Phân tích đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. lúc tưởng
chừng nàng buông xuôi trước số phận:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước
ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của gái tài sắc họ Vương.
Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh
nhơ nhớp còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu
nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người
đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất
nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng
nhân nghĩa vị tha của Kiều ước công của nhân dân: hiền gặp lành, ở ác
gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu cảnh Thuý Kiều báo ân. Những
câu thơ còn lại cảnh Thuý Kiều báo oán. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình
(đoạn Chị em Thuý Kiều); khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình
để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn
ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý
Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới
báo oán sau. Người được mời đầu tiên Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc
Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững.
Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con
người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để
bảo vệ người yêu. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động
nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều
đã những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh.
Nàng gọi đó nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi
han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi,
biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố,
điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc diễn tả
được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ
Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội
đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của
mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng
nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách đem Gấm trăm cuốn
bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng
dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết
thương lòng hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu làm cho nàng không
những chỉ đau đớn về thể xác còn đau đớn gấp bội về tinh thần. Cuộc đối đáp
giữa Thuý Kiều Hoạn Thư cảnh báo oán một màn kịch ngắn nhưng đầy
đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó
giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp già gặp nhau, kiến miệng
chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều Hoạn Thư. Hành động
trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công của nhân dân nên nó
phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với
Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng như
hồi còn làm Hoa cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật
mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai họa.
Cách xưng này còn một đòn quất mạnh vào mặt đàn họ Hoạn máu
ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá trong nhịp điệu thơ như giằng ra
từng tiếng, trong những từ ngữ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có,
dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng
oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn
độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến
miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư
cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn
cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu
ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều
Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành
người cùng chung chút phận đàn bà.
Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép
kinh Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh dẫu biết không bắt giữ khi
nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư
muốn nói rằng nếu tôi tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm của giới nữ:
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh
mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông
gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn
đã đánh trúng vào chỗ mạnh cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan
dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực
nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm
ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư
nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng
tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng xử theo
quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước
đời quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn
phụ thuộc vào sự tự bào chữa của chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân
hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương cũng của tác giả Truyện
Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tào
thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng ước công chính nghĩa sẽ
chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Giám Sinh để cứu cha em,
đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng
bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích
trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng
Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần
tự tử bỏ trốn không thành Kiều bị buộc phải tiếp khách, dần trở thành
người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng
với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây
hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ
nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh
“bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh cùng dung tục, kỹ nữ như những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn
hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện
với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận
cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.
người phụ nữ chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui,
ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện
ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, ấp
bên tựa như với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng
chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp,
nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ thú vui xác thịt đồng tiền rẻ
rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình ai nữa. trong đoạn trích để
khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật
thật trong lịch sử, một Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện
mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan
lạc. Hai Trường Khanh tên tự của Tương Như, người gảy một khúc
Phượng cầu Hoàng để quyến Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần,
cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh
ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình
khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn
hoang đường của những con người nơi đây. đó người phụ nữ trở thành thú
vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung
tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng
cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm
hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng được
cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài
chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ
địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã
cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể
thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại
tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc
thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng
nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan,
lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở
nên thấm thía ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say
mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén
lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm lúc giở rượu, tỉnh
giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại
tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ nét hơn trong những câu thơ ý thức về
thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống
êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc
của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này.
Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với
một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng
sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười
giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng
với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn đóa mẫu đơn cao quý, trong
sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không
thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn ngại
ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày
ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn
sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại
bản thân Thúy Kiều chỉ còn thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân!”, ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của
mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng
về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen
trắng trong đầm nước “Gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu
xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến,
những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn
vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu
đêm suốt sáng “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt,
cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần
gũi xác thịt lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến
Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết,
nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
Phân tích đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều
Thúy Kiều một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu
tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ
đến. Đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh....Ai tri âm đó mặn với ai?" đã kể lại
những nỗi đau khổ tái nhất của Thúy Kiều nói riêng của người phụ nữ dưới
thời phong kiến nói chung. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của
bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về
phẩm giá, điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao sâu sắc của tác
phẩm.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy
Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn
canh Kiều mới những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách
làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn
chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian không
gian vắng lặng, liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái
đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình /
xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng
thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm
gợi cảm giác nặng nề bởi được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ nhịp
điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận tình cảm
thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm trên thể coi tuyệt bút. Nhịp
điệu, âm hưởng phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác
tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu
thương ấy như hiện thành hình, thành khối Thúy Kiều bằng xương bằng thịt.
Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha
mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh,
lao đi trên con đường mịt mù, định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa
chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào
chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang
phải sống trong cảnh Chán trời góc biển vơ, không nơi nương tựa, không người
an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau độc giữa quỷ mặt người nên Kiều có
cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn
thế, thi thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung
động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng
điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh
phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy
ra tai họa thương tiếc thân mình vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những
hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá
khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một
câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong
nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng
bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm
thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao,
giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ
rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên
giọng thơ nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau
những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu
hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay
Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc
vẹn toàn, chính các thế lực tàn ác trong hội đã dìm nàng xuống bùn đen.
Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận
sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa
đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân
hoa; gió; thu trăng; đông tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó,
Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá
lạnh.
lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh
vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà
bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời nữ nhìn bề
ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt
nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng
thâu, nhưng thật mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài
thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng,
thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều
trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều lại phải vui vui gượng để
chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng
như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu
thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và
tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của
con người nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo
dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật
mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con
người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu bước đầu đã ý thức về
phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII,
nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá
khác. Sự thương mình chính nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian
câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu
sắc, chân chính dành cho người khác nếu không ý thức về bản thân, không biết
thương chính bản thân mình.
Đoạn trích cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã
không tránh thực tế nghiệt ngã, đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của
Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của
nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên
ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt
tội ác của hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người.
Người đọc xót xa căm giận cái hội vạn ác càng cảm phục, yêu thương khôn
xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
Phân tích Thúy Kiều báo ân báo oán
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. lúc tưởng
chừng nàng buông xuôi trước số phận:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước
ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của gái tài sắc họ Vương.
Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh
nhơ nhớp còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu
nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người
đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất
nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng
nhân nghĩa vị tha của Kiều ước công của nhân dân: hiền gặp lành, ở ác
gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu cảnh Thuý Kiều báo ân. Những
câu thơ còn lại cảnh Thuý Kiều báo oán. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình
(đoạn Chị em Thuý Kiều); khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình
để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn
ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý
Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới
báo oán sau. Người được mời đầu tiên Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc
Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững.
Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con
người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để
bảo vệ người yêu. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động
nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều
đã những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh.
Nàng gọi đó nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi
han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi,
biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố,
điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc diễn tả
được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ
Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội
đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của
mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng
nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách đem Gấm trăm cuốn
bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng
dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết
thương lòng hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không
những chỉ đau đớn về thể xác còn đau đớn gấp bội về tinh thần. Cuộc đối đáp
giữa Thuý Kiều Hoạn Thư cảnh báo oán một màn kịch ngắn nhưng đầy
đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó
giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp già gặp nhau, kiến miệng
chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều Hoạn Thư. Hành động
trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công của nhân dân nên nó
phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với
Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng như
hồi còn làm Hoa cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật
mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai hoạ.
Cách xưng này còn một đòn quất mạnh vào mặt đàn họ Hoạn máu
ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá trong nhịp điệu thơ như dằn ra
từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có,
dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng
oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn
độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến
miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư
cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn
cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu
ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều
Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành
người cùng chung chút phận đàn bà.
Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép
kinh Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh dẫu biết không bắt giữ khi
nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư
muôn nói rằng nếu tôi tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm của giới nữ:
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh
mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông
gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn
đã đánh trúng vào chỗ mạnh cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan
dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực
nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm
ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư
nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng
tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng xử theo
quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước
đời quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn
phụ thuộc vào sự tự bào chữa của chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân
hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương cũng của tác giả Truyện
Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tào
thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng ước công chính nghĩa sẽ
chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu ngưng Bích
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người “con mắt
nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” tác phẩm
thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện
Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến lưu lạc”. Trích
đoạn khúc tâm tình đầy xúc động của gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm
đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn
nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó nỗi đơn, buồn tủi, tấm lòng thủy
chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, cảm xúc chủ đạo nhưng trí của nhà thơ
vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học chặt chẽ. Phần đầu
quang cảnh lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng
nhớ về Kim Trọng cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương
lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến
buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa những dãy núi, nhìn lên cao
vầng trăng đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất
cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu
tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều.
Đó hẳn tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót
xa. chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm
quặn thắt. Thiên nhiên không còn những sự vật tri, giác nữa như sống
động, hồn bởi tấm gương phản chiếu tâm trạng đơn, sầu tủi của nàng
Kiều.
Từ trong nỗi đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những
người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. lẽ bởi trước đó
nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ chữ duyên với
Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day
dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng
cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật,
sống động ngay trước mắt nàng. Đó hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng”
Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ
của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng
trăng còn đó giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn
ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại
nghĩ đến thân phận của mình, vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê
người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai
nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không
xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin
con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá
lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm
mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn
của người con hiếu đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ
trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với
cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên
trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng
xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn
không hoang vắng, liêu như ban đầu như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về
một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa
biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi.
Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt khói sóng chiều hôm như là hình
ảnh con người đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi
nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng,
mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương
nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người
con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm
màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến
hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt
hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển,
tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”.
Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về
thân phận, cuộc đời mình không còn nỗi lo lắng hồ, nỗi buồn quạnh vắng
mênh mang nữa đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng
loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt
chửng cánh hoa mỏng manh, nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, dập vùi nàng
xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.
Mỗi vần thơ một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận
người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, tài năng nghệ thuật: tả
cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục nghệ
thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng
thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa
cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi lầu
Ngưng Bích.
lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu
cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm
lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức
sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.
Phân tích đoạn trích Mã giám sinh mua Kiều
Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu
trân trọng một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Giám Sinh tiêu biểu cho hạng
người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của
tên buôn người cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn
trường mười lăm năm đời Kiều.

Preview text:

Phân tích đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng
chừng nàng buông xuôi trước số phận:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước
ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương.
Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh
nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu
nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người
đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất
nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng
nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những
câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình
(đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình
để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn
ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý
Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới
báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc
Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững.
Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con
người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để
bảo vệ người yêu. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động
nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều
đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh.
Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi
han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi,
biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố,
điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả
được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ
Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội
đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của
mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng
nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn
bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng
dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết
thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu làm cho nàng không
những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần. Cuộc đối đáp
giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy
đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó
giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng
chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Hành động
trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công lí của nhân dân nên nó
phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với
Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như
hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật
mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai họa.
Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như giằng ra
từng tiếng, trong những từ ngữ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có,
dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng
oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò
miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư
cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn
cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu
ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều
và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành
người cùng chung chút phận đàn bà.
Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép
kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi
nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư
muốn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ:
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh
mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông
gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn
đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực
nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm
ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư
nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng
tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo
quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lí lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước
đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn
phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân
hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tào
thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ
chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em,
đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng
bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích
trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng
Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần
tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành
người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng
với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây
hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ
nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh
“bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông
hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả
nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn
và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện
với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận
cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.
Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui,
ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện
ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp
bên má tựa như lá với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng
chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp,
nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ
rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để
khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có
thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện
mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan
lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc
Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần,
cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh
ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình
khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và
hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú
vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung
tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng
cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm
hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được
cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài
chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ
địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã
cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể
thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại
tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc
thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là
nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan,
lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở
nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say
mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén
lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh
giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại
tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về
thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống
êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc
của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này.
Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với
một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng
sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười
giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng
với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong
sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không
thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại
ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày
ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn
sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại
bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của
mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng
về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn
mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen
trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu
xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến,
những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn
vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu
đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt,
cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần
gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến
Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết,
nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
Phân tích đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí
tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ
đến. Đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh....Ai tri âm đó mặn mà với ai?" đã kể lại
những nỗi đau khổ tái tê nhất của Thúy Kiều nói riêng và của người phụ nữ dưới
thời phong kiến nói chung. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của
bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về
phẩm giá, điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy
Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn
canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách
làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không
gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái
đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình /
xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng
thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm
mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp
điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm
thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp
điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác
tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu
thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt.
Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha
mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh,
lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa
chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào
chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang
phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người
an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có
cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn
thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung
động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh
phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy
ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những
hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá
khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một
câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong
nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng
bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm
thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao,
giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ
rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên
giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau
những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu
hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là
Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc
vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen.
Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận
sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân
có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó,
Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh
vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà
bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề
ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt
nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng
thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng,
thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều
trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để
chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng
như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu
thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và
tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của
con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo
dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật
mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con
người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về
phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII,
nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá
khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian
có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu
sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết
thương chính bản thân mình.
Đoạn trích cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã
không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của
Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của
nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên
ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt
tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người.
Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn
xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
Phân tích Thúy Kiều báo ân báo oán
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng
chừng nàng buông xuôi trước số phận:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước
ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương.
Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh
nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu
nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người
đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất
nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng
nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những
câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình
(đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình
để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn
ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý
Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới
báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc
Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững.
Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con
người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để
bảo vệ người yêu. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động
nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều
đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh.
Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi
han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi,
biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố,
điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả
được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ
Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội
đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của
mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng
nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn
bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng
dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết
thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không
những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần. Cuộc đối đáp
giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy
đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó
giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng
chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Hành động
trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công lí của nhân dân nên nó
phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với
Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như
hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật
mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai hoạ.
Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra
từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có,
dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng
oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò
miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư
cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn
cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu
ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều
và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành
người cùng chung chút phận đàn bà.
Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép
kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi
nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư
muôn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ:
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh
mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông
gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn
đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực
nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm
ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư
nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng
tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo
quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lí lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước
đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn
phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân
hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tào
thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ
chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu ngưng Bích
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt
nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm
thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện
Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích
đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm
đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn
nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy
chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ
vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là
quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng
nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương
lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến
buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là
vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất
cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu
tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều.
Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót
xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm
quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống
động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những
người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó
nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với
Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day
dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng
cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật,
sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng”
mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ
của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng
trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn
ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại
nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê
người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai
nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không
xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin
con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá
lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm
mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn
của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ
trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với
cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên
trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng
xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn
không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về
một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa
biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi.
Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình
ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi
nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng,
mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương
nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người
con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm
màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến
hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt
hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển,
tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”.
Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về
thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng
mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng
loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt
chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng
xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.
Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận
người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả
cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ
thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng
thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ
cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu
cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm
lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức
sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.
Phân tích đoạn trích Mã giám sinh mua Kiều
Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu
trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng
người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của
tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn
trường mười lăm năm đời Kiều.