốn cái thây ma nằm
còng queo bên đường”… Tất cả những gì hiện hữu trong cuộc sống bây giờ chỉ là sự
hiện hữu của cái chết. Cái chết hiện hình thành mùi vị (“mùi ẩm hôi”, “mùi gây của
xác người”). Cái chết hiện thành hình ảnh (“bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như
những bóng ma”). Cái chết hiện thành màu sắc (“màu đen của quạ đàn”, “màu xám
của những khuôn mặt sắp chết đói”). Cái chết còn hiện hữu trong âm thanh (“tiếng
khóc hờ của những gia đình có người chết đói”). Sự sống đang đuối dần trong khi cái
chết ngày một chiếm lĩnh, bủa vây lấy không gian sống. Cái đói giống như nạn dịch
bệnh khủng khiếp lây lan ra khắp mọi nơi. Cái chết như đã được báo trước và con
người khó có thể tránh khỏi. Thậm chí, con người sẽ không thể thoát khỏi cái chết.
Cái đói còn như đang rượt đuổi con người. Trong hình ảnh “bồng bế, dắt díu” rồi dẫn
đến “nằm ngổn ngang”, 2 cụm động từ này đã thể hiện hình ảnh con người chạy trốn
khỏi cái đói ngay ở sau lưng thì lại bị một cái đói chờ ngay trước mắt, bị nó đeo bám
xung quanh. Cái chết lấn át sự sống. Lằn ranh giữa sự sống và cái chết quá mong
manh. Tóm lại qua ngòi bút của Kim Lân không gian sống của con người chỉ là những
bãi tha ma túy xong cái đói đấy đi tới đâu thì cái chết đi từ đấy sự sống con người chỉ
là tạm thời cho nên bằng mọi giá con người phải bám lấy sự sống Tóm lại qua bức
tranh hiện thực nhà văn đã gợi lại quá khứ vô cùng đau thương của dân tộc dân tộc thị
phát xít Nhật và thực dân Pháp nhổ lúa trồng đay một cổ Đôi chồng.
Thứ hai, qua tác phẩm, Kim Lân còn cho thấy tấm lòng của người dân hướng về cách
mạng. Tiếng thúc thuế dồn dập và những lời trao đổi của vợ chồng Tràng hướng về
Việt Minh “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, nó
đã phản ánh được một hiện thực: người những người dân lao động nghèo khổ khao
khát cách mạng đến nhường nào. Bởi lẽ, chỉ có cách mạng mới giúp họ thoát khỏi cái
đói, cái chết. Giá trị hiện thực của tác phẩm nằm ở chỗ không chỉ diễn tả được những
gì nó đã và đang diễn ra mà còn thể hiện được những gì sẽ diễn ra. Truyện ngắn đã
phản ánh được hiện thực cách mạng mang tính xu thế. Tác phẩm như dự báo trước
cuộc cách mạng tháng Tám “long trời lở đất” sẽ nổ ra là tất yếu. Qua việc phản ánh đó,
Kim Lân đã xui người nông dân làm cách mạng, mở ra trong họ tương lai tươi sáng.
Tóm lại, giá trị hiện thực sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân đã đưa truyện ngắn
này trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại xuất sắc nhất. Đó cũng
chính là lý do làm nên sức sống bất diệt của truyện ngắn và tên tuổi Kim Lân trong
lĩnh vực văn học nghệ thuật Việt Nam.