Văn mẫu lớp 11: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền
1. Mở bài
- Giới thiệu văn bản “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm.
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Hình tượng Quang Trung hiện lên một vị vua
tầm nhìn xa trông rộng, biết trọng dụng người tài.
2. Thân bài
- Vua Quang Trung nhận thức được tầm quan trọng của hiền tài
- Ông nhìn nhận những khó khăn trong việc thu phục nhân tài.
- Tấm lòng mong mỏi chiêu mộ người có tài ra giúp nước cứu đời.
- Đường lối cầu hiền đầy tiến bộ: bất kỳ ai học thuật không phân biệt quan lại hay
thứ dân…
3. Kết bài
- Ý nghĩa hình tượng của vua Quang Trung: thể hiện một tưởng tiến bộ, đúng đắn
và nhân cách cao đẹp.
Hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền - Mẫu 1
“Chiếu cầu hiền” là một trong những văn kiện quan trọng đã thể hiện được chủ trương
đúng đắn của nhà Tây Sơn khi động viên những trí thức Bắc tham gia xây dựng
đất nước. Qua bài chiếu, ta thấy được hình tượng vua Quang Trung hiện lên một
con người có tầm nhìn xa trông rộng.
“Chiếu cầu hiền” ra đời như một lời kêu gọi người tài ra giúp nước, ngay phần mở
đầu, người đọc thể thấy được quan niệm về người hiền - kẻ đời xưa của vua
Quang Trung: “Người hiền xuất hiện trên đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao.
Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”. Nhà vua đã
nhận thức được tầm quan trọng của người hiền đối với vận mệnh của đất nước. Cũng
như mối quan hệ khăng khít của hiền tài đối với một bậc thiên tử - “hiền tài sứ giả
của thiên tử”. Người đứng đầu đất nước giỏi đến đâu cũng cần phải sự giúp
sức của người tài đến từ bốn phương. Đối với nhà vua, người tài thì phải đem tài năng
của mình ra giúp đời, giúp người. Nếu “che mất đi ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp” thì chẳng
khác nào làm trái với ý trời. Vua Quang Trung đã bày tỏ tấm lòng mong mỏi “trẫm
hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”. Nhưng
thực tế thì “người học rộng tài cao chưa thấy ai tìm đến”. Câu hỏi “Hay trẫm
người ít đức, không xứng để những người ấy phò hay chăng?” như một sự suy
ngẫm, phán xét chính mình. Cũng để đánh vào những kẻ lương tâm không thể
nhắm mắt làm ngơ trước tấm lòng của một bậc đế vương.
Một lòng lo cho đất nước còn đang “đương buổi đầu của nền đại thịnh, công việc
vừa mới mở ra”, “kỷ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên
đương phải lo toan”, “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” việc giáo hóa “đạo đức còn
chưa thấm nhuần”. Bài chiếu đi sâu vào tấm lòng của mỗi người bởi sự chân thành,
tha thiết của một bậc quân vương - vốn quyền lực tối cao và toàn dân phải kính nể:
“Trẫm nơn nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh” khiến cho người đọc
người nghe phải tự vấn lại bản thân đã xứng đáng với đất nước, nhân dân. Hình ảnh
vua Quang Trung đưa ra: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu
lược một người không thể dựng nghiệp trị bình… Huống nay trên dải đất văn hiến
rộng lớn như thế này, trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp
cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”. Nhà vua coi trọng sự đoàn kết của
dân tộc, cũng như khẳng định rằng có những người tài năng hơn ông.
Điều đáng ca ngợi nhất bài chiếu đã thể hiện quan điểm công bằng trong việc chiêu
mộ nhân tài. “Ai tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được
dâng thư tỏ bày công việc”. Vua Quang Trung không phân biệt “quan thường hay thứ
dân”, miễn tài năng thể giúp ích cho đất nước. Việc dùng nhân tài thì “người
lời lẽ thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người lời lẽ không dùng được thì
để đây, chứ không bắt tội nói viển vông, không thiết thực”. Ông cho phép “các quan
văn, quan được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tùy tài lục dùng”. “Người
nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín” thể tự dâng sớ tự tiến cử… Điều này
cho thấy một tầm tưởng cùng dân chủ của Quang Trung. Ông trọng dụng người
tài nhưng để cho họ có quyền dân chủ để từ đó mà phát huy hết tài năng của mình.
Như vậy, qua phân tích trên, người đọc thể thấy được một nhân cách cao đẹp của
vua Quang Trung với tấm lòng kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
Hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền - Mẫu 2
“Chiếu cầu hiền” đã khắc họa cho mỗi người đọc thấy được hình ảnh Quang Trung
với một tấm lòng yêu nước, một tư tưởng đầy tiến bộ.
Tác phẩm được Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 -
1789 nhằm kêu gọi trí thức Bắc Hà ra cống hiến sức mình để xây dựng đất nước.
Biết trọng dụng người tài luôn một trong những cách ứng xử sáng suốt của những
người lãnh đạo, đặc biệt đối với bậc thiên tử. Bởi mối quan hệ giữa hiền tài với
thiên tử cùng gắn - “hiền tài sứ giả cho thiên tử” như quan điểm vua
Quang Trung đã nêu trong bài “Chiếu cầu hiền”. Đối với ông, người tài phải được đời
dùng chẳng khác nào trái với ý trời. Đem i năng của mình ra xây dựng đất nước -
đó là quyền lợi, cũng trách nhiệm của mỗi người tài đối với quốc gia, dân tộc. Hình
tượng vua Quang Trung hiện lên đây giống như “ngôi sao Bắc thần” chói sáng, rực
rỡ đầy anh minh, sáng suốt để cho người tài khắp nơi như sao sáng về chầu.
Nhưng thực tế lại khiến ông cùng băn khoăn lo lắng. “Thời thế suy vi, Trung châu
gặp nhiều biến cố, kẻ phải ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh
anh trong triều đương phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa,
cũng kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn không biết, dường như muốn lẩn
tránh suốt đời”. Họ sống ẩn dật để giữ vẹn khí tiết với một vương triều đã suy tàn.
Hoặc họ ra làm quan không dám thể hiện tài năng, bày tỏ chính kiến... Đó cách
ứng xử bất đắc dĩ. Thấu hiểu được điều đó, vua Quang Trung luôn canh cánh một tấm
lòng mong chờ người hiền ra cứu nước, giúp đời: “Nay trẫm đang g chiếu lắng
nghe, ngày đêm mong mỏi…”. Lời nói đầy tha thiết khiến cho người đọc người nghe
phải lay động tâm can. Cùng với đó sự băn khoăn day dứt của nhà vua: “Hay trẫm
người ít đức, không xứng để những người ấy phò hay chăng?”, “Hay đương thời
đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Một cách nói đầy khiêm nhường
dường như là đang tự vấn lại bản thân. cũng như đầy oán trách - đánh vào tâm
của những bậc hiền tài trong thiên hạ nếu còn lương tâm chắc chắn sẽ không thể thờ ơ.
Đồng thời, Quang Trung đã đưa ra những lời khẳng định họ sẽ không còn sợ bị lãng
quên, bị bỏ rơi, bị bạc đãi… như trong thời buổi suy vi. phu Bắc sẽ hội
thể hiện tài ng, tâm huyết khát vọng lập công, lập danh khi đất nước “đang
buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra”, “ngày một ngày hai vạn việc
nảy sinh”...
Đường lối cầu hiền cũng cùng tiến bộ dân chủ đã được Quang Trung nêu ra.
“Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ cùng với thứ dân trăm họ, người
nào tài năng học thuật… rao bán”. Vua Quang Trung coi trọng tài năng, đạo
đức mà không quan tâm đến xuất thân của họ. Chỉ thành tâm khuyên họ ra giúp đỡ đất
nước. Những điều này đã cho thấy một tấm lòng dân nước. Một con mắt biết
nhìn xa trông rộng. Cũng như tài năng dùng người của một bậc đế vương.
Tóm lại, “Chiếu cầu hiền” đã cho người đọc thấy được hình ảnh vua Quang Trung với
một nhân cách cao đẹp, một tấm nhìn chiến lược và một tấm lòng yêu nước tha thiết.
Hình tượng Vua Quang Trungtrong Chiếu cầu hiền - Mẫu 11
Quang Trung - Nguyễn Huệ, tấm gương anh hùng đại của dân tộc, người công
dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn dẹp loạn, thống nhất Đàng Trong, Đàng Ngoài. Sau khi
lên ngôi vua, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết "Chiếu cầu hiền" nhằm mục đích
tìm kiếm, chiêu mộ hiền tài khắp đất nước, đưa về triều đình đào tạo phục vụ, cống
hiến cho đất nước. Bằng giọng văn thuyết phục đanh thép, Ngô Thì Nhậm đã viết
một bài chiếu vừa truyền tải tới người nghe, vừa khắc họa hình tượng vua Quang
Trung anh minh, sáng suốt, yêu nước thương dân, biết trọng hiền tài, tư tưởng tiến bộ,
cách cư xử khéo léo, được lòng người.
Chiếu thể loại văn chương được vua chúa sử dụng, văn bản do vua, chúa ban hành
để triều đình toàn dân thể đọc, thực hiện mệnh lệnh hoặc yêu cầu trong đại của
đất nước. "Chiếu cầu hiền" được viết mang tính chất kêu gọi những người hiền tài,
học thức ra giúp nước. Cái tiến bộ trong tưởng vua Quang Trung nằm chỗ, khác
với các bậc tiền bối chỉ sử dụng người thân cận, con quan phục vụ triều đình, Quang
Trung hướng tới đối tượng tầng lớp nhân dân, nhận thức được vị trí tầm quan
trọng của nhân dân trong công cuộc dựng xây đất nước. Với tưởng tiến bộ đó, ông
không phân biệt giai cấp, địa vị, giàu sang, thể hiện người học, hiểu biết sâu,
nhìn xa trông rộng và một lòng vì dân vì nước.
Tác phẩm được viết khi Quang Trung vừa lên ngôi vua, đất nước sau giai đoạn chia
cắt còn ngổn ngang, nguyên khí quốc gia kiệt quệ. Trong hoàn cảnh đó, nhà vua ý
thức được tầm quan trọng của việc chiêu mộ nhân tài phục dựng đất ớc. Ngô Thì
Nhậm thay mặt vua soạn "Chiếu cầu hiền" vừa thể hiện tinh thần quyết tâm phục dựng
giang sơn, vừa cho thấy tấm lòng của một nhà lãnh đạo anh minh, tài giỏi.
Hình tượng vua Quang Trung được xây dựng một nhà vua tầm nhìn, những
sách lược đúng đắn, kịp thời, trân trọng người hiền tài không phân biệt xuất thân, cấp
bậc, ứng xử khéo léo được lòng dân. Ngay từ đầu bài Chiếu, Ngô Thì Nhậm đã khẳng
định vị trí vai trò của người tài trong việc xây dựng đất nước, giúp đỡ vua. Tác giả
đã nêu ra trách nhiệm, nghĩa vụ của người tài, giúp vua chính là trọng trách của những
người học thức. Những câu văn mang tính động viên, khích lệ, tác động đến lòng
dân nhằm khẳng định vai trò của người hiền trong hoàn cảnh đương thời:" kỉ cương
triều đình còn nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan", nhân dân
"khốn khổ chưa còn hồi sức". Chính trong hoàn cảnh ấy, người tài nếu "giấu mình ẩn
tiếng, có tài mà không để cho đời dùng" vừa sự phí phạm, vừa đi ngược lại với luân
thường đạo lý. Trên thực tế lúc bấy giờ, khi quan lại của triều đại từ chối hợp tác
với Tây Sơn, việc phải chiêu mộ những người năng lực điều nan giải, trong khi
đó, người hiền kẻ lại trốn tránh, ẩn dật. Chình vậy, nhà vua lúc này cần khiêm
nhường, khéo léo vời gọi hiền tài về phục dựng đất nước. Đặt bản thân mình xuống
dưới với sự khiêm tốn, "trẫm hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe,
sớm hôm mong mỏi" những câu hỏi băn khoăn, trăn trở "Hay đương thời đổ nát?",
đồng thời đề những người tài nhưng gặp phải "thời thế suy vi", "sinh bất phùng
thời" nên không dịp hội tụ. Một vị vua với tinh thần cầu tài, không ngạo mạn,
không hách dịch mà vô cùng chân thành đã khiến người dân phải tự vấn. Cái tài thuyết
phục đây chỗ, nhà vua không mang danh tiếng, tiền của ra để mua chuộc hiền tài
thay vào đó tấm lòng, sự thành khẩn mang đến cho người nghe cảm giác yên
tâm. Chỉ cần họ có tài, có sức khắc sẽ được trọng dụng, được đãi ngộ tốt. Trải qua thời
suy vong, nỗi sợ hãi bị vùi dập khinh rẻ của hiền tài đã trở thành rào cản khiến
họ không muốn cống hiến cho đất nước, nay chính lúc gạt bỏ rào cản đó để chiêu
mộ nhân tài, tạo cơ hội cho họ thể hiện tài năng và tâm huyết với tổ quốc.
Đề cao vai trò của kẻ sĩ, vua Quang Trung còn thể hiện một người biết lấy dân làm
gốc, dân, yêu nước thương nòi. Khởi nguồn từ việc tìm kiếm người học dưới
tầng lớp nhân dân bộc lộ lối duy rộng mở, tầm nhìn xa trông rộng, tiến cử người
hiền để người hiền tự tiến cử, cốt làm cho dân giàu, nước mạnh, hội công
bằng, đất nước được phục dựng. "Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây,
xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ.", "ai tài năng học thuật,
mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc". Cái quan
trọng nhất của một người lãnh đạo phải biết chiếm dụng lòng tin yêu của nhân dân,
làm cho dân tin, dân yêu thì mới được ủng hộ. Hiếm một nhà lãnh đạo nào lại
thể sẵn sàng tự chất vấn lỗi lầm của bản thân, thừa nhận những nhân tài kiệt xuất
hơn mình. Lấy nhân dân làm cốt lõi vấn đề, đề cao tình đoàn kết dân tộc để "làm nên
ngôi nhà lớn", Quang Trung vừa thuyết phục, vừa khuyến khích, đồng thời thể hiện sự
công tâm, anh minh, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, chỉ cần "có tài năng học
thuật, mưu hay giúp ích cho đời". Sự tin tưởng vào vị vua mới khiến ktrong thiên
hạ cảm thấy an tâm, được tôn trọng, tự nguyện cống hiến và phục vụ tổ quốc.
Qua tác phẩm, hình tượng vua Quang Trung được xây dựng là một vị lãnh đạo tầm
nhìn chiến lược xuất sắc, cách đối xử trọng dụng người hiền tài trong hoàn cảnh
đất nước rối ren, trách nhiệm cao cả đối với đất nước và tư tưởng sống khiêm nhường,
khéo léo, kính trọng nhân tài. Với giọng văn vừa đanh thép, vừa mềm mỏng, vừa
thuyết phục vừa đặt ra trách nhiệm vốn có, tác phẩm đã trở thành một văn bản chính
trị đầy tính nhân văn, một lần nữa khẳng định hình ảnh người anh hùng áo vải đại
mà đơn sơ, giản dị mà sáng ngời.
| 1/5

Preview text:


Dàn ý hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền 1. Mở bài
- Giới thiệu văn bản “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm.
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Hình tượng Quang Trung hiện lên là một vị vua có
tầm nhìn xa trông rộng, biết trọng dụng người tài. 2. Thân bài
- Vua Quang Trung nhận thức được tầm quan trọng của hiền tài
- Ông nhìn nhận những khó khăn trong việc thu phục nhân tài.
- Tấm lòng mong mỏi chiêu mộ người có tài ra giúp nước cứu đời.
- Đường lối cầu hiền đầy tiến bộ: bất kỳ ai có học thuật không phân biệt quan lại hay thứ dân… 3. Kết bài
- Ý nghĩa hình tượng của vua Quang Trung: thể hiện một tư tưởng tiến bộ, đúng đắn và nhân cách cao đẹp.
Hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền - Mẫu 1
“Chiếu cầu hiền” là một trong những văn kiện quan trọng đã thể hiện được chủ trương
đúng đắn của nhà Tây Sơn khi động viên những trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng
đất nước. Qua bài chiếu, ta thấy được hình tượng vua Quang Trung hiện lên là một
con người có tầm nhìn xa trông rộng.
“Chiếu cầu hiền” ra đời như một lời kêu gọi người tài ra giúp nước, ngay phần mở
đầu, người đọc có thể thấy được quan niệm về người hiền - kẻ sĩ đời xưa của vua
Quang Trung: “Người hiền xuất hiện ở trên đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao.
Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”. Nhà vua đã
nhận thức được tầm quan trọng của người hiền đối với vận mệnh của đất nước. Cũng
như mối quan hệ khăng khít của hiền tài đối với một bậc thiên tử - “hiền tài là sứ giả
của thiên tử”. Người đứng đầu đất nước dù có giỏi đến đâu cũng cần phải có sự giúp
sức của người tài đến từ bốn phương. Đối với nhà vua, người tài thì phải đem tài năng
của mình ra giúp đời, giúp người. Nếu “che mất đi ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp” thì chẳng
khác nào là làm trái với ý trời. Vua Quang Trung đã bày tỏ tấm lòng mong mỏi “trẫm
hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”. Nhưng
thực tế thì “người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến”. Câu hỏi “Hay trẫm là
người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá hay chăng?” như một sự suy
ngẫm, phán xét chính mình. Cũng là để đánh vào những kẻ sĩ có lương tâm không thể
nhắm mắt làm ngơ trước tấm lòng của một bậc đế vương.
Một lòng lo cho đất nước còn đang “đương ở buổi đầu của nền đại thịnh, công việc
vừa mới mở ra”, “kỷ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên
đương phải lo toan”, “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” mà việc giáo hóa “đạo đức còn
chưa thấm nhuần”. Bài chiếu đi sâu vào tấm lòng của mỗi người bởi sự chân thành,
tha thiết của một bậc quân vương - vốn có quyền lực tối cao và toàn dân phải kính nể:
“Trẫm nơn nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh” khiến cho người đọc
người nghe phải tự vấn lại bản thân đã xứng đáng với đất nước, nhân dân. Hình ảnh
mà vua Quang Trung đưa ra: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu
lược một người không thể dựng nghiệp trị bình… Huống nay trên dải đất văn hiến
rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp
cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”. Nhà vua coi trọng sự đoàn kết của
dân tộc, cũng như khẳng định rằng có những người tài năng hơn ông.
Điều đáng ca ngợi nhất là bài chiếu đã thể hiện quan điểm công bằng trong việc chiêu
mộ nhân tài. “Ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được
dâng thư tỏ bày công việc”. Vua Quang Trung không phân biệt “quan thường hay thứ
dân”, miễn là có tài năng có thể giúp ích cho đất nước. Việc dùng nhân tài thì “người
có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người có lời lẽ không dùng được thì
để đây, chứ không bắt tội nói viển vông, không thiết thực”. Ông cho phép “các quan
văn, quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tùy tài lục dùng”. “Người
nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín” có thể tự dâng sớ tự tiến cử… Điều này
cho thấy một tầm tư tưởng vô cùng dân chủ của Quang Trung. Ông trọng dụng người
tài nhưng để cho họ có quyền dân chủ để từ đó mà phát huy hết tài năng của mình.
Như vậy, qua phân tích trên, người đọc có thể thấy được một nhân cách cao đẹp của
vua Quang Trung với tấm lòng kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
Hình tượng Quang Trung trong Chiếu cầu hiền - Mẫu 2
“Chiếu cầu hiền” đã khắc họa cho mỗi người đọc thấy được hình ảnh Quang Trung
với một tấm lòng yêu nước, một tư tưởng đầy tiến bộ.
Tác phẩm được Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 -
1789 nhằm kêu gọi trí thức Bắc Hà ra cống hiến sức mình để xây dựng đất nước.
Biết trọng dụng người tài luôn là một trong những cách ứng xử sáng suốt của những
người lãnh đạo, đặc biệt là đối với bậc thiên tử. Bởi mối quan hệ giữa hiền tài với
thiên tử vô cùng gắn bó - “hiền tài là sứ giả cho thiên tử” như quan điểm mà vua
Quang Trung đã nêu trong bài “Chiếu cầu hiền”. Đối với ông, người tài phải được đời
dùng chẳng khác nào là trái với ý trời. Đem tài năng của mình ra xây dựng đất nước -
đó là quyền lợi, cũng là trách nhiệm của mỗi người tài đối với quốc gia, dân tộc. Hình
tượng vua Quang Trung hiện lên ở đây giống như “ngôi sao Bắc thần” chói sáng, rực
rỡ đầy anh minh, sáng suốt để cho người tài khắp nơi như sao sáng về chầu.
Nhưng thực tế lại khiến ông vô cùng băn khoăn lo lắng. “Thời thế suy vi, Trung châu
gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh
anh trong triều đương phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa,
cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn
tránh suốt đời”. Họ sống ẩn dật để giữ vẹn khí tiết với một vương triều đã suy tàn.
Hoặc họ ra làm quan mà không dám thể hiện tài năng, bày tỏ chính kiến... Đó là cách
ứng xử bất đắc dĩ. Thấu hiểu được điều đó, vua Quang Trung luôn canh cánh một tấm
lòng mong chờ người hiền ra cứu nước, giúp đời: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng
nghe, ngày đêm mong mỏi…”. Lời nói đầy tha thiết khiến cho người đọc người nghe
phải lay động tâm can. Cùng với đó là sự băn khoăn day dứt của nhà vua: “Hay trẫm
là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá hay chăng?”, “Hay đương thời
đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Một cách nói đầy khiêm nhường
dường như là đang tự vấn lại bản thân. Mà cũng như đầy oán trách - đánh vào tâm lí
của những bậc hiền tài trong thiên hạ nếu còn lương tâm chắc chắn sẽ không thể thờ ơ.
Đồng thời, Quang Trung đã đưa ra những lời khẳng định họ sẽ không còn sợ bị lãng
quên, bị bỏ rơi, bị bạc đãi… như trong thời buổi suy vi. Sĩ phu Bắc Hà sẽ có cơ hội
thể hiện tài năng, tâm huyết và khát vọng lập công, lập danh khi đất nước “đang ở
buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra”, “ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh”...
Đường lối cầu hiền cũng vô cùng tiến bộ và dân chủ đã được Quang Trung nêu ra.
“Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ cùng với thứ dân trăm họ, người
nào có tài năng học thuật… mà rao bán”. Vua Quang Trung coi trọng tài năng, đạo
đức mà không quan tâm đến xuất thân của họ. Chỉ thành tâm khuyên họ ra giúp đỡ đất
nước. Những điều này đã cho thấy một tấm lòng vì dân vì nước. Một con mắt biết
nhìn xa trông rộng. Cũng như tài năng dùng người của một bậc đế vương.
Tóm lại, “Chiếu cầu hiền” đã cho người đọc thấy được hình ảnh vua Quang Trung với
một nhân cách cao đẹp, một tấm nhìn chiến lược và một tấm lòng yêu nước tha thiết.
Hình tượng Vua Quang Trungtrong Chiếu cầu hiền - Mẫu 11
Quang Trung - Nguyễn Huệ, tấm gương anh hùng vĩ đại của dân tộc, người có công
dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn dẹp loạn, thống nhất Đàng Trong, Đàng Ngoài. Sau khi
lên ngôi vua, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết "Chiếu cầu hiền" nhằm mục đích
tìm kiếm, chiêu mộ hiền tài khắp đất nước, đưa về triều đình đào tạo phục vụ, cống
hiến cho đất nước. Bằng giọng văn thuyết phục và đanh thép, Ngô Thì Nhậm đã viết
một bài chiếu vừa truyền tải tới người nghe, vừa khắc họa hình tượng vua Quang
Trung anh minh, sáng suốt, yêu nước thương dân, biết trọng hiền tài, tư tưởng tiến bộ,
cách cư xử khéo léo, được lòng người.
Chiếu là thể loại văn chương được vua chúa sử dụng, văn bản do vua, chúa ban hành
để triều đình và toàn dân có thể đọc, thực hiện mệnh lệnh hoặc yêu cầu trong đại của
đất nước. "Chiếu cầu hiền" được viết mang tính chất kêu gọi những người hiền tài,
học thức ra giúp nước. Cái tiến bộ trong tư tưởng vua Quang Trung nằm ở chỗ, khác
với các bậc tiền bối chỉ sử dụng người thân cận, con quan phục vụ triều đình, Quang
Trung hướng tới đối tượng là tầng lớp nhân dân, nhận thức được vị trí và tầm quan
trọng của nhân dân trong công cuộc dựng xây đất nước. Với tư tưởng tiến bộ đó, ông
không phân biệt giai cấp, địa vị, giàu sang, thể hiện là người có học, hiểu biết sâu,
nhìn xa trông rộng và một lòng vì dân vì nước.
Tác phẩm được viết khi Quang Trung vừa lên ngôi vua, đất nước sau giai đoạn chia
cắt còn ngổn ngang, nguyên khí quốc gia kiệt quệ. Trong hoàn cảnh đó, nhà vua ý
thức được tầm quan trọng của việc chiêu mộ nhân tài phục dựng đất nước. Ngô Thì
Nhậm thay mặt vua soạn "Chiếu cầu hiền" vừa thể hiện tinh thần quyết tâm phục dựng
giang sơn, vừa cho thấy tấm lòng của một nhà lãnh đạo anh minh, tài giỏi.
Hình tượng vua Quang Trung được xây dựng là một nhà vua có tầm nhìn, có những
sách lược đúng đắn, kịp thời, trân trọng người hiền tài không phân biệt xuất thân, cấp
bậc, ứng xử khéo léo được lòng dân. Ngay từ đầu bài Chiếu, Ngô Thì Nhậm đã khẳng
định vị trí và vai trò của người tài trong việc xây dựng đất nước, giúp đỡ vua. Tác giả
đã nêu ra trách nhiệm, nghĩa vụ của người tài, giúp vua chính là trọng trách của những
người có học thức. Những câu văn mang tính động viên, khích lệ, tác động đến lòng
dân nhằm khẳng định vai trò của người hiền trong hoàn cảnh đương thời:" kỉ cương
triều đình còn nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan", nhân dân
"khốn khổ chưa còn hồi sức". Chính trong hoàn cảnh ấy, người tài nếu "giấu mình ẩn
tiếng, có tài mà không để cho đời dùng" vừa là sự phí phạm, vừa đi ngược lại với luân
thường đạo lý. Trên thực tế lúc bấy giờ, khi quan lại của triều đại cũ từ chối hợp tác
với Tây Sơn, việc phải chiêu mộ những người có năng lực là điều nan giải, trong khi
đó, người hiền kẻ sĩ lại trốn tránh, ẩn dật. Chình vì vậy, nhà vua lúc này cần khiêm
nhường, khéo léo vời gọi hiền tài về phục dựng đất nước. Đặt bản thân mình xuống
dưới với sự khiêm tốn, "trẫm hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe,
sớm hôm mong mỏi" và những câu hỏi băn khoăn, trăn trở "Hay đương thời đổ nát?",
đồng thời đề có những người có tài nhưng gặp phải "thời thế suy vi", "sinh bất phùng
thời" nên không có dịp hội tụ. Một vị vua với tinh thần cầu tài, không ngạo mạn,
không hách dịch mà vô cùng chân thành đã khiến người dân phải tự vấn. Cái tài thuyết
phục ở đây là chỗ, nhà vua không mang danh tiếng, tiền của ra để mua chuộc hiền tài
mà thay vào đó là tấm lòng, là sự thành khẩn mang đến cho người nghe cảm giác yên
tâm. Chỉ cần họ có tài, có sức khắc sẽ được trọng dụng, được đãi ngộ tốt. Trải qua thời
kì suy vong, nỗi sợ hãi bị vùi dập và khinh rẻ của hiền tài đã trở thành rào cản khiến
họ không muốn cống hiến cho đất nước, nay chính là lúc gạt bỏ rào cản đó để chiêu
mộ nhân tài, tạo cơ hội cho họ thể hiện tài năng và tâm huyết với tổ quốc.
Đề cao vai trò của kẻ sĩ, vua Quang Trung còn thể hiện là một người biết lấy dân làm
gốc, vì dân, yêu nước thương nòi. Khởi nguồn từ việc tìm kiếm người có học dưới
tầng lớp nhân dân bộc lộ lối tư duy rộng mở, tầm nhìn xa trông rộng, tiến cử người
hiền và để người hiền tự tiến cử, cốt là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, đất nước được phục dựng. "Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây,
xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ.", "ai có tài năng học thuật,
mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc". Cái quan
trọng nhất của một người lãnh đạo là phải biết chiếm dụng lòng tin yêu của nhân dân,
làm cho dân tin, dân yêu thì mới được ủng hộ. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào lại có
thể sẵn sàng tự chất vấn lỗi lầm của bản thân, thừa nhận có những nhân tài kiệt xuất
hơn mình. Lấy nhân dân làm cốt lõi vấn đề, đề cao tình đoàn kết dân tộc để "làm nên
ngôi nhà lớn", Quang Trung vừa thuyết phục, vừa khuyến khích, đồng thời thể hiện sự
công tâm, anh minh, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, chỉ cần "có tài năng học
thuật, mưu hay giúp ích cho đời". Sự tin tưởng vào vị vua mới khiến kẻ sĩ trong thiên
hạ cảm thấy an tâm, được tôn trọng, tự nguyện cống hiến và phục vụ tổ quốc.
Qua tác phẩm, hình tượng vua Quang Trung được xây dựng là một vị lãnh đạo có tầm
nhìn chiến lược xuất sắc, có cách đối xử và trọng dụng người hiền tài trong hoàn cảnh
đất nước rối ren, trách nhiệm cao cả đối với đất nước và tư tưởng sống khiêm nhường,
khéo léo, kính trọng nhân tài. Với giọng văn vừa đanh thép, vừa mềm mỏng, vừa
thuyết phục vừa đặt ra trách nhiệm vốn có, tác phẩm đã trở thành một văn bản chính
trị đầy tính nhân văn, một lần nữa khẳng định hình ảnh người anh hùng áo vải vĩ đại
mà đơn sơ, giản dị mà sáng ngời.