Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Chí Phèo (3 Dàn ý + 18 mẫu) | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Chí Phèo (3 Dàn ý + 18 mẫu) | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý phân tích Chí phèo chi tiết
I. Mở bài
Chí Phèothật sự một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao.
Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao
động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong
văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể
hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
II. Thân bài.
A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH
MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA.
1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình.
Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một gạch cũ.
Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi nhà này lại đi
nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen
tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở
về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lóc,
cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen rất cơng cơng, hai mắt gờm gườm trông
gớm chết.
Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt đâm chém người cho nên cúi mặt hắn vàng mà
lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo.
Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật:
không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ.
2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính.
Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi
mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xòe,
châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu gọi om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa
mới chạy, rồi khóc lóc mêu mêu, mụ đưa ra chai rượu.
Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp,
phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo
hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của
hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn say, mênh mông, hắn ăn trong lúc say,
uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say tận (…). Hắn biết đâu đã phá bao
nhiêu nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!.
B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC
TỈNH.
1. Người nông dân bị tha hóa.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị huỷ hoại hoàn toàn của Chí Phèo,
bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng
sáng khi gặp được hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên xưa
nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có.
Tình cảm chân thật của thị Nđã khơi dậy ý thức lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc
này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời
sống nội tâm.
2. Cuối cùng đã thức tỉnh
Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe
tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình
nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?.
Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Trời ơi. Hắn thèm
lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào
cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện .
C. ĐIỀU BI THẢM ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI
KHÔNG ĐƯỢC
1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc
Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng
Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình
thế hoàn toàn tuyệt vọng: Sống lương thiện thì không được chấp nhận, m lưu manh
như cũ thì không thể và cũng không muốn.
Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó: “Tao muốn làm
người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những mảnh chai trên mặt này! Tao không thể người lương thiện được nữa.
Biết không!”.
2. Bi kịch biến thành thảm kịch
Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát.
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công: vừa nét khái quát, vừa tính.
Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa btước đoạt cả nhân tính. Nhân
vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến
tâm lí.
III. Kết bài.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương
trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần
sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh
phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện.
Chí Phèo tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh: Hãy bảo vệ đấu
tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống
và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả
nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa.
Phân tích NV Chí Phèo
Nam Cao mt trong nhng nhà văn hin thc tiêu biu nht ca văn hc Vit Nam
hin đi. Trong sut snghip cm bút ca mình, ông luôn có nhng trăn tr, nghĩ suy
về sống viết. Mi tác phm ca Nam Cao đu ng vcon ngưi, con ngưi,
và vi ông, đnh cao ca ssáng to là nhng cái mi m, ông tng viết: "Văn chương
không cn đến skhéo tay, làm theo mt cái khuôn mu. Văn chương chdung np
nhng ngưi biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhng ngun chưa ai khơi sáng to ra
cái chưa có". lchính bi nhng quan nim nghthut chân chính y Nam
Cao đã cho ra đi hàng lot nhng tiu thuyết, truyn ngn thành công, đánh đu tên
tui ca mình trên văn đàn văn hc.
Truyn ngn "Chí Phèo" tác phm xut sc cho thy đưc tài năng nghthut trong
ngòi bút điêu luyn ca nhà văn, đng thi qua đó phn ánh đưc sphn con ngưi
với tn bi kch đau đn nhất- bi kch bcự tuyt quyn làm ngưi. Nhân vt Chí Phèo
là nhân vt tư tưng ca tác phm.
Chí Phèo xut hin trong tác phm vi tiếng chi đi, chi ngưi mt cách bt cn.
Hắn chi chng ai màng quan tâm, đý ti, tiếng chi cha đng cnhng sxót
xa, cđau thương ti nhc. Phi chăng Chí cũng đang khát khao đưc squan
tâm, li hi han tai đó, nhưng chng mt ai, chng mt ai trong cái làng y thc lòng
để m đến Chí. Tiếng chi chua chát y mđầu cho câu chuyn thương tâm vcuc
đời Chí.
Chí Phèo vn sinh ra đã bt hnh, thiếu thn syêu thương, tình thân gia đình. Hn
đưc mt ngưi đi thả ống lươn thy vi bộ dạng trn trung đt trong cái váy đúp nơi
gch bkhông nht vrồi đem cho mt goá mù. Trtrêu thay, mlại bđem
bán cho phó côi, mt ngưi già không con. Khi bác phó côi chết đi, Chí li
sống mt thân mt mình, bơ vơ.
Cuc đi không may mắn ấy li cthế vận vào con ngưi ti nghip kia. Chí phi đi
làm thuê cuc n đcái ăn nuôi sng bn thân mình, vy, Chí vn rt chăm
chlại lương thin lòng ttrng. Cũng như bao ngưi khác, Chí cũng khát khao
đưc bình yên trong ngôi nhà nh"có mt gia đình nho nh, chng cuc n,
cày thuê, vdệt vi", vy đy, nhng ngưi nông dân nghèo hđâu mong giàu sang
phú quý chmong đưc m êm, tình cm yêu thương gn dành cho nhau ri cùng
nhau cố gắng mà làm ăn vy thôi. Nhưng ngay cả đến cái ưc mơ nhnhoi y cũng xa
vời vi Chí, đng cay hơn, Chí phi tri qua nhng bi kch ti tnht cuc đi.
Vào làm thuê cho Kiến, slẳng ca vba trChí Phèo phi chu cái
ghen oan ca Kiến. Bđẩy vào ti ngót 7, 8 năm tri, Chí Phèo trthành mt
con ngưi khác, mt còn ngưi mt đi chình hài vn có, mt đi cnhân tính trưc
đây, giđây ngưi ta xem Chí như mt con quỷ dữ của làng Vũ Đi..
Chí Phèo trở về với cái ngoi hình ghê s: "Cái đu thì trc lóc, cái răng co trng hn,
cái mt thì đen rt câng câng, hai mt m m trông gm chết”. Trong b
dạng vi chiếc qun nái màu đen, cái áo tây vàng, ngc, cánh tay chm trnhng rng
phưng, ai nhìn thy cũng phi tht lên "trông gm chết!". Cái nhân dng xu , ti
tệ đến thế nào còn tính cách ng thin thì ngưi đi còn đtâm, nhưng Chí
Phèo ra tù tính tình cũng đi khác, hn ung rưu say khưt cngày ttrưa ti ti, ri
vác thân đến nhà Kiến làm lon ăn v. Tưng cương quyết vch ti ác ca bầy
tht đc kia nhng chvài câu dngt, vài chén u tha, vài đng bc thuê, Chí li
xuôi lòng làm thuê cho hn "Chí Phèo chng biết hhàng ra làm sao, nhưng cũng
thy lòng nguôi nguôi....Vy không: cái cthét ra la y li xnhũn, mi hn
vào nhà xơi c. Thôi cũng h, đã xnhũn thì hn vào". Tên Kiến đc ác kia li
dàn xếp vi ý nghĩ ngông cung có tính toán ca hn: " Không có nhng thng đu
thì ly ai trnhng thng đu bò? " đdùng Chí Phèo như mt tên lưu manh, đu
bò. Chí đã sp by Kiến, tđấy hn làm hi không biết bao nhiêu ngưi, phá
phách ca ci ca bao nhiêu gia đình lương thin. Hn châm la đt nhà ca mhàng
u, hn đòi ncho Kiến ri thuênh hoàng: "anh hùng làng này cóc thng
nào bng ta!". Đưc nhn vài đng bc, vài sào rung, Chí càng hsung sưng, ri
đâm đu theo tên Kiên giang hùng, him đc. Theo thi gian, hn cthế như mt
kẻ danh, không tên không tui, "Bây githì hn đã thành ngưi không tui ri. Ba
mươi tám hay ba ơi chín? Bn mươi hay ngoài bn mươi? Cái mt hn không tr
cũng không già; không còn phi mt ngưi; mt ca con vt l, nhìn mt
nhng con vt bao gibiết tui?". Hn không cthbiến tui, trong làng xem
hắn dân lưu tán, vy ti li ca Chí nếu viết ra s cũng dài ngn giy "Bao
nhiêu vic c hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hi, ngưi ta giao cho hn làm!". Đau
đớn thay cái xã hi vi nhng ktàn ác, nhng kvì li ích, mc đích cá nhân mà đy
con ngưi đến đưng cùng ca stha hoá, dy con ngưi đi ttội li này đến ti li
khác. Chí trthành mt kgian ác bi bàn tay kgian ác to nên, Chí giđây không
còn Chí ca năm nào na, Chí chng hbiết đưc rng mình chính bây gilại "là
con qudữ của làng Vũ Ði". Ngưi ta xa lánh, shãi hn như xa lánh mt điu gì đó
đáng s, ghê tm.
Nhng ng ri s chng ai đánh thc đưc phn ngưi trong k tha hoá kia.
Nhưng chính trái tim yêu thương hay lòng thương hi ca mt gái xu li cho
Chí cm nhn đưc tình ngưi. Chí gp Th Nở nơi n chui khi hn đang say
khưt, sthú v hn cm nhn đưc t một ngưi "ma chê quhờn" làm hn "rn
rạo khp ngưi". Và sau i đêm trăng sáng y, Chí m mắt, cm nhn đưc hết
nhng điu xung quanh by lâu hn không hbiết, không hquan tâm ti, lòng
hắn chút bâng khuâng, llùng: "Hn bâng khuâng như tnh dy, hn thy ming
đắng, lòng mơ hbun. Ngưi thì bn rn, chân tay không bun nhc, hay là đói rưu,
hắn hơi rùng mình. Rut gan li nôn nao lên mt tý. Hn su cũng như nhng
ngưi m scơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vquá! tiếng i nói ca nhng
ngưi đi ch. Anh thuyn chài mái chèo đui cá", ri hn nôn nao nhlại nhng
ước bình dxưa kia ca mình. Bát cháo ca Thđã cu vt tâm hn Chí, Chí bt
đầu thy đưc thc ti quá nghit ngã ca mình, nghĩ vmột tương lai đy nhng ni
đc, đói rét ,m đau, hn bt đu thy shãi, shãi tt cùng. Còn biết scòn
tính ngưi, còn biết smới chính con ngưi thc trong Chí. Chí bt đu hồi sinh
chính mình, bt đu biết nhn thc vcuc đi mình mt ln na. Chí cm đng đến
phát khóc khi bưng bát cháo trên tay, bi ttrưc ti nay miếng ăn đu do hn p
bóc đưc, Thngưi đu tiên cho hn cháo mt cách tnguyn như thế. Chí
thy ăn năn hi hn, Chí khát khao, nghĩ suy đưc làm ngưi lương thin, đưc
cùng sng vui vvới mi ngưi xung quanh: "Tri ơi! Hn thèm lương thin, hn
mun làm hòa vi mi ngưi biết bao! ThNsẽ mở đưng cho hn. Ththsống
yên n vi hn thì sao ngưi khác li không thđưc".
Lấp lánh lương tri trong ngưi Chí li không ththng ni stàn bo ca hi lúc
bấy gi. Chí mt ln na li i vào bi kch. Hn mun đưc chung sng cùng Th
nhưng Thlại ctuyt hn, nhng li lcay nghit, ma mai nhưng sthc ca
cô khiến hn càng tc gin, đau đn. Dù đã cgắng nhưng mi sđều không ththay
đổi bi cái đnh kiến, nghĩ suy ngưi ta gán vào trong cái nhân hình ca Chí,
ngưi ta khinh sChí, không chp nhn mt knhư Chí m chng. Ni cay đng
cun trào, scăm thù càng ln, Chí vác dao hòng giết nhưng c chân ng
đến nhà tên Kiến, bi trong Chí lúc này đã hiu ra rng, kđẩy hn vào đưng
cùng, vào kết cc tàn nhn bthm này tên Kiến hung tàn chkhông ai khác.
Chí đã giết chết Kiến, kết thúc cuc đi đy đau kh, bi đát ca chính mình. Mt
cái chết đáng thương, mt cái chết đlại cho lòng ngưi nhng nghĩ suy , trăn tr, cái
chết tcáo mt xã hi thc dân đã đy nhng ngưi khn khvào cái chết bi thương.
Đến khi chết, Chí vn kêu gào nhng tiếng xót xa: "Tri ơi! Hn thèm lương thin,
hắn mun làm hòa”. “Không đưc! Ai cho tao lương thin? Làm thế nào cho mt
đưc nhng vết mnh chai trên mt này? Tao không thlà ngưi lương thin na. Biết
không? Chcó mt cách... biết không! Chcó mt cách là... cái này biết không?"
Bằng vic đt nhân vt vào hoàn cnh đin hình, Nam Cao đã khc honên nhân vt
Chí Phèo hết sc thành công. Qua nhân vt Chí Phèo ta hiu hơn đưc nhng khn
khcủa ngưi nông dân trưc cách mng, thêm căm phn mt hi ngay chính
cả quyn đưc sng, đưc làm ngưi ca con ngưi cũng bc đot.
Phân tích nhân vật Chí Phèo học sinh giỏi
Nam Cao nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông
đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng
ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm
sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo
cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng hành động của Chí Phèo từ khi
gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn
cảnh cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà,
Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình ai, chỉ độc lớn lên như thế dưới bàn
tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng.
Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước
mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà thực dân đã biến một người tốt thành
một tên lưu manh, rồi lại bị Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến
tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua
những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo
thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện chỉ
trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ
sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến ng hôm
sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác
miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn.
Nhưng với Chí, đây cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn
say. lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh
sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng
chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào
chả có, nhưng đây lần đầu tiên Chí thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn
chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những
ước bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước một gia đình nhỏ,
một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính
mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai độc với tuổi già đau ốm… hắn
càng càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được độc còn đáng
sợ hơn là đói rét và ốm đau.
Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân
nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng
về thị Nở, khi Thbước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu,
xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao
ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh
đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn
thấy mắt mình ươn ướt”. Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác
nhau, trước hết ngạc nhiên, đến cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể
ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ i căm ghét của cả dân làng, con quỷ làng
Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy giờ đây,
người đem đến cho hắn, đến gần hắn không sợ hãi hay căm ghét còn mang
lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào:
hình như hắn khóc.
Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà.
thể sự chăm sóc của Thị một cử chỉ bình thường của một con người dành cho
một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây lòng tốt hiếm hoi, duy nhất
Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa
buồn, như ăn năn, hối hận những việc ác mình đã làm. Nhưng với hiện tại
như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm
nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy
“thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống
chung…” Vậy hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc
mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa.
Khi tỉnh rượu cũng chính lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình
hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cùng thị Nở.
Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Đại vẫn một con người rất đáng
thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với
người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được
bao lâu, sự trvề của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi
kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để
rồi trở thành hiện thân của con qudữ cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm
Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội lực lượng không kém phần
tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến hội ấy chính
cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm
người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình
người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan.
Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt,
bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí “ngẩn
người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay”nhưng không được. Đau đớn cùng cực,
Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” “tỉnh ra, chao ôi,
buồn”. Rượu không thể làm liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn
thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định
trả thù kđã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay
không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ
cơn say, Chí nhận ra Kiến mới chính kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người
linh hồn của hắn. Đây thể coi giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra về,
tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện?”, tỉnh táo để thể hiện mong muốn
cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện!” tỉnh táo với sự thật
phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu
nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí
Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn
không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất cái chết để
được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này.
thế hắn tự đâm mình, chết vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều đó trong khát
vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo
chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí
phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí
phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu
sắc. thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo
cũng lời tố cáo mãnh liệt hội thực dân phong kiến không những đưa người nông
dân vào con đường cùng bần hoá, còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình
khi phát hiện miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi
họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người.
Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền
được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là
chiều sâu tưởng giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành
công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic;
tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. thể đáng
giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở
một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ tập trung tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của
Nam Cao. một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một
cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Kiến không hiểu nổi mà cảhội bấy
giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét
đặc sắc nhất đánh dấu “Chí Phèo” trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của
văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích nhân vật Chí Phèo ngắn gọn
Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 thời kỳ cùng đen tối trong lịch
sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực
dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý khai thác
tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt
đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,...
Nhưng lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt
vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh
lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo một
nhân vật điển hình gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang
những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho
đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất bi kịch bị từ chối
quyền làm người.
Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn
bị người ta bỏ rơi bên cái gạch trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ,
biết bao nhiêu đáng thương xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau
thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn
Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng
lấy nửa phần may mắn được một gia đình tử tế nhận nuôi, bị truyền tay hết từ
người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng
Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành,
chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Kiến, kiếm sống bằng
chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với
những ước dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước một mái ấm hạnh phúc,
chồng làm ruộng vợ dệt vải, mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ
ước quá cao xa bồng bột, nhưng lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi
đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn căn nguyên dẫn đến những tột cùng
bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự
trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của ba - vợ Kiến, nhưng một
chàng trai đang độ tuổi thanh xuân Chí lại chẳng hề chút suy chuyển, Chí chỉ
thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy,
về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một
triết rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta
không đá, nhưng cũng không hoàn toàn xác thịt. người ta không thích cái
người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập
dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng
lương thiện của mình.
Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của người thống trị,
một người đàn đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực Kiến
chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội
nghiệp. thế Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống
thẳng vào 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với quan sai. Nhưng đâu phải một
cái nhà bình thường cho người ta hội được sống, được cải tạo, mặc Chí cũng
chẳng làm sai. cái nhà ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một
kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên
sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là
nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung giờ đây người ta
chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người dáng vẻ khác thường, khác người
“trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì
đen rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen
với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một
ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không
còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, trước mắt chỉ thấy
một kẻ giống đặc như lưu manh, rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi
chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã
say khướt thì chân nam đá chân chiêu đến nhà Kiến vừa đi vừa chửi, không ai
dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài,
người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta
còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với
Cường con trai của Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, ăn vạ một cách
cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me
chảy bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con
nhà mày đây thôi”. Như thế thể thấy rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về
nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm
Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá
Kiến sợ, nhưng trái lại lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như kiến,
bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học
của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường
không thể vãn hồi. kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã
thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn,
trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thuê Chí Phèo lại không hề nhận
ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, vẫn ngày ngày bán lẻ
nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong
tầm mắt của làng Đại, Chí đã trở thành một con ấy rất lạ, không phải một con
người nhân tính một gương mặt “vàng vàng lại muốn xạm màu gio;
vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc thấy xót xa cho một
kiếp người chẳng được làm người, lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ
vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của
hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say,
ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc
say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say tận” Suốt 15 năm, nhưng đời
người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình
với sự ủng hộ tuyệt đối của thống trị phong kiến tay sai, thật t xa đau đớn.
Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng Kiến chỉ đạo, biết
“bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”,
rồi riết hắn nghĩ đó chính cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn thể nhận ra rằng,
Chí Phèo dẫu tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm,
nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ xa lánh. Hắn chửi trời,
đất, chửi tất cả “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”,
để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai
thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa,
Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong
cô độc và tuyệt vọng.
lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại đấy thôi, nhưng không cái hội thối nát này
không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp
gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống
vào tù. Người đàn xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng
sủa về thế giới xung quanh, đó tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười
đùa, cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề
ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể
yếu ớt, rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của
cuộc đời trong thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu,
bệnh tật sự độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự đơn, bởi vốn hắn đã
đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã
làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời
lương thiện, làm sống lại những ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện,
hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng
phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm tha, cuối
ng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái
tình người của Thị Nở, rồi sau đó tình yêu với thị, những mong ước lẽ sẽ trở
thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường,
được hưởng hạnh phúc hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương
của làng Vũ Đại.
Nhưng trời nào chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của cô,
người đàn ế chỏng trơ, thấy cháu gái chồng thì liền không cam lòng, sự dở
hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu
không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng hội những định kiến
sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Kiến
và tsát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân
vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong
tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm
quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.
Chí Phèo của Nam Cao một tác phẩm xuất sắc tiêu biểu nhất cho nền văn học
hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người
nông dân trong hội sự tàn ác, nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con
người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không
kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm
lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày
vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 1
Để chọn một tác phẩm hay nhất phản ánh được tận cùng thân phận của người nông
dân trong hội thì không thể không nhắc đến tác phẩm Chí Phèo. Mới đầu người
ta nghĩ nhân vật anh Pha trong “Bức đường cùng” của Nguyễn Công Hoan bị sưu thuế
đè nặng đẩy vào tình cảnh nghèo đói, không lối thoát. Rồi cho đến nhân vật chị
Dậu người ta lại thấy tình cảnh người nông dân khổ sở thêm mức nữa bởi chị phải bán
chó bán con để đóng sưu. Tưởng chừng không còn để khổ hơn thì Chí Phèo trong
trang sách của Nam Cao ngật ngưỡng bước ra thì người ta mới cảm nhận thấy được
đây mới là sự tận cùng của cái khổ. Chí Phèo bán cả nhân hình lẫn nhân tính của mình
để nhận được cái kết trở thành quỷ dữ của làng Đại. Nhân vật CPhèo chí
hiện thân đầy đủ nhất về nỗi khổ của người nông dân trong hội khiến cho tác
phẩm “Chí Phèo” vẫn còn sống đến tận bây giờ.
thể thấy được nhân vật Chí Phèo hiện lên với một nỗi bi kịch. Đó chính là bi kịch
của một nông dân cùng khổ đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, Chí Phèo đã
bị cự tuyệt quyền làm người. Nói một cách dễ hiểu thì số phận bi thảm của một con
người muốn được làm người đây quyền ai cũng cả thế nhưng với Chí Phèo lại
không được như thế. Nhà văn Nam Cao thật tài tình khi đã viết về tấn bi kịch của nhân
vật vô cùng sắc sảo. Thêm với đó thì luôn biết biến hóa lúc kể, lúc tả, có lúc thì triết lí
thì thấm thía cùng trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật. Đồng thời
cũng đã lại làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỷ nay.
Nhà văn Nam Cao dường như không nói về sưu thuế đã khiến con người được
những khám phá riêng về chính số phần của người lao động. Người lao động bị chà
đạp đồng thời họ cũng một cái nhìn thật mới mẻ cũng thật độc đáo, sâu sắc
trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông n nghèo bị áp bức, bóc
lột đến tàn tệ trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến.
Xây dựng lên nhân vật Chí Phèo bất hạnh chính ngay từ khi sinh theo lời kể của
nhà văn Nam Cao “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch
bỏ không”. Thế rồi anh thả ống lươn thấy đem cho một người đàn góa
nuôi, sau đó Chí Phèo cũng lại bị đem bán cho bác phó cối. Chí Phèo một anh nông
dân lớn lên trong cảnh vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, lại còn nghèo
đến mức không một mái lều che thân cũng chẳng có lấy một tấc đất cắm dùi. Chí Phèo
sống cứ hết đi cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ cho đến năm 20 tuổi thì nhân vật Chí
Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Nam Cao nói về trang đời thơ ấu cùng bất hạnh của Chí Phèo đó chính khoảng
thời gian 20 năm trời đắng cay. Chính tấn bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ câu
chuyện Ba ông còn trẻ lắm Ba lại cứ “hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay
xoa bụng, đấm lưng đấy”. Chí Phèo người chứ không phải gỗ đá, nhưng hắn
thấy nhục hơn thích, huống hồ lại sợ. Thế rồi xuất phát chỉ một chuyện ghen tuông
không đau thôi Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí Phèo giải lên
huyện, đồng thời cũng lại bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Khi Chí Phèo nhà tù thực dân
đã biến anh từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, trở
thành một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Chí Phèo đi tù biệt tăm và rồi khi trở về thì trông ngoại hình của Chí đã khác hẳn. Câu
văn miêu tả “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen rất câng
câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng,
cái ngực cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy”... Tất cả đó
một hình ảnh của CPhèo, đã vậy Clại chuyên rạch mặt ăn vạ. Ra phải đến
nhà Kiến để hỏi tội Chí Phèo đã hành động như một tên đầu cùng ngang
ngược. Thế nhưng chỉ một bữa rượu thịt, một vài câu mơn trớn thêm với đó một
đồng bạc đãi thêm của cụ đã làm cho Chí Phèo vô cùng hả hê và quên hết Bá Kiến
đã đẩy mình vào tình trạng như thế.
Chưa hết, Kiến hiểu được “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ 2 sợ kẻ cố cùng liều
thân” cho nên đã ngon ngọt nịnh Chí Phèo trở thành đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán mình cho quỷ dữ cũng chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ
dữ ghê tởm khiến ai ai cũng phải sợ. Chí như cứ triền miên, chìm ngập vào trong vũng
bùn vô cùng tăm tối và tội lỗi với hơi rượu. Rượu đã làm cho Chí Phèo mất hết ý niệm
về thời gian, tuổi tác, Chí không nhớ một điều nữa cả. Hình ảnh Chí Phèo hiện lên
là một con vật lạ, trên mắt có đầy những vết rạch mặt dọc ngang thật ghê sợ. Chí Phèo
đâm thuê chém mướn để kiếm tiền uống rượu, cứ những cơn say của Chí như cứ
từ cơn say này sang cơn say khác. Chí đã bị mua chuộc, bị đẩy vào con đường lưu
manh hóa bao nhiêu tội lỗi. “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu nghiệp, đập nát
bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của
bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo lúc này đây cũng đã bị cả hội ruồng bỏ, ngay cả cái thẻ biên tên tuổi
của Chí Phèo cũng không trong sổ làng. Thế rồi chính người ta vẫn khai hắn vào
hạng dân lưu tán đã rất lâu năm không về làng. Thực sự giờ đây mỗi khi hắn xuất hiện
thì cả dân làng đều sợ hắn, thậm chí còn tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Chí Phèo
chửi thì ai cũng nghĩ chắc “nó chừa mình ra”, tiếng chửi như xuất hiện ngay đầu câu
chuyện khiến nó cứ ám ảnh về một con người nhưng lại bị cả xã hội không công nhận.
Người ta giao tiếp với nhau bằng tiếng nói còn đối với Chí Phèo thì lại dùng tiếng
chửi. Thế nhưng cũng không ai để ý đến Chí nữa, Chí Phèo như đã bị xã hội dứt khoát
cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ
biến đồng thời cũng tính quy luật nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc. Trong
chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến cũng rất nhiều người lao động lương thiện bị
hội đẩy vào chính con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để
tồn tại. Qua tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một điều đó chính
chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, nhẫn tâm, độc ác áp bức bóc lột tàn tệ dân
lành thì chừng đó chắc chắn sẽ còn người lao động lương thiện, hiền lành bị đẩy
vào con đường lưu manh tội lỗi. Chính cái hội đó cũng đã lấy mất đi linh hồn của
Chí Phèo, hủy diệt nhân tính, nhân hình của một anh nông dân chất phác. Nhà văn
Nam Cao cũng đã cho thấy được quy luật bạo tàn, ghê sợ trong xã hội cũ.
rồi cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở. Thị Nở được miêu tả một người xấu đến
ma chê quỷ hờn. Sau cuộc làm tình mang tính bản năng của Chí Phèo thì với sự chăm
sóc cẩn thận của Thị Nở Chí Phèo lúc này cũng đã khiến cho Chí Phèo thay đổi. Sáng
hôm sau, lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh dậy trong cơn say triền miên tưởng không dứt.
Chí Phèo bị cảm Thị Nở đã chăm sóc cũng như nấu cho Chí một bát cháo hành.
Cuộc đời Chí muốn ăn thì phải cướp, giành lấy chứ chưa bao giờ được ăn và lại được
người khác mang cho như này. Chí Phèo một con quỷ dữ của làng Vũ Đại ai ai cũng
sợ hắn và duy chỉ có thị Nở mới nhận ra Chí Phèo sao mà hiền!
Chí Phèo tỉnh trong cơn say triền miên thì có những tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người
đi chợ cười nói cả tiếng anh thuyền chèo mái chèo đuổi cả... Tất cả những điều
này đó chính những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới
nghe thấy nhất, đó chính tiếng của nhịp sống lâu nay Chí đã bỏ quên. Trong
lòng Chí Phèo như cũng cùng buồn mong muốn thể làm hòa với mọi người,
muốn trở thành người lương thiện. Bất giác Chí như nhớ về ước mơ bình dị bấy đó
ước “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nuôi lợn
làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Chí nhớ lắm Chí lại lo sợ về
cuộc đời, Thị Nở chính là người đã khiến cho Chí nhận ra được cuộc sống ý nghĩa.
Bằng con mắt tinh tế, thấu hiểu nhân vật nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí
Phèo vốn một người lao động cùng khổ lương thiện. Chí thì cái bản tính của hẳn
ngày thường bị lấp đi và được sự chăm sóc của thị Nở thì nay đã hồi sinh trở về. Thực
sự đó cũng chính một cái nhìn cùng sâu sắc cùng với tấm lòng xót thương đầy
tình người của nhà văn đối với những kiếp người lương thiện mà bị xã hội xa lánh.
Khi linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra thì bỗng nhiên Chí Phèo
bỗng thấy thèm lương thiện thế những định kiến hội thị Nở cấm đoán đã
khiến cho Chí không thể hoàn lương. Ở Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng
và muốn “đâm chết con đĩ Nở kia, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Chí lại tìm đến
rượu, khác với những cơn say khác Chí rất tỉnh táo khi nhận ra được kẻ thù của
mình chính Kiến. Chí xách dao đến nhà Kiến để đòi lương thiện bằng cách
đâm chết Kiến sau đó cũng tự kết liễu đời mình. Khi ý thức về nhân phẩm đã trở
về thì Chí Phèo không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ không thể
chấp nhận được kiếp sống như thú vật được nữa. Cái chết của Chí Phèo rất bi thảm,
quằn quại trên vũng máu của mình. Anh chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, ám
ảnh vì anh chết ngay trên ngưỡng cửa về cuộc đời.
Nhân vật Chí Phèo một nhân vật, một hiện tượng lưu manh hóa nông thôn mang
tính chất điển hình. nhân vật cũng đã lên án đanh thép cái hội tàn bạo đẩy người
dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, hội đó cũng đã cướp đi của họ cả bộ
mặt, cả linh hồn người để trở thành quỷ dữ. Câu nói của Chí Phèo kết thúc chuyện
thực sự ám ảnh, giống như một lời tố cáo đanh thép của nhà văn trước hội đầy
bất công đã đẩy người nông dân vào mức đường cùng không lối thoát. “Ai cho tao
lương thiện?”
Với tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn đã viết lên một câu chuyện như vừa chứa chan tình
cảm nhân đạo, đồng thời cũng lại mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình
thức nghệ thuật độc đáo. Tất cả từ hình thức đến nội dung của truyện đã đạt đến độ
độc đáo, xứng đáng được coi một kiệt tác văn học của dòng văn học hiện thực phê
phán.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 2
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân mối quan tâm hàng đầu của
dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công
Hoan Bước đường cùng với anh Pha,… đặc biệt Nam Cao với hàng loạt tác
phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình
tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng
người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách
độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa
đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời,
chửi cả làng Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được
bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng
tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải lần đầu tiên
hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong hắn chửi”. sao hắn lại đến nông
nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người
đọc đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo
vào lòng người một niềm xót xa hắn anh ta phải nỗi niềm khổ đau nào đó mới
đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói
lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người
trên thế gian này. Người đọc mò đọc tiếp trang truyện quả thực, cuộc đời Chí
Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong
đợi. Nói trắng ra, hắn một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại
hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi
hắn thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo
khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác
phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ muốn miếng ăn Chí
phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh,
tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng
tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập
dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây
mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình Kiến. Đen cửa nhà
giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con
vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn
vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu tình yêu chân chính đâu
thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí
thực sự chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó bản chất tốt đẹp của
người nông dân xưa, chất phác, thật thà đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó
thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên
quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc,
lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như hách dịch” mọi sgiúp đcủa mọi
người, cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con
người mình.
Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà thực
dân đã tiếp tay cho tên cường hào Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương
thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”,
"răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái
dị bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc
ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu
biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể
hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt
quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác đáng sợ hơn khi
rơi vào tay Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho
vài hào hắn thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những người ta sai. Càng ngày
Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã một phát hiện mới trong đời
sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại việc miêu tả đời
sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã Tắt
đèn, đã Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao đã chỉ ra con đường
bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương
thiện đầy tự trọng. những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm
sao thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra
thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó
những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào khắc, tàn
bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại rồi bôi bẩn
những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó
giống như mặt trời thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ
dài man, cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. thúc giục Chí Phèo trở thành
người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời CPhèo.
Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị N
chang khác nào dòng sông lấp lánh ới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức
dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm sống lại thực sự sống lại trong kiếp
sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành
cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí
Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý
thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê
cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm,
hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi
chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có?
Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha
hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt
nước” “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình
dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó
“lăng kính biến hình của trụ”. Ta cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền
trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan qkhứ tối tăm, u ám của hắn. lẽ chính
giọt nước mắt nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn
hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay mình
sang với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương
thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị
Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng
đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của
anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời
Chí Phèo gặp được tưởng, mục đích sống của đời mình. nằm nơi người đàn
xấu cả hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất
ai cũng phải giật mình nhìn lại những mình đang đế nâng niu thấy trân
trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn
bởi Thị không cho phép cháu lấy một thằng “chỉ độc một cái nghề rạch
mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong
hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã
bị cả hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt
vọng muốn làm người không ai công nhận. Thế hắn tìm đến rượu “hắn càng
uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn
giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng
nước. Vậy đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ kiếp chó thôi.
Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn
được Nam Cao tả cùng tinh tế hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa
say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi
theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không
xin tiền đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng
tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”.
Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một
câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một
niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu
trong cái hội ngục tăm tối y. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết Kiến tự
kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý ởng sâu xa góp phần tạo nên
giá trị hiện thực của tác phẩm. CPhèo chết đã trthành một bản án tố cáo hội
đương thời, một hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của
những người dân lương thiện. Chí chết cũng nghĩa anh ấy không chịu quay lại
con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy
thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó sự cảm thông cũng
niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của CPhèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những
nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó nguyên nhân khách quan,
hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng
nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay
lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu bà
Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống
trả (dẫu sự chống trả cùng tiêu cực, nhưng h còn biết làm hơn?) bằng con
đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với cách
những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để
Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra
vắng người qua lại. Rất thể một CPhèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình
tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công khái quát thành quy luật bản
chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt hội ấy
đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động
lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước ch mạng tháng Tám.
Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng
định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại
quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn
học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn
hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 3
Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt
Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng
quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi những con người hiền lành bị đẩy lui
vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được
Nam Cao dựng lên một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình
cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong hội Việt Nam trước
Cách mạng.
Chí Phèo kiệt tác của Nam Cao, kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt
Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi
nghèo đói những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ
khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra lớn lên giữa
một hội như thế, một hội mà định kiến thể giết chết một con người luật lệ
thì được dựng n trong tay những kẻ quyền. Chí Phèo đã sống bị những định
kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một
"con quỷ" sống của làng Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ bên ngưỡng cửa
được trở thành người lương thiện.
Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại một cách vào truyện
đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa
mĩ, đẹp đẽ mà lại tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi
ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo một con người "từng lương
thiện".
Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng "Râu hùm, hàm én, mày ngài", không
một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say "Hắn vừa
đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong hắn chửi". Sự xuất hiện của hắn thật
đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của
một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.
Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới cớ
khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy
nghe vẻ thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy cùng logic, cùng
đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí
bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng "Trời có của riêng nhà nào?", thế là
hắn "chửi đời", nhưng "đời tất cả nhưng chẳng ai". Rồi hắn lại chửi cả làng
Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo
cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như cớ ta lại thấy hợp cùng. Hắn chửi từ cái
chung đến cái riêng, từ cái cùng đến cái cthể. Chửi vậy mới đúng một tên say
rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ hội, chỉ một
tiếng chửi, vậy chẳng ai quan m đến "không ai lên tiếng cả", chỉ bởi hắn một
"con quỷ" khiến ai cũng khiếp sợ.
Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài
tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu
manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những
cơn say cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới thể chửi đời,
chửi trời, chửi cả làng chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới
thấy, lẽ tiếng chửi phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn
nhận ra hắn đang được sống giữa hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế
nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, lập hắn vào giữa cái hội thu nhỏ, để hắn
trở nên lạc lõng, cô đơn.
Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tự hỏi, tại sao Chí lại
người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Cđã trở thành một kẻ nghiện rượu, một
tên lưu manh như thế? Hay còn sao, do đã đẩy hắn đến bước đường cùng
như thế?
Chí Phèo hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí,
một kẻ luôn "triền miên say", luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng
một con người ơng thiện hay chưa? Vâng, đúng thế, đúng CPhèo cũng đã
từng một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo
cái làng Vũ Đại này.
Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn "Hắn không biết, cả làng
Đại cũng không ai biết", bởi hắn được vứt bên một cái gạch được một người
đi thả ống lươn nhặt được "trần truồng xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái
gạch bỏ không". Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được
lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun
đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất
phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống
nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao
động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền
lành khác, những ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một
người con gái để xây lên "một gia đình nho nhỏ" "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải". Ước ấy đơn giản làm sao, nhỏ chính đáng làm sao. Thế nhưng,
những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.
một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng lòng tự trọng tự tôn
như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị Ba của Kiến gọi tới
"bóp chân", hắn đã làm thật miễn cưỡng, "hắn thấy nhục hơn là thích". Hắn có lòng tự
trọng, ý thức về nhân phẩm của chính mình, lẽ chính vậy, khi bị bắt làm cái
việc không chính đáng ấy, "hắn vừa làm vừa run".
Phải, Chí Phèo vốn đã từng một người nông dân lương thiện như bao người nông
dân khác trong hội đương thời ấy, trong cái làng Đại ấy. Hắn ước mơ,
lòng tự trọng, sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm
chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân
hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.
Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù
và trở thành một "con quỷ" khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù,
Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu ai nghĩ rằng đã từng một Chí
Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?
Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết trong tác
phẩm, Chí Phèo bị Kiến ghen nên đẩy vào tù. Kiến ghen ghét chàng lực điền
cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện đẩy hắn vào tù. cuộc sống trong
chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành
một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.
Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con
người. Hắn chẳng còn chàng trai chất phác như xưa nữa triệt để thay đổi ngoại
hình "Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết". Không chỉ thế,
trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào "quần nái
đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một
ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Chí Phèo đã thực sự
biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền
lành, chất phác giờ đây lại trông "đặc như thằng săng đá" khiến cho tất thảy cả cái
làng Đại "mới đầu chẳng biết ai". Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán
bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.
Thế nhưng, cái nhà đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn
trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo còn thay
đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một "con quỷ" của làng Đại. Xưa
kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ
đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt "hắn về hôm trước, hôm sau đã
thấy ngồi chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt ",
mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi hành cái nghề "ăn vạ" của mình. Hắn trở thành
một tên lưu manh chính hiệu "sống bằng dọa nạt hay cướp giật", bởi hắn đâu còn
mục đích để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã ghìm thật
sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.
Đến sau này, sau một lần ăn vạ Kiến không thành được Kiến dỗ ngọt, Chí
Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm,
đâm thuê chém mướn cho Kiến. thế cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến
người dân làng Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn một con người nữa, hắn
đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của
mình mất rồi.
thể nói Chí Phèo chính một nạn nhân trực tiếp của nhà thực dân, của hội
đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn điển hình cho hình ảnh một người nông
dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương
thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã
hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng một Chí Phèo tha hóa đến mức
như thế!
Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật
điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ
chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại
nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.
Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa trở
thành một kchuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã cùng nhân
đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh
sáng đó chính Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo Thị Nở đã khiến
hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả hấp dẫn đặc biệt, bởi "ngưu tầm
ngưu, tầm mã", thế nhưng lại một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc Nam
Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.
Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức
Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn người phụ nữ "xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng", đã ngoài ba
mươi tuổi nhưng xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần
Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say
trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí
cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng ân tình của người đàn
ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu ới tận đáy. Linh hồn
Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải một con quỷ
nữa.
Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy không say. Hắn nhận ra "trời đã sáng
từ lâu", nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày "tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá! tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài
mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có."Lần đầu tiên sau
bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những
tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có
"nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…". Hắn chợt "bâng khuâng" và thầy "lòng mơ hồ
buồn". Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của
Chí, đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy cuộc đời của
mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa "cái rất xa xôi", nhắc cho hắn rằng hắn cũng
từng ước về một cuộc sống êm đềm như thế "một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng cái ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn
nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi "tỉnh dậy hắn thấy
hắn già vẫn còn độc". cái tương lai phía kia còn đáng buồn hơn "Hắn đã
tới cái dốc bên kia của cuộc đời", vậy chẳng ai bầu bạn, chẳng để nuôi
thân, sớm thôi "hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và
độc". Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi
hắn "bao giờ cũng say", thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo ý thức
được số phận của mình.
Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo
nhận thức được, bởi vậy hắn những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người
khác cái sợ về tuổi già sự ốm đau, sự độc. Ngày trước, hắn một con quỷ
"sống bằng dọa nạt cướp giật" thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm
xúc đời thường, những ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang
trở về với hắn?
khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn "rất ngạc nhiên"
thực sự xúc động "bởi lần này lần thứ nhất hắn được một người đàn cho". Hắn
nhận bát cháo từ tay Thị nở bỗng nhận ra rằng "cháo hành ăn rất ngon". Bởi bát
cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành còn được nấu bởi hương vị của
tình yêu tình người, của yêu thương chân thực hạnh phúc giản dị, và tất cả những
cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà "hắn thấy mắt hình như ươn
ướt", một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai thể nhận ra đó cái thằng Chí Phèo vẫn
thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực
trở lại anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước giản dị
khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí lẽ chính
giọt nước mắt hạnh phúc người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường
cùng, con người vô cùng.
Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở
lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông n lao động cái bản chất đã bị vùi lấp tận
sâu bởi bọn cường hào hội thực dân. thể nói, linh hồn của người nông dân
nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy cường hào, thực dân trong hội, chúng
muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã
thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại
khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh
hắn, "hắn thèm lương thiện", hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã
tưởng đến cuộc sống mà chính Thị người sẽ mở đường cho hắn hắn sẽ được
nhận vào "cái hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Chí Phèo
đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.
lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu thể
biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho tình yêu ấy bị chế giễu, những con
người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân
thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với
những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở - người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi
lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó một tưởng
nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.
Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ vậy
còn những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết
thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những
tình huống mới.
nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo một bi kịch của số phận, của tạo hóa
trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là
bi kịch thực sự thì phải khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời,
khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người.
Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị "Hay mình sang đây với tớ một
nhà cho vui", một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí
vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như ước của Chí ngày
xưa nhưng không. Định kiến của hội tiêu biểu ở đây Thị Nở đã tước đi
của hắn cái quyền làm người ấy. Bà Thị một kẻ không chồng, đã ngoài năm
mươi tuổi khi thấy Thị hỏi về cái việc ấy, đã một mực ngăn cản Thị đến với
Chí Phèo "Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng", "Đàn ông đã chết hết cả rồi
sao, lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là
rạch mặt ra ăn vạ?".
Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng
không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến
về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy
vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.
Từ khi Thị Nở đến "trút vào hắn tất cả những lời của cô" rồi "ngoay ngoáy cái
mông đít đi về" thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia schẳng bao giờ công
nhận mình. Ban đầu, hắn còn "ngạc nhiên", còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ
chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, "hắn nghĩ ngợi
một rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt
vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái hội ngoài kia,
nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế
thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!
Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp
hắn trở lại hắn, một con quỷ, "là một kẻ mạnh". Thế nhưng, càng lạ hôm nay,
hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". lẽ hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên
hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng
của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra,
mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình thấm thía nó. Những giọt nước mắt
của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện "hắn ôm mặt khóc rưng rức", thế nhưng chẳng còn
giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương giọt nước mắt của tận cùng đau
khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối,
muốn thoát ra, muốn trở lại với một "xã hội công bằng thân thiện của những con
người lương thiện" để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng
chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của hội đã giết
chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn
có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.
Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo xách dao đi, ban đầu hắn
lẩm bẩm tự nhủ phải đi "đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó".
Hắn cứ lảm nhảm, "cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó", nhưng "nó" là ai? Lúc này, sau khi
tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết i kẻ đã đẩy hắn đến bước đường
ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn "cứ đi", nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại
xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Kiến, Chí Phèo "trợn mắt, chỉ vào mặt" lão
dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị
rạch nát của mình.
Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trvề thì chẳng thể ác được nữa,
bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú
vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi
đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết
trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo
phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt
giữ lại linh hồn lương thiện của mình. nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn
nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra,
ông thực ra đã cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy.
Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp độc, phải chịu đựng bi
kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, lẽ hắn sẽ thanh thản, thể sẽ lại
được trở về làm một người lương thiện lần nữa.
Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao
thống thiết được trở lại m người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với
Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day
dứt "Ai cho tao lương thiện?", ai cho hắn được một lần nữa một con người, được
sống một cuộc sống con người?
Cái chết của Chí Phèo hành động giết chết Kiến không chỉ mang một lớp ý
nghĩa. Qua hành động giết chết Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây một sự
trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Kiến những kẻ đã
đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán
linh hồn cho quỷ dữ để được sống. một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức
về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng những kẻ phải
nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết
bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó bi kịch của những người nông dân
mong muốn được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với hội, được yêu
thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.
Nam Cao đã cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người
nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây
dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong hội để đặt nhân
vật vào trong đó, vừa làm nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện,
vừa làm mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở
thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn
lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.
Ít nhà văn nào được cái nhìn đầy tinh tế sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây
dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình,
đặc biệt nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ bi kịch cuộc
đời của con người ấy giải hết sức cặn kẽ thấu đáo. Qua bi kịch của người
nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến khắc,
với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể được hạnh phúc
nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp
cổ họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện hạnh
phúc.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí
Phèo một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao
thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu
tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để
đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau
khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong hội Việt Nam trước khi Cách
mạng thành công.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 4
Chí Phèo một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong hội cũ,
một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo một con người lương thiện, luôn
khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị
xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra
trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí
Phèo Thị Nđã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính
sự xuất hiện của Thị đã cứu CPhèo thoát khỏi tấn bi kịch đó chỉ trong phút
chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả
đã cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về hội nông thôn Việt Nam
trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh
hoàng… được đặt tên Cái gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác
phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân
bị tha hoá trong hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái hội
ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như CPhèo mất đi niềm
khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm
ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta thể thấy hắn một đưa con rơi, ra đời trong cái gạch
cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền
trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Kiến gọi lên “bóp chân”; Kiến sanh long ghen
tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ
Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ một lần hắn tỉnh
thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ.
Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng
chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” “và thoáng hiện ra cái gạch
cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí
Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục
không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm nhân vật thật xuất
sắc. Ta thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một
lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít”
lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng
lần đầu tiên hắn những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói
của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng
cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc chỉ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn
độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu
từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã
thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người
những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để
được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy nó thật trừu tượng cụ
thể, xa đến gần, thứ tự cùng văn vẻ. Tiếng chửi khao khát được giao tiếp
với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng lại không được ai đáp lại cả.
Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự
bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bát cháo hành sang cho Chí
Phèo. Hương vị cháo hạnh hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị
to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi.
Lần đầu khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã
quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình
thường?! Lần thứ hai lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng
càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất
hiện, đó ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người
một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi
đến lúc gặp mặt Kiên, những hành động đó mới thế làm người cuối cùng
trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã
chết nhưng còn lại trong lọng người đọc Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc
đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không
bằng lòng sống như trước nữa. Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể hành động lưu manh sự vùng
lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo
rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp
diễn.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 5
“Chí Phèo” (1941) một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài
nông dân trước Cách mạng. một truyện ngắn thể “làm mờ hết các tác phẩm
khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn
hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển
hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu
biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo bi kịch của một nông dân cùng khổ bị đẩy vào con đường lưu
manh tội lỗi, bcự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác số phận bi thảm
của một con người muốn được làm người không thể được Nam Cao đã viết về tấn
bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết
thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng
người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế man, không nói về tức mà ông những khám
phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu
sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức
bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp
để bên cạnh gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy đem cho một người
đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ,
không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc
đất cắm dùi “hết đi cho nhà này lại đi cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo
làm canh điền cho lí Kiến.
thể nói cái trang đời thơ ấu thanh niên của Chí Phèo 20 năm trời đắng cay
không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện Ba ông
còn trẻ lắm “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng
đấy”. Chí không phải gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn thích, huống hồ lại sợ”.
Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên
bắt Chí giải lên huyện, bỏ hắn bảy tám năm trời. Cái nhà thực dân đã biến Chí
Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ
dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại "lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn:
“Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đenrất câng câng, hai mắt
gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực
cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó hình ảnh Chí
Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt.
Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Kiến chửi “mồ mả tổ tiên
đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã
hành động như một tên đầu cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra
Kiến kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một
đồng bạc đãi thêm của cụ đã làm cho “Chí Phèo cùng hả hê”. Hắn hồ về
chuyện hắn “còn họ” với Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh
đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ xin đi "bẩm quả đi sướng
quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Kiến lần thứ hai sinh sự:
“Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại run bần bật". Hắn
nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ
cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến
nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm
năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó
Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào
vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương
hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ,
chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào
vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc
đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay
ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái
mặt của con vật lạ” với màu '‘vàng vàng lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu
sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội
lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn
đâm thuê chém mướn để kiếm tiền uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn
này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống
rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào
con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém cướp giật cần gan
liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng
Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên
vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả hội ruồng bỏ. Cái thẻ biên tên tuổi hắn cũng không trong
sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả
dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc
thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình
ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một
người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời,
chửi đời, chửi cả làng Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức
mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn
bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với
một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn
nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy
luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã
hội đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại.
Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết
lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi gạch một Chí Phèo con
trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt
khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn dân cùng nên liều
lĩnh, lúc nào cũng thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn
cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao
động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm
thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh
hồn người, hủy diệt nhân tính đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí
Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng một tình tiết
làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự
tuyệt quyền làm người. Tự Lãng “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng hoạn lợn.
Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng đơn như Chí Phèo.
Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau
cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra vuốt râu lão. Chí
phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn cái lều của hắn. Chính
trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở
đang nằm ngủ “cái mồm mụ hốc lên trăng ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người
đàn “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo
lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn
bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" thôi! Nhưng
thật lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình sự yêu thương mộc mạc, chân
thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ
từng rạch mặt ăn vạ đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng
tay vào nách hắn“hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. t cháo nh
của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi
cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một
bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế
“lần này lần thứ nhất hắn được một người đàn cho”. cũng người đàn
độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí
Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao hắn hiền”… Chỉ thị Nở mới cảm nhận
được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao
bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí
Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh
dậy “lòng bâng khuâng hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười
nói, tiếng anh thuyền chèo mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm
nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi buồn!”,
Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí.
Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng ước, cái ước bình dị của những
người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng
càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia
cuộc đời”, hắn lo, hắn sợ “đói rét ốm đau, độc, cái này còn đúng sợ hơn
đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn
vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà
cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc
nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn một người lao động cùng khổ lương
thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của
thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm nữa” của Chí Phèo.
Đó một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này
đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị hội đẩy vào con đường lưu
manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương
thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại
nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn
cũng như thị Nở “không men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ
mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.
Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm
người, “thèm lương thiện” “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe
hắn chửi, nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm
người… thì ta mới thấy xúc động cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí
Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận
của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được
cọc, đâu ngờ chỉ rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị
nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người
của Chí Phèo vừa được mở ra đã bị đóng sầm lại! đã đay nghiến thị Nở,
thấy cháu “sao đĩ thế?”. thấy nhục nhã, gào lên “như con ma dại".
quyết không cho phép cháu “đi lấy một thằng chỉ một nghề rạch mặt ăn vạ”.
Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng
Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi
qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay,
linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người”
nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại.
Hắn “ngẩn người'’ khi nhìn nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn
đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo
xuống sân”.
Chí Phèo vật trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn
vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại
uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau hạn
của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại
dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người
rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải
đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba
đến gặp Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi đòi lương thiện, đòi quyền “làm
người lương thiện!”. Câu nói của CPhèo: "… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể người lương
thiện nữa. Biết không!…” đó những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào
xảo quyệt Kiến, đồng thời tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau
khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng
Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, giờ đây, ý thức về nhân
phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như
thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết
trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng
cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo một hiện tượng lưu manh hóa nông thôn mang tính chất điển hình, ý
nghĩa kết án đanh thép cái hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối
tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí
Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm
day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình
dị trong cái hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo,
Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao
đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến
trong cái hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo,
vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc
đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 6
Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta
liền nhận ra rằng đây mới hiện thân đầy đủ những gi gọi khốn khổ, tủi nhục nhất
của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân
hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn
Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục Chí đã nếm trải, không thể
không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.
Đó cũng chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm
Chí Phèo.
“Bi kịch tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát con người phải
chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch
sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện
sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với
người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên
của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ
một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những
câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị rách, bị cắt vụn
người đọc cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau
bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng
“cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” Nhưng không ai lên tiếng cả.
Người ta không lên tiếng người ta không công nhận Chí người. Cả làng Đại
không ai hiểu Chí, giá một người để chửi nhau, lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi người
ta sống để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi
người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng chửi chính bản thân. Tiếng chửi của
Chí thể hiện sự vật vã. dẫu ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng
khốn khó thay. Ccàng bế tắc. Giá như ngày ấy làng Đại một người lên
tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho còn biết giữgiá như… giá
như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng
Đại coi Chí người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không hội xảy ra. Nhưng
chuyện đã xảy ra thì đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá
khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ
thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã
thấy hắn trần truồng xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bkhông; anh
ta rước lấy mang cho một người đàn góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một
câu văn dài, ờng như đã báo trước cuộc đời độc triền miên của Chí. Ngay từ khi
cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí
trở thành kkhông cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, lẽ lớn lên cùng với
những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết
không thích những cái người ta khinh”. Anh khát khao “một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái
mà anh có thế với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu của Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết
với nhà thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy tám m. Đây lần thứ
hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà đã biến Chí thành con người khác. “Hắn
về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà đã
cướp đi của y một phần nhân hình. ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính
tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” “câng câng” thì
còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra
đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết”
Đó hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm
trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Kiến bằng
cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân
thì trả ân) thì Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả
được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ quáng
của Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai
không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong
lúc say, ngủ trong lúc say đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia
đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt bao nhiêu người lương
thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao
nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn.
Cả làng Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự
mặt của hắn trên đời. thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền
làm người đến cao độ. Nhưng lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách
thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi
đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn
khi bị tước quyền làm người không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo
chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu biết cốt cách người ta sản
sinh ra hắn tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ
tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một
con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm
lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của
thị Nở trong tác phẩm rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại
là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí.
Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi
dậy cái tính người lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở.
Chí nghe được âm thanh của cuộc sống lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu
năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói
của người đi chợ, tiếng thuyền chài mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ
trong Chí những ước rất người đã từ thuxa a. Lần đầu tiên Chí cảm thấy
buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm
đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn
cháo hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu tình thương yêu
của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ
làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật biên. Nam
Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh
phúc rất người của Chí. Thế sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối
để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung
với hắn thì làng Đại cũng thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch đau đớn thay
cho Chí. Thị Nở không thể gắn với Chí. theo bà Thị, “đàn ông đã chết hết cả
rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức
hội tước đoạt. Thị Nở chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng
chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. hội với quan niệm
tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai
cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không
thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không
được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói
những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Kiến cũng tự nói với bản thân
mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí
cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí quá đắt. Cái chết của Chí
lời tố cáo mạnh mẽ đối với hội nhân, lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con
người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức
mở giá trị điển hình của nhân vật này biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi
khổ của người nông dân thời nước ta còn sống trong vòng lệ. Chí còn đại diện
cho cái phần khùng điên khuất tối sinh ra trên cõi đời này, ai cũng thể, nếu
không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. căn nguyên
từ hội cũng căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm
thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo siêu hay
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời,
ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật
ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên
nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng một trong những tên tuổi lớn của trào
lưu n học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác
phẩm của Nam Cao, đặc biệt truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo
sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản
ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì
Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị
xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực khẳng định nhân
phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo nhân vật thể hiện nhất cái nhìn
mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào
làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng,
Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân,
hết đi cho nhà này lại đi cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất
cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian
làm canh điền cho nhà Kiến, Chí được tiếng hiền như đất. nghèo khổ, không
được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu phải trái, đúng sai, đâu tình yêu đâu
sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy
nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng ước một
cuộc sống gia đình đơn giản đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi không sao
gượng dậy được.
ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, đày,
để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Đại. ghen tuông lối, Kiến đã nhẫn
tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn.
Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời
Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn
luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào
con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi
giang hồ Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai.
Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen mà, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo
tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng
cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà thực dân tiếp tay cho tên cường hào
Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh,
côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá ấy, Chí Phèo
không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh
tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị c hiếp đến không thể ngóc đầu lên
được. Phải dữ dằn, lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra
những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên làm những việc như
rạch mặt ăn vạ, đâm chém người ng trong cơn say. Chí Phèo đã bị Kiến kẻ thù
của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực sinh động bi kịch bị hủy
diệt tâm hồn nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy
trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của
làng Đại, đtác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao
nhiêu nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy
máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Đại quay lưng
với hắn, khinh bỉ ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc
gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã
không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện gtrị nhân đạo mới mẻ của
Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu
thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc
hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam
Cao chính là chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện
Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú nỗi đớn đau, vật của một kẻ sinh ra là
người bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời,
chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong sự đáp lại
nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ
và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được
làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở thể nói món quà
nhân ái Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí
Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn
sợ đơn hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau
bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn ngân
vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như
bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo.
Thị Nở đại diện cho dân làng Đại đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo.
Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý
thức sâu sắc vsố phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn
say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực
sự muốn làm người nhưng cả làng Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn người.
Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. CPhèo chết
trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn
câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt ám
ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực
là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tưởng nhân đạo khi
nhìn nhận đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng hiện
tượng bên ngoài đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao
cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật
điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn
sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm nhân vật đã tôn vinh tên
tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng:
“Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân
vật xấu xí, thô lỗ cục cằn những chuyện nhục nhã của họ. Chính thế một số
người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, biết đâu
rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân
đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn
đề” như thế, nhưng chính những lời văn tác giả viết về nhân vật này những bi
kịch mày phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã một đứa
con hoang, bị bỏ rơi trong cái gạch không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên
nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ
như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí
cũng ước riêng của mình, đó một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn,
cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình
mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi m cho nhà Kiến và cũng
chỉ chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về
làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã
hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi
đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình rồi trong cơn say hắn
đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ”
bằng rượu, thịt và tiền.
rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai kẻ thù của
cuộc đời mình lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Kiến đã giăng sẵn, hắn vào
Kiến rồi khi ra lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của
mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm ngoài việc rạch
mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc
đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say đánh nhau
trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi.
Cuộc đời hắn đã xem như bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả
làng Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên
sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm
hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm,
lương thiện chỉ cần hội thôi sẽ bừng sáng. Nam Cao đã cho Chí một
hội để ánh sáng ấy dịp bừng lên, đó cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính
cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút
khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên xưa nay nào hắn thấy ai tự cho
ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng
khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ cùng với đó
khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận
hắn vào cái hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra
câu hỏi cho mình: hắn thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người
Cđặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc
sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen
nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của cô: “đàn
ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết
rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ
chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người
lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được
những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
cuối ng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành
tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn
chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới
chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Kiến, Chí Phèo đã
đâm chết Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã
tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của
cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong hội
nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu
thương, trân trọng của mình đối với những người số phận bất hạnh. sâu thẳm
trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
Chí Phèo tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước
cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc
họa bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát.
Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo
nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mỗi lần gấp
trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt
mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của
một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi
đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.
Chửi cũng một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí
Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người.
Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn
cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc gạch
giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng.
Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi cho nhà người này
lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.
Đây quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó quãng đời lương
thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu ng tự trọng, biết ghét những
người ta cho đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí
vừa làm vừa run, thấy nhục hơn thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng
có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm”. Đó chính một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái hội bất lương
ấy đã bóp chết cái ước đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu của
lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội . Chính nthực dân đã tiếp tay cho
lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ u manh
hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau
bảy tám năm ra Chí không còn anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt
người đọc một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái
mặt thì đen lại rất cong hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh,
đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay
cũng thế”.
Cả cái nhân tính cũng bị hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những
tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già
Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Đại, đối lập với nhân dân lao động
cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh
“con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay
yêu thương vậy nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi hắn được yêu
thương chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu máu ớc mắt của biết bao
nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy
máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Hắn làm những việc ấy trong lúc say ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy
vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say tận”.
Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi “những cơn say của hắn
tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho
người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng
tháng Tám.
Đó chính cuộc sống bị bóp nghẹt ước khát vọng, người nông dân bần cùng
hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót
thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm
lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng
nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản nh tốt đẹp, chỉ
cần chút tình thương chạm khẽ vào thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất
hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã
rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí
Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính
cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc
sống trong Chí.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp ánh
nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng
anh thuyền chài mái chèo đuổi trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán
vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm
sống dậy ước một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua
dăm ba sào ruộng làm”.
Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói
rét, ốm đau độc cái này còn sợ hơn đói rét ốm đau”. Phải chăng Chí đang
hối hận và ăn năn những việc mình đã làm? Chẳng biết phải hay không Chí
thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc hắn đã khóc được
mất.
rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong
Chí phần người. Bát cháo hành chính liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần
người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói lòng CPhèo xao xuyến bâng
khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.
lẽ đây lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn cho. Trước đây chỉ
toàn giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy tình yêu ấy đã làm
hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động ngay trong chốc lát
“Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…
Ôi sao hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương chở che đã làm Chí trỗi dậy một
tình yêu cuộc sống. Đó giây phút Chí “thèm lương thiện khát khao làm hòa với
mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay cậu sang đây với tớ
một nhà cho nó vui”.
Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự
được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là
tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm
sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình
thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn với
Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo.
thật khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng lúc Chí Phèo
hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội
lương thiện, hội loài người vừa mở ra thì cũng lúc đóng sầm lại ngay trước mắt
Chí Phèo.
Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một
niềm cảm thông cũng lúc tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái
hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người vĩnh viễn
không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say.
Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau
đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất,
Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con
“khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận bi kịch đã đẩy
chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kđã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm
mình ra nông nỗi khốn cùng này chính Kiến. Lòng căm thù đã âm bấy lâu
trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người,
cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một
nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
Tao muốn làm người lương thiệnAi cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi
đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi
đánh thẳng vào bộ mặt của hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc
về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.
Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo gKiến.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo lời kết tội đanh thép cái hội nhân đạo, tiếng
kêu cứu về quyền làm người, cũng tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy
cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo một kiệt tác bất hủ bởi chứa đựng trong đó tưởng, tình cảm lớn
mang giá trị nhân đạo hiện thực sâu sắc người đọc rút ra được từ những trang
sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén
giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi khả năng
đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời
đại.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy
đây hiện thân đầy đủ nhất cho những gọi cùng khổ của người dân cày trong
một hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.”
(Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học
đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao qua đó, bao lớp hiện thực được
lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao.
Vốn một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mảnh đất về người
nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp
và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông
dân bởi tính hiện thực tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn
dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái
say chửi một trạng thái đầy ấn tượng ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ
cũng vậy, cứ rượu xong hắn chửi.” Hắn cái cách Nam Cao gọi Chí Phèo
một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi.
Tiếng chửi lớp lang, gần xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả
dân làng Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, sau cùng chửi “đứa
chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say,
Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu
manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như sự độc. Dân làng Đại không ai ra điều, đáp lại
hắn chỉ tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì
đâu hắn bị cả xã hội ghê sợ lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra
từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào
làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng,
Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân,
hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác.
Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được
ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà Kiến, Chí được tiếng
hiền như đất. nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu phải
trái, đúng sai, đâu tình yêu đâu sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ
ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng ước một cuộc sống gia đình đơn
giản đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện
trong con người Chí sớm bị quật ngã không sao gượng dậy được. Đó lúc Chí bị
Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu
từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình nhân tính đến méo dị dạng. Từ một
anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên một đứa đặc như thằng săng đá”, với “cái
đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta
tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng
thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt,
chửi bới, dọa nạt trong lúc say.
Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ
bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái
mảnh đất quần ngư tranh thực, lớn nuốt ấy, Chí Phèo không thể hiền lành,
nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng
đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được.
Phải dữ dằn, lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy chỉ sau những lời mời dụ ngọt
nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê,
chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh
yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao người dân
lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy
thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt,
linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng ng chính từ bi kịch ấy ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một hội
một hội nhân với những những con người cạn sạch tính người, một hội
Trọng Phụng gọi “chó đểu”. đó, những tên cường hào ác như Kiến
nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào,
nhà thực dân bắt vào một người lương thiện thả ra một con quỷ dữ, những
người như dân làng Đại khước từ sự dung nạp chấp nhận một người như Chí
Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao
vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người
trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở một
người đàn xấu ma chê quỷ hờn của làng Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ
chồng với thị, Chí tỉnh dậy bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý
thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá.
tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài mái chèo đuổi cá”. Cũng
lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”,
về quá khứ với ước lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau
độc”. Con người ấy lần đầu những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri
lương tâm.
Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm,
biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ dòng
dõi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện
vẫn luôn sẵn trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương trở
về với xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị thể làm hòa với hắn sao mọi
người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương
thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế tấm lòng cảm thương của Nam
Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác
vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã
không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ
lạc hậu, con người không thể sống n ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi
vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà
ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao đi đâm đầu lấy một
thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cái loa của định kiến làng đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát
vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa
say nửa tỉnh, cố níu không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở
thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương.
Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí
Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù cũng kết liễu luôn đời
mình. Chết một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng lẽ tất yếu khi sống trong hội
đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể
trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri lương tâm đã trở về. Chí chết mới cách giải
quyết tốt nhất, thật đau đớn. Đó cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh
tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không
ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không
kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt
theo dòng tâm sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của
Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí
Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 5
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người
nông dân, cũng một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán.
Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam
Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo hội nông thôn Việt Nam xác
nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông
dân bị đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng,
liều lĩnh tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy
trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ
cũng thế, cứ rượu xong hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên Nam Cao để Chí
Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa y
đối lập với tạo hóa, với xã hội.
Chí Phèo chửi làng Đại nghĩa y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha
đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau
với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa
Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây
liên hệ với hội chỉ bằng tiếng chửi không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con
vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.
Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào
lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Đại, Chí Phèo “một thằng cùng hơn
cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa
bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi ước chung sống với một
người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Chí Phèo chết đi cũng
trong sự cô độc. Không độc, tủi nhục hơn khi chết không được lấy một giọt
nước mắt, chết người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự
tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số
phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, biệt. Thông
qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên
quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của hội thực dân nửa phong kiến. Cái đã
đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng
Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi
thơ “bơ hết đi cho nhà này lại đi cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh
điền cho ông Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông
nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản
dị trong lao động.
Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu
xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất
trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào
nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù bảy, tám năm sau về
làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cắm dùi
không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống oái oăm
thay phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những
thứ ấy Chí Phèo tìm rượu. Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ
cái người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính Kiến kẻ ăn tiên chỉ làng
Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.
Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Kiến sau hôm đi về. Dẫu
bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, sao lần này Chí Phèo còn đến để trả
thù, còn mường tượng ra kthù. Nhưng đến khi từ nhà cụ về với tâm trạng thỏa
thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ nhà đội Tảo (nhờ sự may
mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại tồn tại như một con vật.
Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong hội tàn phá ghê gớm
con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện dốt nát, tăm tối bị rơi vào
tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cố’ cùng liều thân”.
Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để
biến thành sự phá hoại quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ
tử thù. Đó một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong hội cũ. Sức mạnh phê phán,
ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng một “con người này” (theo
cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn.
Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời
mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.
Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo một cuộc đời
rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại
hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không
hẳn ra con vật, đầy những lằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ.
Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.
Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống
chịu, thậm chí đến lối “ướm lời” với Thị Nở cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu
đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu
biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y;
ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh
ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, i hòa giữa hai mặt tính chung tính riêng hình
tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao
đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ.
Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh.
Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm sự vùng dậy phản
kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc
của Chí Phèo để rồi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị
Nở (hai duyên số lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không
chỉ khơi dậy bản năng sinh của đàn ông quan trọng hơn, đã đánh thức người
cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.
Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo bi kịch đau đớn trong cõi
tinh thần sau đó anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo.
bài ca về sức mạnh diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị
Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình
yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở đâu chỉ tình yêu chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở
lại cái hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. hiểu hết niềm vui hồi sinh
Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi
đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.
Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang
“say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo lấy rượu uống.
Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu
không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc ng rức
…”. lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ một lần khóc như
thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng
thể nào quên Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết.
Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo
tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí
Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả
quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát
quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về
con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo một hình tượng cùng độc đáo.
Cuộc đời đầy đau thương, tủi phận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của
tầng lớp nông dân bbần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong hội cũ, của
những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống
trị.
Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản
chất tàn bạo của thứ guồng máy hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể
hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 6
Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời 1945 1954. Dưới ngòi
bút chân thực của mình, đời sống, thân phận những nỗi thống khổ của người nông
dân được ông lột tả một cách cùng chân thực. Điển hình các tác phẩm Chí Phèo,
Lão Hạc, Một bữa no….
một điểm chung giữa các tác phẩm của ông khi trang sách đã khép lại, người
đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng
tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, ng từ đây toát lên được giá trị nhân văn
tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.
Chí Phèo tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước
cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã rất xuất sắc khi
xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi hội thực
dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự m đến cái chết
như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.
Chí Phèo bước ra từ trang ch không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta
nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi
cả làng Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính
“liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi
vừa chửi.
Chửi tất cả những đớn đau lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng một cách để
giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình
giữa cả hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái
cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.
Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự
cưu mang của cả làng Đại, rồi lớn lên làm anh điền chân chất với ước bình
dị như bao người thì lại bị Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Đại, Chí đã
không còn Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận
ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ thằng Chí Phèo, thích gây sự
với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…
Người ta nhìn thấy bây giờ gì?Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm
ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm
trông gớm chếtcái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông
tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà thực dân như cái địa ngục trần gian thật đẩy một người nông dân hiền lành
lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Đại”. Mới ngày
nào người dân làng Đại còn cưu mang hắn giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét,
làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời
hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng.
Từ đây Chí sống bằng rượu máu nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương
thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu nước mắt của
biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ăn
trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người
trong lúc say để rồi say nữa say tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại
trên đời bởi “những cơn say của hắn tràn từ n y sang cơn khác thành những
cơn dài mênh mang”.
Nam cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau
thương khác, để rồi người đọc nhình dung ra hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức
như thế nào. lẽ Chí một kẻ đáng thương hơn đáng trách. Đáng nhận được
đồng cảm hơn là sự xa lánh
Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn
để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những
phẫn uất mà xã hội mang đến.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm một ý nghĩa thật đặc sắc.Con
người xấu ma chê quỷ hờn kia chính niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương
thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp
ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng anh thuyền chài mái chèo đuổi trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ
bán vải…
Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi
buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước
mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn,
đói rét, ốm đau và cô độc cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”
Bao nhiêu ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn
nhận ra mình cũng muốn yêu cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con
người khác. rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi
dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính liều thuốc giải độc góp phần thức
tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói lòng Chí Phèo xao
xuyến bâng khuâng.
Hắn ăn cháo hành lấy làm mãn nguyện vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên
trong đời hắn được một tay người đàn cho. Trước đây chỉ toàn giật cướp dọa
nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi.
Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy
lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao hắn
hiền?.
Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá
điền hiền lành năm nào. cũng chỉ bát cháo hành của Thị Nở mới sức mạnh
cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như
lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng vô hình mà
hóa ra lại vô cùng lớn lao
Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa
thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà
của Thị Nở, chính hiện thân đầy đủ của định kiến của hội lúc bấy giờ. ta đã
đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí.
Chao ôi, sao hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời
chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau.Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo
hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức.Cái hội ấy đến phút tận cùng vẫn
cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.
Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm
chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận bi kịch
đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Kiến. Trong giây phút ấy,
Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của
một anh điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma
dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.
Tao muốn làm người lương thiện
Ai cho tao lương thiện?
Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta
vẫn còn như day dứt trong lòng. Phận người trong hội cũ, sống trong trăm ngàn
thứ khắc nghiệt bủa vây, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách phải tự kết
liễu đời mình là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương
giá trị nhân đạo cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân
văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của
một tầng lớp hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn sự cảm thông đầy
sâu sắc.
lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây
giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác,
dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán
viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... không thể không kể đến Nam
Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật
hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn một thanh niên hiền lành, lương thiện, đứa con hoang bị bỏ rơi lúc
mới lọt lòng. Chí được một bác phó ciu mang đưa Chí về nuôi rồi đến khi bác phó
chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt ngày đi cho nhà
này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút nh thương. Thời gian Chí Phèo
đến làm canh điền cho nhà Kiến, Chí được mọi người khen hiền như đất,
không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai, phải trái khi ở trong nhà Bá Kiến.
Mỗi lần bị mụ vợ Kiến gọi vào bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương
gì", Chí hiểu được đâu tình yêu, đau sự dâm đãng đáng khinh rẻ. Cũng như bao
nhiêu khác, Chí cũng về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi “Chồng cuốc mướn
cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm
ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi
Chí bị Kiến đẩy vào con đường tội chỉ sự ghen tuông bạo chúa, bị kịch của
cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó dị dạng.
Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc như thằng săng
đá”, với “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm".
Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị mọi người xa lánh, đi đến đâu
cũng bị xua đuổi. Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, cậy cái say đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người.
Trở về làng Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con người
đến nghẹt thở, Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa.
Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ lọc lõi
như Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, làm mọi thứ
không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Kiến “Lấy thằng
đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của
bây giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn quỷ đang tàn phá trong con người Chí
Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội ngày xưa-
một hội nhân đạo với những con người sống không tình người, một hội
Trọng Phụng gọi với cái tên khinh nhược "chó đểu". Nơi những tên
địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí họ còn quyết định được sự sống
của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng nhà văn
Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần con của Chí vẫn
tồn tại chất người. dường như phần người của Chí được thể hiện khi gặp được
đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí. Đó lúc Chí gặp Thị Nở- một
người đàn xấu ma chê quỷ hờn của làng Đại. Qua cái đêm định mệnh giữa Chí
Phèo Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm Chí như được hồi sinh. lẽ lần đầu tiên từ
khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười
nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài mái chèo đuổi cá". Lần đầu Chí ý
thức về tuổi tác, bản thân mình "đã già mà vẫn còn cô độc". Dường như lý trí và lương
tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí. Một con người đâm thuê, chém
mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ tưởng chừng như sống không tình, không
người nhưng Chí đã xúc động rưng rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa
nồng hơi ấm. Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một
con người tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo khao
khát hoàn lương- trở về với hòa nhập với hội, với cộng đồng. Hắn mang một ng
tin rằng chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ ước muốn, khao khát
muốn được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn hiện thực, trong cái khung cảnh, tưởng lúc bấy giờ Nam
Cao không thể rời thực tế bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được. Khao khát
hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi
đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ một nghề rạch mặt ăn vạ”.
Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ chối khát
vọng hoàn lương hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa tình, cố níu
không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kẻ đáng thương tội nghiệp. Thị Nở quay
lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng sập lại. Chí lại ngập
trong cơn say tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành một người thân tàn ma dại để trả thù
cũng kết liễu luôn đời mình. Chết cái kết quá đau thương nhưng nếu sống làm
con quỷ dữ trong cái xã hội đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt
nhất. Đó cái chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một hội
phong kiến cổ hủ để rồi câu nói "Ai cho tao lương thiện?" vang vọng ám ảnh mãi
không nguôi. Đúng một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong hội
đầy rẫy bất công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài nội dung,
ý nghĩa của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây dựng nhân vật,
phân tích tâm nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận dụng đối thoại, độc
thoại phợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. Ngòi bút hiện
thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng cảm xúc chân thực nhất, phải
chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau hiểu được
phần nào cuộc sống khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận cùng. Qua đó thể
hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 8
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam
Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây một trong những
truyện ngắn có thể nói nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa
Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán hội vào giai
đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật
điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào
loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên sở người thật, việc thật
vùng quê của mình, ông đã cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của
những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột
ngạt cùng bao nhiêu đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo đại diện cho bi
kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong hội cũ. Nhưng tất cả
những nỗi khổ cực, bi đát trong cái hội đấy không thể làm cho những người người
nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống
thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra bên trong con người họ
lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, thuế như các tác phẩm cùng
thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân
lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó một cái nhìn cùng mới mẻ, độc đáo nhưng
cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức
trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ai ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác
phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn
tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu,
không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường
người ta thường chửi đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những hắn nhìn
thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần
đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, được minh chứng
qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra
nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người
đọc cùng mò. người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải nỗi khổ nào trong
lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta
hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như
mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra
hắn một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn
lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ duy nhất cái
gạch chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể
trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy
nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta một anh đi thả ống lươn, sau đó
một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối.
Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa vơ, không nơi
nương tựa. Những khi đói bụng muốn cái đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà
khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh tội
nghiệp chẳng khác một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không chỗ
dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước
cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác Chí Phèo, những
người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân
phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà
Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo ,
không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà
vợ của Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn
tuy còn trẻ ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu tình
yêu chân chính đâu thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm
mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí một chàng trai lương
thiện, tốt bụng lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân
vật chị Dậu của Ngô Tất Tố đã cầm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê
tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự
trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, cuối cùng lão
cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý chính con người
mình.
Nhưng sống lương thiện trong hội này không được yêu thương quý trọng
thay vào đó sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính
cái hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà thực dân đã tiếp tay cho
Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi trở về làng Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ
đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, trông gớm chết” . Trên
người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn
ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác.
Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh i đối với hắn. Sự lưu manh
trong con người hắn ngày càng hiện lên rất qua những hành động hằng ngày. Khi
hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi
nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Kiến trở
thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Kiến cho hắn vài hào hắn thể đâm
chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con
đường tội lỗi không có lối thoát.
đây với những đặc điểm nổi bật này nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã một phát
hiện mới đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước
cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại việc phân tích đời sống khốn khổ, bần
cùng của những người nông dân thì đã có “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái
mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha
hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn những con người rất thật thà,
chất phác, thánh thiện giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không
bước ra khỏi cổng làng thì làm sao thể làm hại người khác được. Song nhà văn
bằng ngòi bút xuất sắc sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng
sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính thủ đoạn độc ác, để tiện
của bọn cường hào giàu như Kiến kết hợp với sự tàn bạo, khắc của chính
quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn bôi bẩn lên
tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật ThNở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một
trang mới. Thị Nở không khác một ánh trăng dịu êm của đêm y, tình thương của
Thị Nở dành cho Chí Phèo không khác dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng
chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương
thiện trong con người Chí, làm sống lại giúp Chí sống lại kiếp sống của con
người. Tình thương quả đúng thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành
những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tý thức về bản thân trong
con người của CPhèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị “một gia đình nhỏ”.
Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia
hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?”
Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và
nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này.
Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn cùng cảm động “mắt ươn
ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị
một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt nụ cười ấy đã khiến
Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp
và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn khát khao
muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện
gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ
mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm
tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động
đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng
sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nằm nơi người đàn bà bề ngoài
xấu bị cả hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn thể làm bất kỳ
người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những bản thân mình đang để
cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí
chưa dừng lại đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị chung của Cbởi Thị Nở
không cho phép lấy một thằng không biết làm ngoài việc rạch mặt m chồng. Nếu
nhìn nhận đúng thì không thể nào trách của Thị Nở được bơi đó cũng chính
cách nhìn của những người sống trong hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta
khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được
làm người không ai công nhận. Thế hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ
uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với
người trong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng
tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Đại. Vậy đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào
hồi kết không lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được như kiếp sống của những con
chó mà thôi.
Miệng hắn thì không thôi chửi cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước
ngôi nhà của Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả cùng tinh tế
sắc sảo đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang trạng thái nửa tỉnh , nửa
say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh để đến nhà
Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Kiến hắn không đòi tiền như
thường lệ đòi “làm người lương thiện”. ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự
tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vọng “ai cho tôi lương
thiện?” Câu hỏi đó của CPhèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến cùng.
Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận
người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái hội thối nát này. Quá tuyệt
vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn
khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng
sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực giá trị nhân đạo của tác phẩm
Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo hội thối nát, áp bức đương thời, một
hội phi nhân nghĩa, tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người
của những người dân lương thiện, hiền lành. Cchọn con đường chết cũng nghĩa
anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một
kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ
khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính
sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người Chí Phèo
một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải
thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi
đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan hội nửa thực dân nửa
phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân
chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với
nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị
Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí
Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh
Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau
đó. Rất thể một Chí Phèo con lại chào đời sống tiếp quãng đường giống bố của
nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công khát quát hóa quy luật của
hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt
cái hội ấy đi, đây chính chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về
miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như
lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8.
Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng
định cần có một cuộc cách mạng dân tộc cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống,
quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân
vật văn học ấy vẫn lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng
những mình đang ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt
đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 9
Tình yêu một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ trong văn chương. Đã
rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi,
họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình
yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông
dân trong hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới.
đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn thông điệp sâu
sắc nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong hội.
Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc Chí
Phèo đã vật lộn cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo
cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng.
Lớn lên Chí làm người cho nhà Kiến nhưng lại bị ba dâm đãng hãm hại khiến
Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí
từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng.
Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh
gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị
nghe lời người bỏ Chí khiến Cmột lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận
thù trong Chí lại nổi lên Chí quyết định giết chết Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời
mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống.
trong đó, những phút giây được cạnh Thị Nở chính đoạn đường đẹp nhất, sáng
nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh
lúc say, hầu như chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà
văn lại ban cho một “nhan sắc” “kinh tởm” ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma
chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông
chết chết mệt. thể bản năng, dục vọng thể xác họ ngã vào nhau.
Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ
đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”.
“Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng thinh thích”. Đây đúng tâm
của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không Thị, Chí sẽ chết
mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo
hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. lẽ Thị người cuối cùng còn sót lại
trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được
đâu người, đâu quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng đi chăng
nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời
Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn ng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.
Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, ng hồ buồn. Người
thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng
mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí.
Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui
vẻ quá! tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…
Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời!
Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao,
đó không phải tuổi người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của
đời. những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc,
chưa bao giờ ốm, một trận ốm thể gọi là dấu hiệu báo rằng thể đã hỏng
nhiều.
một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo
hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét ốm đau, độc, cái này
còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí
hoàn toàn rất khôn ngoan, rất ý thức sống. Chỉ do trước đây đắm chìm trong
men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua
quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn chín chắn thấu đáo hơn rất
nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang trong tình
trạng như thế nào mình cần phải sống ra sao. Chí buồn đã để cuộc đời chìm
trong cơn say quá nhiều. cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận.
Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh sống lại ước nhỏ nhưng giản
đơn và thánh thiện ngày nào của mình.
Chí ước một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc
sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn
tiếp tục thực hiện ước ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi
người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say ngã vào Thị Chí không biết rằng
người đàn ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này,
khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình
yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp.
Chí thấy thị duyên lắm. Chí đang rất vui khi được cùng thị. Chí đâu say.
Chính Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của
tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nửa của Chí. Đó
lòng nhân hậu lớn lao cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh
thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì
dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc
này Chí người khôn ngoan hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai
Thị, cũng chẳng xua bỏ thị. ngược lại, Chí còn muốn gắn cả đời với thị, cùng
thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình….
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi
Thị trở về nghe lời người bà rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao
kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng
lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Kiến để
đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương
thiện của bản thân. Chí giết Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến
quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để
không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là
tỉnh tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt
với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Kiến
kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng
tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm
đến người đọc.
Thứ nhất hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị hội đẩy đưa đến
bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không
có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí say,
nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh
khiết. Đặc biệt, Thị Nở bên trong người đàn xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính
một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong
người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân
mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó tình
yêu không chỉ dừng lại xác thịt tình yêu còn sự đồng điệu của hai tâm hồn.
Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim.
Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực
tế. đây, thực tế của Chí Phèo Thị Nở chính những định kiến nghiệt ngã về một
tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu vui buồn hay hạnh
phúc, nhưng thứ con người ta cần phải giữ vững tinh thần, trí óc. đây, sau
khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối
từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính thế Chí mới đi đến quyết định giết chết
Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí
Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới
người đọc. Nam Cao không còn, cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những
dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi
người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những mình đang trong cuộc sống
cũng như trong tình yêu.
| 1/85

Preview text:


Dàn ý phân tích Chí phèo chi tiết I. Mở bài
– “Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao.
– Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao
động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong
văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể
hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao. II. Thân bài.
A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH
MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA.
1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình.
Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một lò gạch cũ.
Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở
nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen
tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở
về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lóc,
cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gườm trông gớm chết.
Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt và đâm chém người cho nên cúi mặt hắn vàng mà
lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo.
Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật: nó
không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ.
2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính.
Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi
mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xòe,
châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu gọi om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa
mới chạy, rồi khóc lóc mêu mêu, mụ đưa ra chai rượu.
Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp,
phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo
hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của
hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn say, mênh mông, hắn ăn trong lúc say,
uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận (…). Hắn biết đâu đã phá bao
nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!.
B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC TỈNH.
1. Người nông dân bị tha hóa.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị huỷ hoại hoàn toàn của Chí Phèo,
bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng
sáng khi gặp được cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa
nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có.
Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc
này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm.
2. Cuối cùng đã thức tỉnh
Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe
tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình
nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?.
Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Trời ơi. Hắn thèm
lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào
cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện .
C. ĐIỀU BI THẢM LÀ ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI MÀ KHÔNG ĐƯỢC
1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc
Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ
Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình
thế hoàn toàn tuyệt vọng: Sống lương thiện thì không được chấp nhận, làm lưu manh
như cũ thì không thể và cũng không muốn.
Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó: “Tao muốn làm
người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những mảnh chai trên mặt này! Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”.
2. Bi kịch biến thành thảm kịch
Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát.
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công: vừa có nét khái quát, vừa có cá tính.
Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa bị tước đoạt cả nhân tính. Nhân
vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến tâm lí. III. Kết bài.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương
trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần
sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh
phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện.
Chí Phèo là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh: Hãy bảo vệ và đấu
tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống
và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả
nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa.
Phân tích NV Chí Phèo
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam
hiện đại. Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn có những trăn trở, nghĩ suy
về sống và viết. Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều hướng về con người, vì con người,
và với ông, đỉnh cao của sự sáng tạo là những cái mới mẻ, ông từng viết: "Văn chương
không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra
cái gì chưa có". Có lẽ chính bởi những quan niệm nghệ thuật chân chính ấy mà Nam
Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn thành công, đánh đấu tên
tuổi của mình trên văn đàn văn học.
Truyện ngắn "Chí Phèo" là tác phẩm xuất sắc cho thấy được tài năng nghệ thuật trong
ngòi bút điêu luyện của nhà văn, đồng thời qua đó phản ánh được số phận con người
với tấn bi kịch đau đớn nhất- bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Chí Phèo
là nhân vật tư tưởng của tác phẩm.
Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm với tiếng chửi đời, chửi người một cách bất cần.
Hắn chửi mà chẳng ai màng quan tâm, để ý tới, tiếng chửi chứa đựng cả những sự xót
xa, cả đau thương và tủi nhục. Phải chăng Chí cũng đang khát khao có được sự quan
tâm, lời hỏi han từ ai đó, nhưng chẳng một ai, chẳng một ai trong cái làng ấy thực lòng
để tâm đến Chí. Tiếng chửi chua chát ấy mở đầu cho câu chuyện thương tâm về cuộc đời Chí.
Chí Phèo vốn sinh ra đã bất hạnh, thiếu thốn sự yêu thương, tình thân gia đình. Hắn
được một người đi thả ống lươn thấy với bộ dạng trần truồng đặt trong cái váy đúp nơi
lò gạch cũ bỏ không nhặt về rồi đem cho một bà goá mù. Trớ trêu thay, mụ lại bị đem
bán cho phó côi, một người già mà không có con. Khi bác phó côi chết đi, Chí lại
sống một thân một mình, bơ vơ.
Cuộc đời không may mắn ấy lại cứ thế vận vào con người tội nghiệp kia. Chí phải đi ở
làm thuê cuốc mướn để có cái ăn nuôi sống bản thân mình, dù vậy, Chí vẫn rất chăm
chỉ lại lương thiện và có lòng tự trọng. Cũng như bao người khác, Chí cũng khát khao
có được bình yên trong ngôi nhà nhỏ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,
cày thuê, vợ dệt vải", vậy đấy, những người nông dân nghèo họ đâu mong giàu sang
phú quý chỉ mong được ấm êm, tình cảm yêu thương gắn bó dành cho nhau rồi cùng
nhau cố gắng mà làm ăn vậy thôi. Nhưng ngay cả đến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng xa
vời với Chí, đắng cay hơn, Chí phải trải qua những bi kịch tồi tệ nhất cuộc đời.
Vào làm thuê cho Bá Kiến, vì sự lẳng lơ của bà vợ ba trẻ mà Chí Phèo phải chịu cái
ghen oan của Bá Kiến. Bị đẩy vào tù tội ngót 7, 8 năm trời, Chí Phèo trở thành một
con người khác, một còn người mất đi cả hình hài vốn có, mất đi cả nhân tính trước
đây, giờ đây người ta xem Chí như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại..
Chí Phèo trở về với cái ngoại hình ghê sợ: "Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Trong bộ
dạng với chiếc quần nái màu đen, cái áo tây vàng, ngực, cánh tay chạm trỗ những rồng
phượng, ai nhìn thấy cũng phải thốt lên "trông gớm chết!". Cái nhân dạng xấu xí, tồi
tệ đến thế nào mà còn có tính cách hướng thiện thì người đời còn để tâm, nhưng Chí
Phèo ra tù tính tình cũng đổi khác, hắn uống rượu say khướt cả ngày từ trưa tới tối, rồi
vác thân đến nhà Bá Kiến làm loạn ăn vạ. Tưởng cương quyết vạch tội ác của bầy lũ
thất đức kia những chỉ vài câu dỗ ngọt, vài chén rượu thừa, vài đồng bạc thuê, Chí lại
xuôi lòng mà làm thuê cho hắn "Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng
thấy lòng nguôi nguôi....Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn
vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào". Tên Bá Kiến độc ác kia lại
dàn xếp với ý nghĩ ngông cuồng có tính toán của hắn: " Không có những thằng đầu bò
thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? " để dùng Chí Phèo như một tên lưu manh, đầu
bò. Và Chí đã sập bẫy Bá Kiến, từ đấy hắn làm hại không biết bao nhiêu người, phá
phách của cải của bao nhiêu gia đình lương thiện. Hắn châm lửa đốt nhà của mụ hàng
rượu, hắn đòi nợ cho Bá Kiến rồi tự huênh hoàng: "anh hùng làng này cóc có thằng
nào bằng ta!". Được nhận vài đồng bạc, vài sào ruộng, Chí càng hả hê sung sướng, rồi
đâm đầu theo tên Bá Kiên giang hùng, hiểm độc. Theo thời gian, hắn cứ thế như một
kẻ vô danh, không tên không tuổi, "Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba
mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ
cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt
những con vật có bao giờ biết tuổi?". Hắn không có cả thẻ biến tuổi, trong làng xem
hắn là dân lưu tán, vậy mà tội lỗi của Chí nếu viết ra sớ cũng dài ngốn giấy "Bao
nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!". Đau
đớn thay cái xã hội với những kẻ tàn ác, những kẻ vì lợi ích, mục đích cá nhân mà đẩy
con người đến đường cùng của sự tha hoá, dạy con người đi từ tội lỗi này đến tội lỗi
khác. Chí trở thành một kẻ gian ác bởi bàn tay kẻ gian ác tạo nên, Chí giờ đây không
còn là Chí của năm nào nữa, Chí chẳng hề biết được rằng mình chính bây giờ lại "là
con quỷ dữ của làng Vũ Ðại". Người ta xa lánh, sợ hãi hắn như xa lánh một điều gì đó đáng sợ, ghê tởm.
Những tưởng rồi sẽ chẳng có ai đánh thức được phần người trong kẻ tha hoá kia.
Nhưng chính trái tim yêu thương hay lòng thương hại của một cô gái xấu xí lại cho
Chí cảm nhận được tình người. Chí gặp Thị Nở nơi vườn chuối khi hắn đang say
khướt, sự thú vị mà hắn cảm nhận được từ một người "ma chê quỷ hờn" làm hắn "rộn
rạo khắp người". Và sau cái đêm trăng sáng ấy, Chí mở mắt, cảm nhận được hết
những điều xung quanh mà bấy lâu hắn không hề biết, không hề quan tâm tới, lòng
hắn có chút bâng khuâng, lạ lùng: "Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng
đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu,
hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những
người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những
người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá", rồi hắn nôn nao nhớ lại những
ước mơ bình dị xưa kia của mình. Bát cháo của Thị đã cứu vớt tâm hồn Chí, Chí bắt
đầu thấy được thực tại quá nghiệt ngã của mình, nghĩ về một tương lai đầy những nỗi
cô độc, đói rét ,ốm đau, hắn bắt đầu thấy sợ hãi, sợ hãi tột cùng. Còn biết sợ là còn có
tính người, còn biết sợ mới chính là con người thực trong Chí. Chí bắt đầu hồi sinh
chính mình, bắt đầu biết nhận thức về cuộc đời mình một lần nữa. Chí cảm động đến
phát khóc khi bưng bát cháo trên tay, bởi từ trước tới nay miếng ăn đều do hắn cướp
bóc mà có được, Thị là người đầu tiên cho hắn cháo một cách tự nguyện như thế. Chí
thấy ăn năn và hối hận, Chí khát khao, nghĩ suy được làm người lương thiện, được
cùng sống vui vẻ với mọi người xung quanh: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống
yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được".
Lấp lánh lương tri trong người Chí lại không thể thắng nổi sự tàn bạo của xã hội lúc
bấy giờ. Chí một lần nữa lại rơi vào bi kịch. Hắn muốn được chung sống cùng Thị
nhưng Thị lại cự tuyệt hắn, những lời lẽ cay nghiệt, mỉa mai nhưng là sự thực của bà
cô khiến hắn càng tức giận, đau đớn. Dù đã cố gắng nhưng mọi sự đều không thể thay
đổi bởi cái định kiến, nghĩ suy mà người ta gán vào trong cái nhân hình của Chí,
người ta khinh sợ Chí, không chấp nhận một kẻ như Chí làm chồng. Nỗi cay đắng
cuộn trào, sự căm thù càng lớn, Chí vác dao hòng giết bà cô nhưng bước chân hướng
đến nhà tên Bá Kiến, bởi trong Chí lúc này đã hiểu ra rằng, kẻ đẩy hắn vào đường
cùng, vào kết cục tàn nhẫn bị thảm này là tên Bá Kiến hung tàn chứ không là ai khác.
Chí đã giết chết Bá Kiến, kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, bi đát của chính mình. Một
cái chết đáng thương, một cái chết để lại cho lòng người những nghĩ suy , trăn trở, cái
chết tố cáo một xã hội thực dân đã đẩy những người khốn khổ vào cái chết bi thương.
Đến khi chết, Chí vẫn kêu gào những tiếng xót xa: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện,
hắn muốn làm hòa”. “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết
không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?"
Bằng việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã khắc hoạ nên nhân vật
Chí Phèo hết sức thành công. Qua nhân vật Chí Phèo ta hiểu hơn được những khốn
khổ của người nông dân trước cách mạng, thêm căm phẫn một xã hội mà ngay chính
cả quyền được sống, được làm người của con người cũng bị tước đoạt.
Phân tích nhân vật Chí Phèo học sinh giỏi
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông
đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng
ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm là
sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo
cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi
gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn
cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà,
Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn
tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng.
Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ
mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành
một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến
tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua
những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo
thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ
trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ
là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm
sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác
miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn.
Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn
say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh
sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng
chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào
mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn
chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những
ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ,
một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính
mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm… hắn
càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng
sợ hơn là đói rét và ốm đau.
Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân
nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng
về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu,
xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao
mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh
đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn
thấy mắt mình ươn ướt”. Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác
nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể
ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ
Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây,
có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang
lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc.
Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà.
Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho
một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà
Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa
buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại
như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm
nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy
“thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống
chung…” Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc
mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa.
Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình
hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cùng thị Nở.
Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng
thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với
người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được
bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi
kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để
rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ – cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá
Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội – lực lượng không kém phần
tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà
cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm
người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình
người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan.
Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt,
bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí “ngẩn
người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay”nhưng không được. Đau đớn cùng cực,
Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” và “tỉnh ra, chao ôi,
buồn”. Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn
thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định
trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay
không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ
cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người
và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về,
tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện?”, tỉnh táo để thể hiện mong muốn
cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện!” và tỉnh táo với sự thật
phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu
nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí
Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn
không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để
được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này.
Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát
vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo
chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí
phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí
phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu
sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và
cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đưa người nông
dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình
khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi
họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người.
Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền
được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là
chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành
công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic;
tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng
giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là
một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của
Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một
cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy
giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét
đặc sắc nhất đánh dấu “Chí Phèo” trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của
văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích nhân vật Chí Phèo ngắn gọn
Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 là thời kỳ vô cùng đen tối trong lịch
sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực
dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý và khai thác
tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt
đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,...
Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt
vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh
lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một
nhân vật điển hình và gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang và
những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho
đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất là bi kịch bị từ chối quyền làm người.
Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn
bị người ta bỏ rơi bên cái lò gạch cũ trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ, có
biết bao nhiêu đáng thương và xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau
thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn
là Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng có
lấy nửa phần may mắn là được một gia đình tử tế nhận nuôi, mà bị truyền tay hết từ
người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng Vũ
Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành,
chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Bá Kiến, kiếm sống bằng
chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với
những ước mơ dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước có một mái ấm hạnh phúc,
chồng làm ruộng vợ dệt vải, có mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ
ước gì quá cao xa bồng bột, nhưng có lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi
đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn là căn nguyên dẫn đến những tột cùng
bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự
trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của bà ba - vợ Bá Kiến, nhưng một
chàng trai đang độ tuổi thanh xuân là Chí lại chẳng hề có chút suy chuyển, Chí chỉ
thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy,
dù là về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một
triết lý rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta
không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì
người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập
dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng lương thiện của mình.
Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của lũ người thống trị,
một người đàn bà đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực là Bá Kiến
chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội
nghiệp. Và thế là Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống
thẳng vào tù 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với lũ quan sai. Nhưng nó đâu phải là một
cái nhà tù bình thường cho người ta cơ hội được sống, được cải tạo, mặc dù Chí cũng
chẳng làm gì sai. Mà cái nhà tù ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một
kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên
sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là gì
nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung mà giờ đây người ta
chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người có dáng vẻ khác thường, khác người
“trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì
đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen
với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một
ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không
còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy
một kẻ giống đặc như lưu manh, và rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi
chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ở ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã
say khướt thì chân nam đá chân chiêu mò đến nhà Bá Kiến vừa đi vừa chửi, không ai
dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài,
người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta
còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với Lý
Cường con trai của Bá Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, và ăn vạ một cách
vô cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me
chảy bê bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Bá Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con
nhà mày đây thôi”. Như thế có thể thấy rõ rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về
nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm
Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng và ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá
Kiến sợ, nhưng trái lại nó lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như Bá kiến,
bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học
của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường
không thể vãn hồi. Bá kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã
có thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn,
trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thuê Chí Phèo lại không hề nhận
ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, mà vẫn ngày ngày bán lẻ
nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong
tầm mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một con gì ấy rất lạ, không phải một con
người có nhân tính mà là một gương mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó
vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc mà thấy xót xa cho một
kiếp người chẳng được làm người, mà lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ
vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của
hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say,
ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc
say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận” Suốt 15 năm, nhưng đời
người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình
với sự ủng hộ tuyệt đối của bè lũ thống trị phong kiến tay sai, thật xót xa và đau đớn.
Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng mà Bá Kiến chỉ đạo, biết
“bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”,
rồi riết hắn nghĩ đó chính là cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra rằng,
Chí Phèo dẫu có tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm,
nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ và xa lánh. Hắn chửi trời,
đất, chửi tất cả và “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”,
để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai
thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa,
Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong
cô độc và tuyệt vọng.
Có lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại ở đấy thôi, nhưng không cái xã hội thối nát này nó
không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp
gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống
vào tù. Người đàn bà xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng
sủa về thế giới xung quanh, đó là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười
đùa, và cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề
ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể
yếu ớt, rã rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của
cuộc đời trong vô thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu,
bệnh tật và sự cô độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự cô đơn, bởi vốn dĩ hắn đã
cô đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã
làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời
lương thiện, làm sống lại những mơ ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện,
hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng
phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm bê tha, cuối
cùng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái
tình người của Thị Nở, rồi sau đó là tình yêu với thị, và những mong ước có lẽ sẽ trở
thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường,
được hưởng hạnh phúc và hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.
Nhưng trời nào có chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của bà cô,
người đàn bà ế chỏng trơ, thấy cháu gái có chồng thì liền không cam lòng, và sự dở
hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu
không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng xã hội và những định kiến
sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến
và tự sát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân
vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong
tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng là nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm
quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.
Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất cho nền văn học
hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người
nông dân trong xã hội cũ và sự tàn ác, vô nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con
người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không
kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính là bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm
lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày
vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 1
Để chọn một tác phẩm hay nhất phản ánh được tận cùng thân phận của người nông
dân trong xã hội cũ thì không thể không nhắc đến tác phẩm Chí Phèo. Mới đầu người
ta nghĩ nhân vật anh Pha trong “Bức đường cùng” của Nguyễn Công Hoan bị sưu thuế
đè nặng và đẩy vào tình cảnh nghèo đói, không lối thoát. Rồi cho đến nhân vật chị
Dậu người ta lại thấy tình cảnh người nông dân khổ sở thêm mức nữa bởi chị phải bán
chó bán con để đóng sưu. Tưởng chừng không còn gì để khổ hơn thì Chí Phèo trong
trang sách của Nam Cao ngật ngưỡng bước ra thì người ta mới cảm nhận thấy được
đây mới là sự tận cùng của cái khổ. Chí Phèo bán cả nhân hình lẫn nhân tính của mình
để nhận được cái kết là trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhân vật Chí Phèo chí là
hiện thân đầy đủ nhất về nỗi khổ của người nông dân trong xã hội và khiến cho tác
phẩm “Chí Phèo” vẫn còn sống đến tận bây giờ.
Có thể thấy được nhân vật Chí Phèo hiện lên với một nỗi bi kịch. Đó chính là bi kịch
của một nông dân cùng khổ đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, Chí Phèo đã
bị cự tuyệt quyền làm người. Nói một cách dễ hiểu thì số phận bi thảm của một con
người muốn được làm người – đây là quyền ai cũng có cả thế nhưng với Chí Phèo lại
không được như thế. Nhà văn Nam Cao thật tài tình khi đã viết về tấn bi kịch của nhân
vật vô cùng sắc sảo. Thêm với đó thì luôn biết biến hóa lúc kể, lúc tả, có lúc thì triết lí
thì thấm thía vô cùng trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật. Đồng thời
cũng đã lại làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỷ nay.
Nhà văn Nam Cao dường như không nói về sưu thuế đã khiến con người có được
những khám phá riêng về chính số phần của người lao động. Người lao động bị chà
đạp và đồng thời họ cũng có một cái nhìn thật mới mẻ và cũng thật độc đáo, sâu sắc
trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức, bóc
lột đến tàn tệ trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến.
Xây dựng lên nhân vật Chí Phèo bất hạnh chính ngay từ khi sơ sinh theo lời kể của
nhà văn Nam Cao “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch
bỏ không”. Thế rồi có anh thả ống lươn thấy và đem cho một người đàn bà góa mù
nuôi, sau đó Chí Phèo cũng lại bị đem bán cho bác phó cối. Chí Phèo – một anh nông
dân lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, lại còn nghèo
đến mức không một mái lều che thân cũng chẳng có lấy một tấc đất cắm dùi. Chí Phèo
sống cứ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ cho đến năm 20 tuổi thì nhân vật Chí
Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Nam Cao nói về trang đời thơ ấu vô cùng bất hạnh của Chí Phèo đó chính là khoảng
thời gian 20 năm trời đắng cay. Chính tấn bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ câu
chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà bà Ba lại cứ “hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay
xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí Phèo là người chứ không phải là gỗ đá, nhưng hắn
thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ. Thế rồi xuất phát chỉ một chuyện ghen tuông
không đau thôi mà Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí Phèo giải lên
huyện, đồng thời cũng lại bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Khi Chí Phèo ở nhà tù thực dân
đã biến anh từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, trở
thành một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Chí Phèo đi tù biệt tăm và rồi khi trở về thì trông ngoại hình của Chí đã khác hẳn. Câu
văn miêu tả “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng
câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng,
cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy”... Tất cả đó
là một hình ảnh của Chí Phèo, đã vậy Chí lại chuyên rạch mặt ăn vạ. Ra tù phải đến
nhà Bá Kiến để hỏi tội và Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang
ngược. Thế nhưng chỉ một bữa rượu thịt, một vài câu mơn trớn thêm với đó là một
đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho Chí Phèo vô cùng hả hê và quên hết Bá Kiến
đã đẩy mình vào tình trạng như thế.
Chưa hết, Bá Kiến hiểu được “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ 2 sợ kẻ cố cùng liều
thân” cho nên đã ngon ngọt nịnh Chí Phèo trở thành đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán mình cho quỷ dữ cũng chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ
dữ ghê tởm khiến ai ai cũng phải sợ. Chí như cứ triền miên, chìm ngập vào trong vũng
bùn vô cùng tăm tối và tội lỗi với hơi rượu. Rượu đã làm cho Chí Phèo mất hết ý niệm
về thời gian, tuổi tác, Chí không nhớ một điều gì nữa cả. Hình ảnh Chí Phèo hiện lên
là một con vật lạ, trên mắt có đầy những vết rạch mặt dọc ngang thật ghê sợ. Chí Phèo
đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu, cứ những cơn say của Chí như cứ
từ cơn say này sang cơn say khác. Chí đã bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu
manh hóa bao nhiêu tội lỗi. “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát
bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của
bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo lúc này đây cũng đã bị cả xã hội ruồng bỏ, ngay cả cái thẻ có biên tên tuổi
của Chí Phèo cũng không có trong sổ làng. Thế rồi chính người ta vẫn khai hắn vào
hạng dân lưu tán đã rất lâu năm không về làng. Thực sự giờ đây mỗi khi hắn xuất hiện
thì cả dân làng đều sợ hắn, thậm chí là còn tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Chí Phèo
chửi thì ai cũng nghĩ chắc “nó chừa mình ra”, tiếng chửi như xuất hiện ngay đầu câu
chuyện khiến nó cứ ám ảnh về một con người nhưng lại bị cả xã hội không công nhận.
Người ta giao tiếp với nhau bằng tiếng nói còn đối với Chí Phèo thì lại dùng tiếng
chửi. Thế nhưng cũng không ai để ý đến Chí nữa, Chí Phèo như đã bị xã hội dứt khoát
cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ
biến đồng thời cũng có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc. Trong
chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến cũng có rất nhiều người lao động lương thiện bị
xã hội xô đẩy vào chính con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để
tồn tại. Qua tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một điều đó chính là
chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, nhẫn tâm, độc ác và áp bức bóc lột tàn tệ dân
lành thì chừng đó chắc chắn sẽ còn người lao động lương thiện, hiền lành bị xô đẩy
vào con đường lưu manh tội lỗi. Chính cái xã hội đó cũng đã lấy mất đi linh hồn của
Chí Phèo, hủy diệt nhân tính, nhân hình của một anh nông dân chất phác. Nhà văn
Nam Cao cũng đã cho thấy được quy luật bạo tàn, ghê sợ trong xã hội cũ.
Và rồi cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở. Thị Nở được miêu tả là một người xấu đến
ma chê quỷ hờn. Sau cuộc làm tình mang tính bản năng của Chí Phèo thì với sự chăm
sóc cẩn thận của Thị Nở Chí Phèo lúc này cũng đã khiến cho Chí Phèo thay đổi. Sáng
hôm sau, lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh dậy trong cơn say triền miên tưởng không dứt.
Chí Phèo bị cảm và Thị Nở đã chăm sóc cũng như nấu cho Chí một bát cháo hành.
Cuộc đời Chí muốn ăn thì phải cướp, giành lấy chứ chưa bao giờ được ăn và lại được
người khác mang cho như này. Chí Phèo – một con quỷ dữ của làng Vũ Đại ai ai cũng
sợ hắn và duy chỉ có thị Nở mới nhận ra Chí Phèo sao mà hiền!
Chí Phèo tỉnh trong cơn say triền miên thì có những tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người
đi chợ cười nói có cả tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả... Tất cả những điều
này đó chính là những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới
nghe thấy rõ nhất, đó chính là tiếng của nhịp sống mà lâu nay Chí đã bỏ quên. Trong
lòng Chí Phèo như cũng vô cùng buồn và mong muốn có thể làm hòa với mọi người,
muốn trở thành người lương thiện. Bất giác Chí như nhớ về ước mơ bình dị bấy đó là
ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nuôi lợn
làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Chí nhớ lắm và Chí lại lo sợ về
cuộc đời, Thị Nở chính là người đã khiến cho Chí nhận ra được cuộc sống ý nghĩa.
Bằng con mắt tinh tế, thấu hiểu nhân vật nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí
Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện. Ở Chí thì cái bản tính của hẳn
ngày thường bị lấp đi và được sự chăm sóc của thị Nở thì nay đã hồi sinh trở về. Thực
sự đó cũng chính là một cái nhìn vô cùng sâu sắc cùng với tấm lòng xót thương đầy
tình người của nhà văn đối với những kiếp người lương thiện mà bị xã hội xa lánh.
Khi mà linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra thì bỗng nhiên Chí Phèo
bỗng thấy thèm lương thiện thế những định kiến xã hội – bà cô thị Nở cấm đoán đã
khiến cho Chí không thể hoàn lương. Ở Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng
và muốn “đâm chết con đĩ Nở kia, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Chí lại tìm đến
rượu, và khác với những cơn say khác Chí rất tỉnh táo khi nhận ra được kẻ thù của
mình chính là Bá Kiến. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện bằng cách
đâm chết Bá Kiến sau đó cũng tự kết liễu đời mình. Khi ý thức về nhân phẩm đã trở
về thì Chí Phèo không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ và không thể
chấp nhận được kiếp sống như thú vật được nữa. Cái chết của Chí Phèo rất bi thảm,
quằn quại trên vũng máu của mình. Anh chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, ám
ảnh vì anh chết ngay trên ngưỡng cửa về cuộc đời.
Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật, một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang
tính chất điển hình. Ở nhân vật cũng đã lên án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người
dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, xã hội đó cũng đã cướp đi của họ cả bộ
mặt, cả linh hồn người để trở thành quỷ dữ. Câu nói của Chí Phèo kết thúc chuyện
thực sự ám ảnh, nó giống như một lời tố cáo đanh thép của nhà văn trước xã hội đầy
bất công đã đẩy người nông dân vào mức đường cùng không lối thoát. “Ai cho tao lương thiện?”
Với tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn đã viết lên một câu chuyện như vừa chứa chan tình
cảm nhân đạo, đồng thời cũng lại mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình
thức nghệ thuật độc đáo. Tất cả từ hình thức đến nội dung của truyện đã đạt đến độ
độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác văn học của dòng văn học hiện thực phê phán.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 2
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của
dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công
Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác
phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình
tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng
người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách
độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa
đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời,
chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được
bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng
tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên
hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông
nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người
đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo
vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới
đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói
lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người
trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí
Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong
đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại
hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi
hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo
khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác
phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí
phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh,
tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng
là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập
dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây
mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà
giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con
vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn
vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu
là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí
thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của
người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó
có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên
quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc,
lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi
người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực
dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương
thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”,
"răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái
dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc
ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu
biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể
hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt
quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi
rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho
vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày
Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời
sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời
sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt
đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường
bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương
thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm
sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra
thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là
những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn
bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn
những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó
giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ
dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo.
Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở
chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức
dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp
sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành
cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí
Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý
thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê
cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm,
hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi
chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có?
Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha
hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt
nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình
dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là
“lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền
trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính
giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn
hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình
sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương
thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị
Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng
đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của
anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời
Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn
xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất
kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn
bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch
mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong
xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã
bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt
vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng
uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn
giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng
nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi.
Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn
được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa
say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi
theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không
xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng
tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”.
Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một
câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một
niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu
trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự
kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên
giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội
đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của
những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại
con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy
thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là
niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những
nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan,
xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có
nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay
lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà
cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống
trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con
đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách
là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để
Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra
vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình
tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản
chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy
đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và
lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám.
Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng
định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại
quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn
học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn
hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 3
Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt
Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng
quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi mà những con người hiền lành bị đẩy lui
vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được
Nam Cao dựng lên là một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình
cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, là kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt
Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi
mà nghèo đói và những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ
khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra và lớn lên giữa
một xã hội như thế, một xã hội mà định kiến có thể giết chết một con người và luật lệ
thì được dựng lên trong tay những kẻ có quyền. Chí Phèo đã sống và bị những định
kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một
"con quỷ" sống của làng Vũ Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ ở bên ngưỡng cửa
được trở thành người lương thiện.
Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại có một cách vào truyện
đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa
mĩ, đẹp đẽ mà lại là tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi
ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo – một con người "từng lương thiện".
Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng "Râu hùm, hàm én, mày ngài", không có
một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say "Hắn vừa
đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Sự xuất hiện của hắn thật
đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của
một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.
Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới vô cớ
khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy
nghe có vẻ vô lý thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng logic, vô cùng
đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí
bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng "Trời có của riêng nhà nào?", thế là
hắn "chửi đời", nhưng "đời là tất cả nhưng chẳng là ai". Rồi hắn lại chửi cả làng Vũ
Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo
cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như vô cớ mà ta lại thấy hợp lý vô cùng. Hắn chửi từ cái
chung đến cái riêng, từ cái vô cùng đến cái cụ thể. Chửi vậy mới đúng là một tên say
rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ xã hội, dù chỉ là một
tiếng chửi, vậy mà chẳng ai quan tâm đến "không ai lên tiếng cả", chỉ bởi hắn là một
"con quỷ" khiến ai cũng khiếp sợ.
Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài
tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu
manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những
cơn say mà cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới có thể chửi đời,
chửi trời, chửi cả làng mà chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới
thấy, có lẽ tiếng chửi là phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn
nhận ra là hắn đang được sống giữa xã hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế
nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, cô lập hắn vào giữa cái xã hội thu nhỏ, để hắn
trở nên lạc lõng, cô đơn.
Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tò mò tự hỏi, tại sao Chí lại
là người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Chí đã trở thành một kẻ nghiện rượu, một
tên lưu manh như thế? Hay còn vì sao, vì lý do gì đã đẩy hắn đến bước đường cùng như thế?
Chí Phèo – hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí,
một kẻ luôn "triền miên say", luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng
là một con người lương thiện hay chưa? Vâng, đúng là thế, đúng là Chí Phèo cũng đã
từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo ở cái làng Vũ Đại này.
Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn "Hắn không biết, cả làng Vũ
Đại cũng không ai biết", bởi hắn được vứt bên một cái lò gạch cũ và được một người
đi thả ống lươn nhặt được "trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái
lò gạch bỏ không". Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được
lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun
đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất
phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống
nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Bá Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao
động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền
lành khác, có những mơ ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một
người con gái để xây lên "một gia đình nho nhỏ" mà "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải". Ước mơ ấy đơn giản làm sao, nhỏ bé và chính đáng làm sao. Thế nhưng,
những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.
Là một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng có lòng tự trọng tự tôn
như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị bà Ba của Bá Kiến gọi tới
"bóp chân", hắn đã làm thật miễn cưỡng, "hắn thấy nhục hơn là thích". Hắn có lòng tự
trọng, có ý thức về nhân phẩm của chính mình, có lẽ chính vì vậy, khi bị bắt làm cái
việc không chính đáng ấy, "hắn vừa làm vừa run".
Phải, Chí Phèo vốn đã từng là một người nông dân lương thiện như bao người nông
dân khác trong xã hội đương thời ấy, trong cái làng Vũ Đại ấy. Hắn có ước mơ, có
lòng tự trọng, có sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm
chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân và
hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.
Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù
và trở thành một "con quỷ" khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù,
Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu có ai nghĩ rằng đã từng có một Chí
Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?
Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết rõ trong tác
phẩm, Chí Phèo bị Bá Kiến ghen nên đẩy vào tù. Bá Kiến ghen ghét chàng lực điền
cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện mà đẩy hắn vào tù. Và cuộc sống trong
chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành
một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.
Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con
người. Hắn chẳng còn là chàng trai chất phác như xưa nữa mà triệt để thay đổi ngoại
hình "Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết". Không chỉ có thế,
trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào là "quần nái
đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một
ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Chí Phèo đã thực sự
biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền
lành, chất phác giờ đây lại trông "đặc như thằng săng đá" khiến cho tất thảy cả cái
làng Vũ Đại "mới đầu chẳng biết là ai". Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán
bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.
Thế nhưng, cái nhà tù đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn
trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo mà còn thay
đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một "con quỷ" của làng Vũ Đại. Xưa
kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ
đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt "hắn về hôm trước, hôm sau đã
thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt …", và
mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi và hành cái nghề "ăn vạ" của mình. Hắn trở thành
một tên lưu manh chính hiệu và "sống bằng dọa nạt hay cướp giật", bởi hắn đâu còn
mục đích gì để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã ghìm thật
sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.
Đến sau này, sau một lần ăn vạ Bá Kiến không thành và được Bá Kiến dỗ ngọt, Chí
Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm,
đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Và thế là cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến
người dân làng Vũ Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn là một con người nữa, hắn
đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của mình mất rồi.
Có thể nói Chí Phèo chính là một nạn nhân trực tiếp của nhà tù thực dân, của xã hội
đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn là điển hình cho hình ảnh một người nông
dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng mà trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương
thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã
hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng có một Chí Phèo tha hóa đến mức như thế!
Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật
điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ
chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại
nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.
Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng ở đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa mà trở
thành một kẻ chuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã vô cùng nhân
đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí có thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh
sáng đó chính là Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo và Thị Nở đã khiến
hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả là hấp dẫn đặc biệt, bởi "ngưu tầm
ngưu, mã tầm mã", thế nhưng nó lại là một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc mà Nam
Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.
Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức …
Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn là người phụ nữ "xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng", đã ngoài ba
mươi tuổi nhưng vì xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần
Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say
trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí
cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng mà ân tình của người đàn bà
ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu dưới tận đáy. Linh hồn
Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải là một con quỷ nữa.
Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy mà không say. Hắn nhận ra "trời đã sáng
từ lâu", nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày "tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài
gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có."Lần đầu tiên sau
bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những
tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có
"nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…". Hắn chợt "bâng khuâng" và thầy "lòng mơ hồ
buồn". Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như là tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của
Chí, nó đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy rõ cuộc đời của
mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa "cái gì rất xa xôi", nhắc cho hắn rằng hắn cũng
từng mơ ước về một cuộc sống êm đềm như thế "một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng cái mơ ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn
nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi "tỉnh dậy hắn thấy
hắn già mà vẫn còn cô độc". Và cái tương lai ở phía kia còn đáng buồn hơn "Hắn đã
tới cái dốc bên kia của cuộc đời", vậy mà chẳng có ai bầu bạn, chẳng có gì để nuôi
thân, và sớm thôi "hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và
cô độc". Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi
hắn "bao giờ cũng say", thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo mà ý thức
được số phận của mình.
Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo
mà nhận thức được, bởi vậy hắn có những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người
khác là cái sợ về tuổi già và sự ốm đau, sự cô độc. Ngày trước, hắn là một con quỷ
"sống bằng dọa nạt và cướp giật" thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm
xúc đời thường, những mơ ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang trở về với hắn?
Và khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn "rất ngạc nhiên" và
thực sự xúc động "bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn
nhận bát cháo từ tay Thị nở và bỗng nhận ra rằng "cháo hành ăn rất ngon". Bởi bát
cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành mà còn được nấu bởi hương vị của
tình yêu tình người, của yêu thương chân thực và hạnh phúc giản dị, và tất cả những
cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà "hắn thấy mắt hình như ươn
ướt", một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai có thể nhận ra đó là cái thằng Chí Phèo vẫn
thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực
trở lại là anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước mơ giản dị mà
khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí có lẽ chính là
giọt nước mắt hạnh phúc mà người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường vô
cùng, con người vô cùng.
Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở
lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động – cái bản chất đã bị vùi lấp tận
sâu bởi bọn cường hào và xã hội thực dân. Có thể nói, linh hồn của người nông dân
nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy lũ cường hào, thực dân trong xã hội, chúng
muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã
thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại
khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh
hắn, "hắn thèm lương thiện", hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã
mơ tưởng đến cuộc sống mà chính Thị là người sẽ mở đường cho hắn và hắn sẽ được
nhận vào "cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Chí Phèo
đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.
Có lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu có thể
biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho dù tình yêu ấy có bị chế giễu, những con
người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân
thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với
những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở - người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi
lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó là một tư tưởng
nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.
Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ có vậy
mà còn có những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết
thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những tình huống mới.
Có nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch của số phận, của tạo hóa
trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là
bi kịch thực sự thì phải là khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời,
khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người.
Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị "Hay là mình sang đây ở với tớ một
nhà cho vui", một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí
vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như mơ ước của Chí ngày
xưa nhưng không. Định kiến của xã hội mà tiêu biểu ở đây là bà cô Thị Nở đã tước đi
của hắn cái quyền làm người ấy. Bà cô Thị là một kẻ không chồng, đã ngoài năm
mươi tuổi và khi thấy Thị hỏi bà về cái việc ấy, bà đã một mực ngăn cản Thị đến với
Chí Phèo "Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng", "Đàn ông đã chết hết cả rồi
sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ?".
Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng
không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến
về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy
vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.
Từ khi Thị Nở đến và "trút vào hắn tất cả những lời của bà cô" rồi "ngoay ngoáy cái
mông đít đi về" thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia sẽ chẳng bao giờ công
nhận mình. Ban đầu, hắn còn "ngạc nhiên", còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ
chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, "hắn nghĩ ngợi
một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt
vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái xã hội ngoài kia,
nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái xã hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế mà
thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!
Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp
hắn trở lại là hắn, là một con quỷ, "là một kẻ mạnh". Thế nhưng, càng lạ là hôm nay,
hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". Có lẽ là hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên
hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng
của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra,
mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình mà thấm thía nó. Những giọt nước mắt
của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện "hắn ôm mặt khóc rưng rức", thế nhưng chẳng còn
là giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương mà là giọt nước mắt của tận cùng đau
khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối,
muốn thoát ra, muốn trở lại với một "xã hội công bằng và thân thiện của những con
người lương thiện" để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng
chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của xã hội đã giết
chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn
có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.
Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo và xách dao đi, ban đầu hắn
lẩm bẩm tự nhủ phải đi "đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó".
Hắn cứ lảm nhảm, "cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó", nhưng "nó" là ai? Lúc này, sau khi
tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết cái kẻ đã đẩy hắn đến bước đường
ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn "cứ đi", nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại
xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo "trợn mắt, chỉ vào mặt" lão mà
dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị rạch nát của mình.
Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trở về thì chẳng thể ác được nữa,
bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú
vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi
đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết
trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo
phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt
giữ lại linh hồn lương thiện của mình. Có nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn
nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra,
ông thực ra đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy.
Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp cô độc, phải chịu đựng bi
kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, có lẽ hắn sẽ thanh thản, và có thể sẽ lại
được trở về làm một người lương thiện lần nữa.
Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao
thống thiết được trở lại làm người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với Bá
Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day
dứt "Ai cho tao lương thiện?", ai cho hắn được một lần nữa là một con người, được
sống một cuộc sống con người?
Cái chết của Chí Phèo và hành động giết chết Bá Kiến không chỉ mang một lớp ý
nghĩa. Qua hành động giết chết Bá Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây là một sự
trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Bá Kiến là những kẻ đã
đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán
linh hồn cho quỷ dữ để được sống. Và một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức
về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng là những kẻ phải
nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết
bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó là bi kịch của những người nông dân
mong muốn có được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với xã hội, được yêu
thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.
Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người
nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây
dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong xã hội để đặt nhân
vật vào trong đó, vừa làm rõ nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện,
vừa làm rõ mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở
thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn
lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.
Ít có nhà văn nào có được cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây
dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình,
đặc biệt là nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ và bi kịch cuộc
đời của con người ấy và lý giải nó hết sức cặn kẽ và thấu đáo. Qua bi kịch của người
nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến hà khắc,
với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể có được hạnh phúc
dù là nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp
cổ bé họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện và hạnh phúc.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí
Phèo – một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao
thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu
tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để
đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau
khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong xã hội Việt Nam trước khi Cách mạng thành công.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 4
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ,
một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn
khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị
xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra
trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí
Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính
sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả
đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam
trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh
hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác
phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân
bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội
ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm
khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm
ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch
cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền
trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen
tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ
Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh
thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ.
Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng
chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch
cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí
Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất
sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một
lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít”
lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là
lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói
của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng
cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu
từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã
thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người
– những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để
được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ
thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp
với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả.
Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự
bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí
Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà
to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi.
Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có
quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình
thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng
càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất
hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và
một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi
đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng
trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã
chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc
đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không
bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng
lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo
rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 5
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài
nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm
khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn
hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển
hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu
biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu
manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm
của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn
bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết
lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng
người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám
phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu
sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức
bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp
để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người
đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ,
không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc
đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo
làm canh điền cho lí Kiến.
Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay
không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện bà Ba ông
lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì
đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.
Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên
bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí
Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại "lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn:
“Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt
gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và
cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí
Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt.
Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên
đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã
hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra
Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một
đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về
chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh
đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng
quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự:
“Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật". Hắn
nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ
Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến
nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm
năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó
Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào
vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương
hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ,
và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào
vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc
đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay
ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái
mặt của con vật lạ” với màu '‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu là
sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội
lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn
đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn
này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống
rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào
con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan
và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng
Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên
vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong
sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả
dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc
thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình
ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một
người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời,
chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức
mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn
bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với
một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy
luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã
hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại.
Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết
lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con
trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt
khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều
lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn
cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao
động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm
thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh
hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí
Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết
làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự
tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn.
Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo.
Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau
mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí
phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính
trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở
đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người
đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo
lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn
bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" mà thôi! Nhưng
thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân
thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ
từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng
tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành
của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi
cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một
bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà
“lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà
độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí
Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận
được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là
bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí
Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh
dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười
nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm
nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”,
Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí.
Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những
người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng
càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia
cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn
đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn
vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà
cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc
nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương
thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của
thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo.
Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này
đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương
thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại
nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn bà
cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ
mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.
Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm
người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe
hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm
người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí
Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được
cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị
nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người
của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà
thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại". Bà
quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”.
Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng
Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi
qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay,
linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người”
nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại.
Hắn “ngẩn người'’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn
đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn
vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại
uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn
của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại
dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người
rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải
đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba
đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm
người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: "… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương
thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào
xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau
khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng
Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân
phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như
thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết
trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng
cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý
nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối
tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí
Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm
day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình
dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo,
Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao
đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến
trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo,
vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc
đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 6
Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta
liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất
của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân
hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn
Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể
không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.
Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải
chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch
sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện
sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với
người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên
của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có
một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những
câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà
người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau
bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng
“cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” … Nhưng không ai lên tiếng cả.
Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại
không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người
ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi
người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của
Chí thể hiện sự vật vã. dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng
khốn khó thay. Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên
tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ” … giá như… giá
như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ
Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng
chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá
khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ
thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã
thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh
ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một
câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi
cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí
trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với
những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết
không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái
mà anh có thế với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết
với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ
hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn
về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã
cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính
tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì
còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra
đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết”
Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm
trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng
cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân
thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả
được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng
của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai
không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong
lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia
đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương
thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao
nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn.
Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự
có mặt của hắn trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền
làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách
vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi
đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn
khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo
chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cốt cách người ta sản
sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ
tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một
con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm
lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của
thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại
là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí.
Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi
dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở.
Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu
năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói
của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ
trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy
buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm
đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn
cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình thương yêu
của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ
làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam
Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh
phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối
để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung
với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay
cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả
rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã
hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng
có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm
tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai
cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không
thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không
được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói
những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân
mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí
cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là
lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức
mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi
khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện
cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu
không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên
từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm
thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo siêu hay
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời,
ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật
ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và
nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào
lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác
phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo
sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản
ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì
Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị
xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân
phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn
mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở
làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng,
Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân,
hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất
cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian
làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không
được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là
sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy
nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một
cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày,
để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn
tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn.
Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời
Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn
luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào
con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi
giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai.
Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen mà, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo
tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng
cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí
Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh,
côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo
không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh
tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên
được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra
những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như
rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù
của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy
diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy
trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của
làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao
nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy
máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng
với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc
gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã
không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của
Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu
thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc
hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam
Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện
– Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là
người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời,
chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại
nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ
và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được
làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà
nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí
Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn
sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau
bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân
vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như
bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà
cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo.
Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý
thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn
say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực
sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người.
Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết
trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn
và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám
ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực
là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi
nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện
tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao
cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật
điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn
và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên
tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng:
“Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân
vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số
người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu
rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân
đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn
đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi
kịch mày phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa
con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên
nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ
như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí
cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn,
cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình
mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng
chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về
làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã
hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi
đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn
đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ”
bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của
cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù
vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của
mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch
mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc
đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau
trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi.
Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả
làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên
sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm
hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm,
lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ
hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính
cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút
khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho
ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng
khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là
khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận
hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra
câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người
mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen
nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn
ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết
rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ
chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người
lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được
những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành
tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn
chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới
chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã
đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã
tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội
nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu
thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm
trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước
cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc
họa bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát.
Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo
nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp
trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt
mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của
một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi
đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.
Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí
Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người.
Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn
cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ
giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng.
Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này
lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.
Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương
thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì
mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí
vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng
có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương
ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của
lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho
lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau
bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt
người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái
mặt thì đen mà lại rất cong hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh,
đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những
tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già
Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động
cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh
“con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay
yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu
thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao
nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy
máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy
vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”.
Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn
tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho
người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.
Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng
hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót
thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm
lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng
nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ
cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất
hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã
rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí
Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính
cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh
nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng
anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán
vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm
sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói
rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang
hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí
thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong
Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần
người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng
khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ
toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm
hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát
“Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…
Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một
tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với
mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”.
Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự
được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là
tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm
sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình
thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với
Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và
thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo
hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội
lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một
niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái
xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn
không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say.
Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau
đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất,
Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con
“khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy
chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm
mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu
trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người,
cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một
nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện– Ai cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi
đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi
đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc
về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.
Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng
kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy
cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn
mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang
sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và
giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng
đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy
đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong
một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.”
(Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học
và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được
lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao.
Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người
nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp
và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông
dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn
dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái
say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ
cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là
một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi.
Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả
dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa
chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say,
Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu
manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại
hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì
đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra
từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở
làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng,
Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân,
hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác.
Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được
ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng
là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải
trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ
ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn
giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện
trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị
Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một
anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái
đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta
tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng
thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt,
chửi bới, dọa nạt trong lúc say.
Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ
bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái
mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành,
nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng
đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được.
Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt
nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê,
chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh
yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân
lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy
thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt,
linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội –
một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà
Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến
nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào,
có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những
người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao
vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người
trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một
người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ
chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý
thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có
tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng
lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”,
về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô
độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm.
Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm,
biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng
dõi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện
vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở
về với xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi
người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương
thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam
Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã
không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ
lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi
vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà
ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một
thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát
vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa
say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở
thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương.
Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí
Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời
mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội
đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể
trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải
quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh
tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không
ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không
kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt
theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của
Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí
Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 5
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người
nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán.
Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam
Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ
nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông
dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng,
liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy
trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ
cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí
Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y
đối lập với tạo hóa, với xã hội.
Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha
đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau
với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa
là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây
liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con
vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.
Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào
lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn
cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa
bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một
người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng
trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt
nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự
tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số
phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông
qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên
quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã
đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi
thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh
điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở
nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động.
Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu
xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất
trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và
nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về
làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cắm dùi
không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm
thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những
thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ
cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ
Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.
Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu
bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến để trả
thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa
thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may
mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật.
Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm
con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào
tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cố’ cùng liều thân”.
Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để
biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ
tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán,
ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo
cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn.
Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời
mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.
Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời
rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại
hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không
hẳn ra con vật, đầy những lằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ.
Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.
Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống
chịu, thậm chí đến lối “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu
đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu
biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y;
ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh
ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình
tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao
đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ.
Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh.
Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản
kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc
của Chí Phèo để rồi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị
Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không
chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người
cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.
Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi
tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là
bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị
Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình
yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở
lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ
Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi
đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.
Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang
“say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống.
Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu
không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức
…”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng
thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết.
Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo
tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí
Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả
quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát
quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo.
Cuộc đời đầy đau thương, tủi phận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của
tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của
những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.
Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản
chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể
hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 6
Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi
bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của người nông
dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo,
Lão Hạc, Một bữa no….
Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người
đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng
tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà
tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước
cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã rất xuất sắc khi
xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực
dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết
như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.
Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta
nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi
cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là
“liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi.
Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để
giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình
giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái
cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.
Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự
cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình
dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã
không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận
ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự
với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…
Người ta nhìn thấy bây giờ là gì?Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm
ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm
trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông
tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành
lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày
nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét,
làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã
hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng.
Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương
thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của
biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn
trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người
trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại
trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
Nam cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau
thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức
như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được
đồng cảm hơn là sự xa lánh
Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn
để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những
phẫn uất mà xã hội mang đến.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.Con
người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương
thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là
ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải…
Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là
buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước
mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn,
đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”
Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn
nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con
người khác. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi
dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức
tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.
Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên
trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa
nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi.
Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy
lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?.
Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá
điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh
cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như
lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà
hóa ra lại vô cùng lớn lao
Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa
thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô
của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã
đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí.
Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời
chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau.Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo
hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức.Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn
cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.
Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm
chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch
đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy,
Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của
một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma
dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.
– Tao muốn làm người lương thiện
– Ai cho tao lương thiện?
Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta
vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn
thứ khắc nghiệt bủa vây, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết
liễu đời mình là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương
và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân
văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của
một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.
Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây
giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác,
dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán
viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và không thể không kể đến Nam
Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là
hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa con hoang bị bỏ rơi lúc
mới lọt lòng. Chí được một bác phó ciu mang đưa Chí về nuôi rồi đến khi bác phó
chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt ngày đi ở cho nhà
này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian Chí Phèo
đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí được mọi người khen là hiền như đất, dù
không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai, phải trái khi ở trong nhà Bá Kiến.
Mỗi lần bị mụ vợ Bá Kiến gọi vào bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương
gì", Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau là sự dâm đãng đáng khinh rẻ. Cũng như bao
nhiêu khác, Chí cũng mơ về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi “Chồng cuốc mướn
cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm
ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập và cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi
Chí bị Bá Kiến đẩy vào con đường tù tội chỉ vì sự ghen tuông bạo chúa, bị kịch của
cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó dị dạng.
Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc như thằng săng
đá”, với “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm".
Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị mọi người xa lánh, đi đến đâu
cũng bị xua đuổi. Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, cậy cái say nó đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con người
đến nghẹt thở, Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa.
Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ lọc lõi
như Bá Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, nó làm mọi thứ
mà không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến là “Lấy thằng
đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của
bây giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn quỷ đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội ngày xưa-
một xã hội vô nhân đạo với những con người sống không có tình người, một xã hội
mà Vũ Trọng Phụng gọi nó với cái tên khinh nhược là "chó đểu". Nơi mà những tên
địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí họ còn quyết định được sự sống
của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng nhà văn
Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần con của Chí vẫn
tồn tại chất người. Và dường như phần người của Chí được thể hiện khi gặp được
đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở- một
người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm định mệnh giữa Chí
Phèo và Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm Chí như được hồi sinh. Có lẽ lần đầu tiên từ
khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười
nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Lần đầu Chí ý
thức về tuổi tác, bản thân mình "đã già mà vẫn còn cô độc". Dường như lý trí và lương
tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí. Một con người đâm thuê, chém
mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ tưởng chừng như sống không tình, không
người nhưng Chí đã xúc động rưng rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa
nồng hơi ấm. Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một
con người tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo khao
khát hoàn lương- trở về với hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Hắn mang một lòng
tin rằng chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ ước muốn, khao khát
muốn được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực, trong cái khung cảnh, tư tưởng lúc bấy giờ Nam
Cao không thể rời thực tế mà bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được. Khao khát
hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi
đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ chối khát
vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa tình, cố níu mà
không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kẻ đáng thương và tội nghiệp. Thị Nở quay
lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng sập lại. Chí lại ngập
trong cơn say và tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành một người thân tàn ma dại để trả thù và
cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sống mà làm
con quỷ dữ trong cái xã hội đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt
nhất. Đó là cái chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một xã hội
phong kiến cổ hủ để rồi câu nói "Ai cho tao lương thiện?" vang vọng và ám ảnh mãi
không nguôi. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài nội dung,
ý nghĩa của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây dựng nhân vật,
phân tích tâm lý nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận dụng đối thoại, độc
thoại phù hợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. Ngòi bút hiện
thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng cảm xúc chân thực nhất, phải
chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau hiểu được
phần nào cuộc sống cơ khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận cùng. Qua đó thể
hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 8
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam
Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những
truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa
Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai
đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật
điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào
loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở
vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của
những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột
ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bi
kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả
những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người
nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống
thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ
lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng
thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân
lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô
cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức
trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác
phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn
tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu,
không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường
người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn
thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần
đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng
qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra
nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người
đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong
lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta
hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như
mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là
hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn
lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò
gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể
trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy
và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là
một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối.
Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi
nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà
khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội
nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ
dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước
cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những
người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân
phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá
Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo ,
không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà
vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn
tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình
yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm
mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương
thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân
vật chị Dậu của Ngô Tất Tố đã cầm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê
tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự
trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão
cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.
Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà
thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính
cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá
Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ
đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên
người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn
ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác.
Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh
trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi
hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi
nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở
thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm
chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con
đường tội lỗi không có lối thoát.
Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát
hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước
cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần
cùng của những người nông dân thì đã có “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái
mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha
hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà,
chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không
bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn
bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng
sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện
của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính
quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên
tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một
trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của
Thị Nở dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng
chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương
thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con
người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành
những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong
con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”.
Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia
hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?”
Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và
nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này.
Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn
ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị
có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến
Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp
và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn khát khao
muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện
gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm
tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động
đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng
sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài
xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ
người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để
cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí
chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở
không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu
nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là
cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta
khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được
làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ
uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với
người trong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng
tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào
hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi.
Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước
ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế
và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa
say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đến nhà Bá
Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như
thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự
tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương
thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng.
Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận
người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt
vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng
sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì
Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một
xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người
của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa
là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một
kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ
khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là
sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải
thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi
đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa
phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân
chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với
nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị
Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí
Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh
Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau
đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của
nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của
xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt
cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về
miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như
lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8.
Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng
định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống,
quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân
vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng
những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 9
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có
rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi,
họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình
yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông
dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở
đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu
sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội.
Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí
Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo
cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng.
Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến
Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí
từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng.
Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh
gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị
nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận
thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời
mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và
trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng
nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh
lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà
văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma
chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông
chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau.
Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ
đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”.
“Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý
của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết
mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo
hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại
trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được
đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng
nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời
Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.
Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người
thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng
mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí.
Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui
vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…
Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời!
Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao,
đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của
đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc,
mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.
Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo
hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này
còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí
hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong
men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua
quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất
nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình
trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm
trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận.
Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản
đơn và thánh thiện ngày nào của mình.
Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc
sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn
tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi
người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng
người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này,
khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình
yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp.
Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say.
Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của
tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nửa của Chí. Đó là
lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh
thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì
dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc
này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai
Thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng
thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình….
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi
Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao
kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng
lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để
đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương
thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến
quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để
không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là
tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt
với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và
kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng
tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến
bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không
có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say,
nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh
khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính
là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong
người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình
yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn.
Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim.
Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực
tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một
tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh
phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau
khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối
từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí
Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới
người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những
dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi
người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.