Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền (2 Dàn ý + 11 Mẫu) | Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền (2 Dàn ý + 11 Mẫu) | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền Dàn ý số 1 I. Mở bài:
- Đôi nét về tác giả Ngô Thì Nhậm: Một Nho sĩ toàn tài có đóng góp to lớn, tích cực cho triều đại Tây Sơn
- Chiếu cầu hiền là tác phẩm được sáng tác nằm mục đích kêu gọi các hiền tài khắp
mọi nơi cởi bỏ tị hiềm, gắng đem hết tài sức của bản thân ra giúp vua trong sự nghiệp chấn hưng đất nước II. Thân bài:
1. Quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
- Mở đầu là một hình ảnh so sánh: “Người hiền như sao sáng trên trời”: nhấn mạnh, đề
cao vai trò của người hiền
- “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần”: quy luật tự nhiên ⇒ khẳng định người hiền
phụng sự cho thiên tử là một cách xử thế đúng, là lẽ tất yếu, hợp với ý trời.
- Khẳng định:“Nếu như che mất … người hiền vậy”: Người hiền có tài mà đi ẩn dật,
lánh đời như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị giấu đi
⇒ Hiền tài như sao sáng, cần phải ra sức giúp thiên tử trị vì, nếu không là trái quy luật, đạo trời
⇒ Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục, cách đặt vấn đề hấp dẫn, có sức thuyết phục
2. Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
a.Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà: - Khi thời thế suy vi:
● Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng
● Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn hoặc làm việc cầm chừng
● Một số “ra biển vào sông”: ẩn đi mỗi người một phương
⇒ Sử dụng hình ảnh lấy từ kinh điển Nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng trưng: Tạo
cách nói tế nhị, châm biếm nhẹ nhàng; thể hiện kiến thức sâu rộng của người cầu hiền
- Khi thời thế đã ổn định: “chưa thấy có ai tìm đến” ⇒ Tâm trạng của vua Quang
Trung, niềm khắc khoải mong chờ người hiền ra giúp nước
- Hai câu hỏi tu từ liên tiếp “Hay trẫm ít đức…vương hầu chăng”: Thôi thúc, khiến người nghe tự suy ngẫm
⇒ Cách nói khiêm tốn nhưng thuyết phục, tác động vào nhận thức của các hiền tài
buộc người nghe phải thay đổi cách ứng xử
b. Thực trạng và nhu cầu của thời đại
- Tình hình đất nước hiện tại:
● Buổi đầu dựng nghiệp nên triều chính chưa ổn định ● Biên ải chưa yên
● Dân chưa hồi sức sau chiến tranh
● Đức của vua chưa nhuần thấm khắp nơi
⇒ Cái nhìn toàn diện sâu sắc: triều đại mới tạo lập, mọi việc đang bắt đầu nên còn nhiều khó khăn
- Nhu cầu thời đại: hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua
● Sử dụng hình ảnh cụ thể “Một cái cột…trị bình”: Đề cao và khẳng định vai trò của hiền tài
● Dẫn lời Khổng Tử “Suy đi tính lại…hay sao”: Khẳng định sự tồn tại của nhân tài trong nước
⇒ Đưa ra kết luận người hiền tài phải ra phục vụ hết mình cho triều đại mới
⇒ Quang Trung là vị vua yêu nước thương dân, có tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ. Lời lẽ:
khiêm nhường, chân thành, tha thiết nhưng cũng kiên quyết, có sức thuyết phục cao
3. Con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước:
- Cách tiến cử những người hiền tài:
● Mọi tầng lớp đều được dâng thư bày tỏ việc nước
● Các quan được phép tiến cử người có tài nghệ.
● Những người ở ẩn được phép dâng sớ tự tiến cử.
⇒ Biện pháp cầu hiền đúng đắn, thiết thực và dễ thực hiện
- “Những ai … tôn vinh”: lời kêu gọi, động viên mọi người tài đức ra giúp nước:
⇒ Quang Trung là vị vua có tư tưởng tiến bộ 4. Nghệ thuật - Cách nói sùng cổ
- Lời văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết đủ lí đủ tình III. Kết bài:
- Khái quát lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của văn bản
- Tác phẩm thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung và triều đình Tây Sơn
trong việc cầu hiền tài phục vụ cho sự nghiệp dựng nước Dàn ý số 2 I. Mở bài
- Bài chiếu này do ai viết? Viết cho đối tượng nào? Nhằm mục đích gì?
Bài chiếu này do Ngô Thì Nhậm viết theo lệnh của vua Quang Trung cho các trí thức
Bắc Hà nhằm động viên họ đem tài năng tham gia xây dựng đất nước. Vì vậy, tư
tưởng tình cảm của Ngô Thì Nhậm trong bài chiếu cũng chính là tư tưởng tình cảm của vua Quang Trung. II. Thân bài
1/ Vai trò trách nhiệm của người hiền
- Người hiền là người có tài có đức để giúp dân giúp đời, còn thiên tử là con trời. Theo
quan niệm xưa, vua là người được sự uỷ thác của trời (thiên mệnh) để cai quản thiên
hạ. Thiên tử muốn cai trị được thiên hạ phải có sự trợ giúp của người hiền. Để nêu bật
mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử, tác giả đã vào đề như thế nào?
• Từng nghe việc xử thế người hiền cũng như vì sao sáng trên trời
• Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải để thiên tử sử dụng
• Bằng phương pháp so sánh liên tưởng, mượn một hiện tượng kì vĩ của thiên
nhiên để khẳng định tính tất yếu trong mối quan hệ của người hiền với thiên tử.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra giả định:
• Nếu giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không để cho người đời dùng thì không đúng
với ý trời sinh ra người hiền tài
• Nêu ra một giả định để rồi từ đó khẳng định vai trò trách nhiệm của người hiền
đối với dân với nước. Người hiền rất quan trọng với dân với nước. Và lẽ đương
nhiên, người hiền sinh ra là để cho thiên tử sử dụng. Nhưng nay người hiền
chưa chầu về, vua phải ban chiếu cầu hiền. 2/ Cầu hiền
Người hiền chưa chầu về ắt hẳn phải có lí do. Vậy theo tác giả lí do cầu hiền là gì?
a) Lí do cầu hiền, theo tác giả có hai lí do:
- Thứ nhất là do hoàn cảnh lịch sử mà dân tộc ta vừa phải trải qua
+ Trước đây, gặp lúc một thời, đất nước có nhiều biến cố, kẻ sĩ muốn giữ khí tiết
người thì ngậm tăm, kẻ làm dân thường, hoặc làm bậc cao ẩn giấu kín danh tiếng.
+ Thời điểm mà tác giả muốn nói đến là giai đoạn lịch sử cuối thế kỉ XVIII, chúa
Trịnh ngày càng lấn át vua Lê. Sau sự kiện Tây Sơn ra Thăng Long “phù Lê diệt
Trịnh” năm 1786, xung đột vua Lê chúa Trịnh đã gay gắt hơn, rồi can thiệp của quân
xâm lược nhà Thanh và cuộc hành quân thần tốc của Nguyễn Huệ Quang trung ra
Thăng Long đánh đuổi giặc Thanh xâm lược, mở ra trang sử mới của đất nước ta. Nói
chung trong bối cảnh xã hội loạn lạc, kẻ sĩ thường lúng túng và chán nản, bi quan.
Nhiều người không muốn hoạt động xã hội, muốn trốn tránh không ra làm quan sợ
liên lụy hoặc vì muốn bảo toàn nhân cách nhà nho “tôi trung không thờ hai chủ”. Mặt
khác, kẻ sĩ Bắc Hà đã hơn ba trăm năm phụng sự nhà Lê. Khi nhà Lê sụp đổ, triều đại
Tây Sơn lên thay, một số nhà nho đã sáng suốt ủng hộ Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Ninh Tốn... Song còn nhiều nhà nho
do quan điểm đạo đức bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh lịch sử của
Tây Sơn, nên đã bất hợp tác, thậm chí còn chống lại. Điển hình là tiến sĩ Trần Danh
Án, người đã được Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích viết thư khuyên mời cộng tác với
Tây Sơn đến ba lần nhưng đều cự tuyệt.
Lí do thứ hai là “Nhà nước vừa mới được trời tạo lập, chính là lúc cần người quân tử
thi thố tài kinh luân bởi “mọi sự mới bắt đầu, kỉ cương triều đình còn nhiều thiếu sót,
công việc biên ải chính lúc lo toan. Dân khốn khổ còn chưa hồi sức, việc giáo hoá đạo
đức chưa thấm nhuần”.
- Thứ hai, do buổi đầu xây dựng đất nước còn rất khó khăn bề bộn mà người hiền tài lại chưa ra hợp tác
+ Nếu em ở vào cương vị của vua Quang Trung, em sẽ hành động như thế nào
=> Quang Trung không chỉ thể hiện tài chỉ huy quân sự trăm trận trăm thắng, mà nhà
vua còn thể hiện tài năng trong việc dùng người trị quốc.
b) Thuyết phục trí thức Bắc Hà hợp tác
Để làm được điều đó, trước tiên:
- Quang Trung bày tỏ thái độ chân thành của mình: “Trẫm hiện đương ngồi bên mép
chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi. Thế mà những người tài cao học
rộng, chưa có ai đến? Hay là trẫm là người ít đức, không xứng đáng để những người ấy phò tá chăng?"
=>Nhận xét về cách bày tỏ thái độ của vua Quang Trung
- Hình ảnh Trẫm ngồi bên mép chiếu kết hợp với các câu hỏi tu từ đã nhấn mạnh thái
độ khiêm tốn sự chân thành mong mỏi hợp tác của các bậc hiền tài.
- Không chỉ có vậy, Quang Trung còn:
• Quang Trung còn giúp trí thức Bắc Hà hiểu đúng những nhiệm vụ xây dựng đất
nước to lớn mà triều đại Tây Sơn đang dự kiến thực hiện.
• Quang Trung cho rằng “làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây,
xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”.
- Bằng phương pháp so sánh liên tưởng, tác giả đã:
• Khẳng định đề cao vai trò sức mạnh tập thể của người hiền trong sự nghiệp
chung xây dựng đất nước
• Trên cơ sở đó Quang Trung thúc giục về ý thức và trách nhiệm của người hiền
tài đối với đất nước “một đất nước rộng lớn có truyền thống văn chương như
thế này há lại không có người kiệt xuất hơn đời để giúp rập chính sự buổi đầu cho Trẫm ư?”.
=> Với hoàn cảnh lịch sử xã hội mà dân tộc ta vừa trải qua, với tình hình cụ thể của
đất nước như vậy, với thái độ chân thành mong muốn hợp tác, Quang Trung đã đưa ra quyết định của mình.
c) Chính thức ban chiếu cầu hiền cầu hiền đãi sĩ
- Để mệnh lệnh của mình có sức động viên tối đa, nhà vua đã:
+ Ban chiếu đến mọi đối tượng “quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ, ai có tài
năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép dâng thư bày tỏ công việc”
+ Ai cũng có thể tiến cử hoặc tự cử “Ai có một tài nghệ khả năng gì có thể ứng dụng
cho đời, cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử”. Hoặc “người từ trước đến nay
giấu tài ẩn tiếng, không ai biết đến cũng cho phép được dâng thư tự cử”.
+ Nêu rõ quan điểm dùng người: Bổ nhiệm đúng năng lực và không trách tội trong việc tiến cử
• “Người có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, lời có lời lẽ không
dùng được thì để đấy, chứ không bắt tội nói viển vông, không thiết thực”.
• “Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây, xây dựng nền thái bình
không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”
• Nhà vua cho rằng: đất nước này đáng tự hào biết bao. Việc giữ gìn và xây dựng
đất nước là sự nghiệp chung của nhân dân, đặc biệt là những người kiệt xuất
hơn đời dù họ xuất thân từ nho học hay dân chúng.
- Vì sao vua Quang Trung lại ban chiếu cầu hiền như vậy?
+ Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng, từ thái độ mong muốn chân thành được hợp tác
với người hiền tài vì sự nghiệp chung của đất nước
=> Qua nội dung bài chiếu, có thể thấy con người vua Quang Trung là một người
thông minh, tinh tế, hiểu đời, hiểu người, mọi suy nghĩ lời nói hành động đều xuất
phát từ lợi ích vì dân, vì nước
3/ Lời động viên thúc giục
- Kết thúc bài chiếu là: • Câu cảm thán • Là quy luật ở đời
• Là một thái độ tôn kính trân trọng
• Là sự hứa hẹn rạng danh và sự chung hưởng tôn vinh
=> Đã có sức cổ vũ động viên tối đa. III. Kết bài
- Về nội dung: Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng
đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà đem tài năng tham gia xây dựng đất nước.
- Về nghệ thuật: Bài văn luận thuyết có tính mẫu mực thể hiện trong sự chặt chẽ và
tính lô-gíc của các luận điểm trong sự thuyết phục khéo léo, trong cách bày tỏ thái độ
khiêm tốn của người viết cũng chính là tư tưởng của người chỉ đạo – của vua Quang Trung.
Phân tích Chiếu cầu hiền - Mẫu 1
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn
từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những
thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung
của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc
sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.
“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào
xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang
Trung. Quang Trung đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả
bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn
quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là
triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy rằng trước sự kiện trên đã có
một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời
Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất cả đều trốn
tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước.
Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền
phái Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi
những người tài giỏi ra cứu dân, giúp nước.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ
ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài
trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì
ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là
văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua
Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh
lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được
người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như
là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài
chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói
rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó
là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã
nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác
giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như
vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan
trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối
với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy
cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến
là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng
của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như
cũng đã muốn cho sĩ phú hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng
người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần
như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như
thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan
trọng cho chiếu cầu hiền.
Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của
nhà vua khi mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài
cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình
hình khó khăn của đất nước và cả chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền
tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những
sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang minh chính địa của vua Quang Trung.
Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó còn chính là tình cảm của
nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của vua
Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của nền
đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức
thiết của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế
khó khăn. Ta cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những
câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó chính là một đất nước mà dường
như ở đời đầu mới ở buổi rất khó khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi
đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và
cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về để có thể được phụng sự
giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó thì dường như cả
“kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và nhân
dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một
cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một
người không thể dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua
Quang Trung như thật sáng suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.
Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nêu ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang
Trung. Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường
lối chính sách của vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách
công bằng cho tất cả mọi người, và cho thấy được vua Quang Trung là một vị vua anh
minh, thương yêu nhân dân
Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng
sớ tâu bày tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự
tiến cử. Thông qua bài chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe
ý kiến của quần chúng. Và đây quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị
vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.
Phân tích Chiếu cầu hiền - Mẫu 2
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì
Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân,
giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân
thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và
tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.
Yêu cầu đối với một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, đòi hỏi người viết phải am hiểu
sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ,
phải dùng được những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục
khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi có trình độ uyên tâm lỗi lạc, là người
rất có tài thuyết phục lòng người. Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” chúng ta đã thấy
được tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến
lòng người phải nể phục.
“Từng nghe người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về
Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những
tài sản quý giá của đất nước, giống như “sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra
giúp vua trị nước mới xứng đáng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo
của tác giả đã tăng thêm tính thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời”
tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả
lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu
phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự
còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để
đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ
lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người
cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ
cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ
nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là báu vật mà ông trời đã ban cho đất nước, vì vậy việc tập hợp người hiền tài
giúp nước là công việc rất quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn sớm hôm mong
mỏi. Vua Quang Trung là vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp tan giặc, ông
rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm
nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày
không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không đựng được thái bình”.
Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước
nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của nhà vua Quang Trung cho thấy vua
không lúc nào không nghĩ tới cuộc sống của nhân dân và lo toan cho quốc gia đại sự.
Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua một lòng vì dân vì nước, dâng
hiến cả cuộc đời cho dân tộc. Có một vị vua và lý tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ
luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Qua đó ta thấy được tình yêu nước, thương dân nồng nàn của một đức minh quân tài
ba. Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tính dân chủ
trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước, cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà
vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, để thấy được tương lai sau này
của đất nước. Vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm
sao cho dân ấm no, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng là mơ ước của nhà vua
nhằm canh tân đất nước.
Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài,
cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết
được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải
thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời
gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền - Mẫu 3
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ
năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê - Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng
góp nên được Quang Trung trọng dụng. Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu
cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như
kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.
Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những
lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị
vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng
nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật
tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Mở đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại
có sức thuyết phục cao.
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao.
Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như
che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là
ý trời sinh ra người hiền vậy.
Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so
sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước.
Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dễ hiểu là: Hiền tài là tinh hoa
của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là
Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như
là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước. Ngô Thì Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ
các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách
ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo
ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết
phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.
Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài,
cũng như việc lẩn tránh trách nhiệm với đất nước như: Trước đây thời thế suy vi,
Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời,
những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ
gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường
như muốn lẩn tránh suốt đời.
Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những
người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ:
mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng.
Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc
cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một
số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị
nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp
nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm
nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi
của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.
Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh
điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra
người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không
những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thỏa đáng của mình.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà
còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa
bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát
triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run
sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to,
mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng
nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa
tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc
sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và
quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí
tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt
chẽ và tính logic của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn,
chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận
thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức. Người
viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như
thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc
nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Phân tích Chiếu cầu hiền - Mẫu 4
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã
giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ
triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể
hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng
như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc
hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng
những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô
Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết
phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác
giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến
lòng người phải nể phục.
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về
Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là
những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất
phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo
của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh "sao sáng
trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác
giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không
thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung
châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường
không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào
sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà
vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc
quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của
nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn
hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có
những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết:
"Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là
cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền
tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn "sớm
hôm mong mỏi". Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc,
sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế
lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra
nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa
chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng:
sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được
thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn
vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy
vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia
đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho
dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được
thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh
đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ
một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác
chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy
ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật,
mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ
trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà
vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này
của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối
với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát
vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ
ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài,
cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã
truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn
dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một
thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền - Mẫu 5
Ra chiếu cầu hiền là một việc làm quen thuộc của các bậc đế vương lúc mới lên ngôi
và lúc đang ra tay xếp đặt lại chính sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy văn
học trung đại còn để lại nhiều "tờ" chiếu cầu hiền, được viết bởi những tác giả khác
nhau, thừa lệnh những ông vua khác nhau. Số lượng tuy nhiều nhưng không phải
chiếu cầu hiền nào cũng được hậu thế thưởng thức như một áng văn có giá trị, được
các nhà sử học quan tâm tìm hiểu kĩ càng để có thể nhận ra được thực chất của một
triều đại và tầm nhìn của một đấng quân vương. Điều này có liên quan đến văn tài của
người viết cùng tình huống lịch sử buổi chiếu cầu hiền được ban bố (với loại hình tác
phẩm như chiếu cầu hiền, việc tìm hiểu kĩ càng những yếu tố ngoài văn bản có ý nghĩa rất quan trọng).
Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một "tờ" chiếu
nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rõ ràng,
hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định
trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân
không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài
nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bởi nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc
triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ
đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi
tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm
- người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,...
Khi đảm trách việc viết Chiếu cầu hiền cho vua mới, Ngô Thì Nhậm có được những
thuận lợi lớn: quan hệ giữa ông và Quang Trung là rất tốt đẹp. Quang Trung hiểu ông,
trọng dụng ông và ông không chỉ phục mà còn biết ơn sâu xa người anh hùng này.
Nhưng ông không phải chỉ gặp toàn thuận lợi. Tiếng gì ông cũng là bề tôi cũ của chúa
Trịnh, giờ nói về đức sáng của Nguyễn Huệ, không dễ gì thuyết phục được những
người cố chấp. Thêm nữa, ông hiểu những khó khăn riêng của vị vua "áo vải cờ đào"
này (mà ở trên đã đề cập). Ông không có được sự thoải mái hoàn toàn như Nguyễn
Trãi ngày xưa khi cũng thảo Chiếu cầu hiền (thay mặt Lê Lợi, lúc cuộc bình Ngô đã
thành công trọn vẹn). Ban Chiếu cầu hiền, Lê Lợi hoàn toàn có lí do để không phải tỏ
thái độ quá khiêm nhường. Nguyễn Trãi hiểu điều đó nên đã thể hiện lời của Lê Lợi
như một mệnh lệnh nghiêm khắc: "Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại
phu, từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn
dã...". Nguyễn Trãi cũng biết rõ uy lực của một bậc đế vương vừa hoàn thành đại
nghiệp, rất quyết đoán trong việc thưởng phạt, nên đã viết:
"Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều
hơn người tột bực, tất được trọng thưởng"...
Những điều vừa được trình bày cho thấy: dù chiếu là một thể loại văn bản hành chính
của nhà nước, nó có những đinh lệ riêng, nhưng không phải vì thế mà viết nó chỉ là
việc mỏ phỏng theo công thức. Tính cách, tư tưởng, tầm nhìn của các vị vua là khác
nhau. Tình hình đất nước trong mỗi thời lại có những nét đặc thù. Bởi vậy, mức độ
nhạy cảm về chính trị, khả năng luận thuyết, tài văn chương,... của người lĩnh mệnh
thảo chiếu luôn có đất để thể hiện. Đọc Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay
mặt Quang Trung, độc già ngày nay có thể hiểu được rất nhiều điều về hai nhân vật
xuất chúng này của đất nước - riêng từng người và cả mối quan hệ vua - tôi đầy đồng
cảm, đầy tâm đắc giữa họ nữa.
Chiếu cầu hiền ta đang nói có ba phần lớn, liên kết với nhau theo một logic chặt chẽ.
Phần đầu của văn bản tập trung luận về người hiền và chức năng của họ. Người hiền
được tác giả ví "như ngôi sao sáng trên trời cao" và chức năng của họ được xác định là
"làm sứ giả cho thiên tử". Mối liên hệ giữa hai vấn đề này là gì ? Tại sao không ví
người hiền với đối tượng nào khác ? Tất cả những điều này đều đã được tác giả ý thức.
Người hiền như sao sáng - riêng so sánh này đã toát lên ý tôn vinh và trân trọng rất
mực. Nhưng trong mạch lập luận của mình, tác giả nói đến nhiều ngôi sao là để dẫn
chúng ta tới một ngôi sao chính: sao Bắc Thần (tức là Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là
sao - một ngôi sao có vị trí đặc biệt trên bầu trời, không ai không biết. Quan trọng hơn,
Bắc Thần còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng đế, theo cách hình dung của đức
Khổng Tử. Thì ra mấu chốt của mối liên hệ là ở chỗ này. Mọi sao trên trời đều chầu
về sao Bắc Thần nằm ở vị trí trục quay của trái đất (nói theo kiến thức thiên văn của
người ngày nay), vậy sao - hiền - tài từ các miền không chầu về sao - Bắc - Thần -
thiên - tử thì còn chầu về đâu nữa!
Đó thực là một lẽ tất yếu. Đạo người, luật người phải tương hợp, phải thuận theo đạo
trời, luật trời, không thể khác được. Từ một so sánh tưởng chừng ngẫu hứng và nặng
về tình cảm, tác giả dẫn người đọc tới một kết luận nghiêm túc và hết sức lô-gíc. Như
vậy, ngay từ mấy câu đầu, cái hay trong cách lập luận của áng văn đã được thể hiện.
Hiệu quả của cách lập luận đó là vừa thuyết phục được người ta về lí, vừa thuyết phục
được người ta về mặt tâm linh. Tất nhiên, còn có thể nói thêm: việc tác giả vận dụng
một ý trong sách Luận ngữ là rất giàu ý nghĩa. Đưa lời Khổng Tử ra từ đầu, tác giả đã
tạo nên được tính chính danh cho Chiếu cầu hiền. Đối với nhà nho xưa, lời đức Khổng
Tử chính là chân lí, nào ai dám không nghe theo. Và phải đâu vua mới là kẻ võ biền ít
học, không biết lễ nghĩa !
Sau khi đã đặt được "viên đá tảng" cho toàn bộ hệ thống lập luận của áng văn, cũng
ngay trong phần đầu, tác giả viết: "Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài
mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy". Ý thì đòi
hỏi mà giọng lại thấm đẫm nhân tình và chứa chan khích lệ. Vẫn là một thái độ chân
thành yêu quý hiền tài, xem hiền tài như của báu trời sinh. Nếu hiền tài không được
biết đến, không cho người ta biết đến thì thật phí hoài. Và cũng là có tội với đấng Tạo
hoá đã có công sinh ra mình, vun đắp cho mình nữa ! Chưa kể việc hiền tài mà không
được sử dụng thì đâu còn là hiền tài. Hiền tài không phải là cái danh suông. Giá trị của
nó phải được xác định trong quan hệ và qua hành động.
Trọng điểm của phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền là làm rõ tâm nguyện của Quang
Trung mong có bậc hiền tài giúp mình trị nước. Đầu tiên tác giả nói tới sự trốn tránh
việc đời của các kẻ sĩ giữa thời rối ren, loạn lạc mới đi qua: "Trước đây thời thế suy vi,
Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời,
những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ
gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường
như muốn lẩn tránh suốt đời". Đây là đoạn văn chứa đựng nhiều tầng ý khác nhau.
Trên bề nổi thì đó là sự thông cảm. Nhưng ở bề sâu thì đó là sự trách cứ, dù không gay
gắt. Phải là người từng trải nghiệm tình thế cay đắng bắt buộc phải ngậm lời như hàng
trượng mã, lại bao quát được đại cuộc mới viết nổi những câu như thế. Sự khái quát ở
đây đạt tới mức độ rất cao. Những kiểu trốn tránh việc đời rất đa dạng, những màu vẻ
khác nhau của bi kịch kẻ sĩ đều được điểm tới (điều này phải đọc qua nguyên tác hay
bản dịch sát ý mới cảm nhận hết được).
Cũng cần phải thấy rằng lời lẽ trình bày vấn đề trong đoạn văn khá tế nhị, vì nó đụng
tới một chuyện nhạy cảm: khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh, nho sĩ Bắc Hà
phần lớn tỏ thái độ bất hợp tác. Chuyện trước không thể không nhắc lại, nhưng quan
trọng là nhắc với giọng điệu nào. Quang Trung, theo những gì biểu lộ trong đoạn văn,
là một con người đại lượng. Ông chỉ nói về các sự kiện xảy ra cách đó chưa lâu bằng
mấy từ biến cố, thời thế khá chung chung (theo bản dịch). Thì cũng coi như một sự xí
xoá, dù không hẳn là xí xoá. Điển xưa được dùng rất nhiều (da bò bền, hàng trượng
mã, ra bể vào sông,...) có tác dụng làm mờ bớt tính "khó chịu" của các sự việc đã xảy
ra, khiến người đọc Chiếu cầu hiền thuở ấy có thể bớt phần mặc cảm với tân vương.
Phải nói rằng ở đây, với tư cách là người lĩnh mệnh soạn chiếu, Ngô Thì Nhậm đã
thực hiện được một sự "hoà giải" khéo léo, trên cơ sở hiểu lòng ông vua tri kỉ.
Và cũng từ đó, tác giả mới khơi được mạch văn chảy tới những lời bộc lộ thiết tha
này: "Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người
học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá
chăng ? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng ?". Hai câu hỏi
được đặt ra liên tiếp vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện
được sự đòi hỏi và thậm chí cả chút thách thức nữa của nhà vua. Đúng là những câu
hỏi không thể lảng tránh trả lời !
Đoạn văn tiếp theo của phần hai bàn sâu vào tình thế lịch sử trước mắt và sự cấp thiết
của việc cầu hiền. Lời văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang bộc trực, thẳng thắn.
Toát lên từ đây là nỗi lo lắng thật sự của tân vương đối với vận nước khi nhìn thấy
phía trước bộn bề những công việc cần xử lý, sắp đặt: "Kỷ cương nơi triều chính còn
nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa
lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng,
ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh...". Ở đâu, với ai, việc ra chiếu cầu hiền có khi
chỉ là một thủ đoạn nhằm thu phục nhân tâm, còn ở đây thì hoàn toàn không phải thế.
Ta cảm nhận được nhịp tim đập mạnh, hơi thở nồng nàn của một con người cụ thể
đang hành động, kiên quyết hành động vì một hoài bão lớn, đang hết sức cần một lực
lượng giúp rập, phò tá, thể hiện qua nhịp điệu các câu văn:
"Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng
nghiệp trị bình. [...] trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không
có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ?".
Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích còn phản ánh cái gì khác ngoài nỗi sốt ruột rất
thật, niềm tin tưởng nhiệt thành vào "trữ lượng" hiền tài của đất nước? Đúng là giọng
của một con người đầy cá tính, không chịu lùi bước trước các trở ngại trên con đường
gây dựng nghiệp lớn của mình. Chắc chắn khi viết những câu này, tác giả Chiếu cầu
hiền đang ở trong trạng thái thăng hoa. Ngô Thì Nhậm nói giùm ước nguyện của quân
vương hay nói chính nỗi lòng mình ? Quả thật rất khó phân biệt. Có thể nói ở đây có
một sự cộng hưởng khát vọng giữa hai con người, và giữa hai con người ấy với cả dân tộc.
Phần thứ ba, cũng là phần cuối của "tờ" chiếu nói rõ chính sách cầu hiền của Quang
Trung Nguyễn Huệ. Nội dung của chính sách đó có mấy điểm nổi bật: cho phép mọi
người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách; cho
phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi; cho phép người tài tự
tiến cử; sẵn sàng cất nhắc người xứng đáng, không kể thứ bậc; "tùy tài lục dụng"
những kẻ được tiến cử; không trị tội người có lời sơ suất,... Đứng là một chính sách
rộng mở, có nhiều "điều khoản" chi tiết và giàu tính "khả thi" (nói theo cách của bây
giờ). Rõ ràng, trước khi ra Chiếu cầu hiền, mọi việc đã được đấng quân vương trù liệu
khá kĩ. Ông đã tự chứng tỏ được tầm nhìn xa rộng cũng như khả năng tổ chức, xếp đặt
chính sự của mình. Ông cũng đã biết giải toả những băn khoăn có thể có (trong đó có
băn khoăn tế nhị về danh dự) cho mọi thần dân, khiến họ cảm thấy an tâm khi tham
gia bàn việc nước... Từ những lời đã được nói ra, ta thấy toát lên một giọng khoan hòa,
điềm tĩnh rất dễ lọt tai, giàu tính thuyết phục.
Ra đời với tư cách là một văn bản hành chính của nhà nước, Chiếu cầu hiền vẫn mang
đậm dấu ấn cá nhân của Ngô Thì Nhậm - người thảo ra nó. Dấu ấn này không chí thể
hiện ở lối tư duy sáng rõ, lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ mà còn ở sự nồng nàn của
cảm xúc được chưng cất từ niềm tin vào chính sách đúng đắn của tân vương, tân triều
và niềm biết ơn đối với "tấm lòng" đã không nhìn nhận mình chỉ như một bề tôi, một
công cụ mà như một tri kỉ. Có thể nói Chiếu cầu hiền đã hội tụ được đầy đủ những
điều kiện để trở thành một áng văn chính luận mẫu mực của muôn đời.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền - Mẫu 6
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao
cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp
nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho
thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn
cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập
hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu
trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu
cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về
Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước,
giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với
"ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa
thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh,
khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra
giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó.
"Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo
như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng
có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo
trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước.
Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình,
nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn.
Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến
việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm
trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên
cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau
là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào
hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi".
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà
còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa
bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát
triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run
sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to,
mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng
nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa
tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc
sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và
quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí
tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là
xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài
ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng
lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc
gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu
xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp
ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền - Mẫu 7
Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng.
Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu
dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền
dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa thể hiện chiến lược đứng đắn
vừa là một áng văn xuất sắc.
Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền vào khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết
nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp
sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn. Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ
với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất
nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra
giúp nước; phần còn lại đưa ra hình thức, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất
nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.
Điều đầu tiên tác giả đề cập đến chính là vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự
hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết
sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu
văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc,
đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ. Không dừng lại ở đó, Ngô
Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm
sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được
đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Với cách so sánh đầy
sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì
tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi vậy phải đem tài năng của
mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết
phục được người hiền tài.
Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô
Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp
nước. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết
tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã.
Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết,
chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho
thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình
là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu
văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ. “Nay
trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao
chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa
thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa thể hiện sở nguyện tha thiết, chân
thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước. Nhưng đồng thời thể hiện sự
phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai câu hỏi tu từ ở phía sau. Đánh động vào
suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.
Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều
khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ vậy, đời sống
người dân chưa ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh
chiến. Bởi vậy, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng
nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu
lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Câu văn thể hiện thái độ trân thành
của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo
cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm
huyết và chân thành xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó
quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.
Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp
sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban chiếu để mời gọi người hiền
ra giúp nước. Hình thức vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời
nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền
tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho
sự nghiệp chung của nước nhà.
Với những lời lẽ chân thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang
Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng
cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn,
chân thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước. Trong toàn bộ bài chiếu ta
không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây
Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến
mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền - Mẫu 8
Với thể loại chiếu nếu như ở chương trình Ngữ văn lớp 8 ta được biết đến với tác
phẩm “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn thì sang lớp 11 tìm hiểu tác phẩm cùng thể
loại là “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm. Ông đã từng làm quan dưới triều Lê-
Trịnh, sau phục vụ cho triều đại Tây Sơn có nhiều đóng góp và được trọng dụng. Ông
được vua Quang Trung giao nhiệm vụ viết bài “Chiếu cầu hiền” trong hoàn cảnh triều
đại mới được gây dựng, đất nước gặp nhiều khó khăn, người tài còn vắng bóng với
mục đích nhằm động viên sĩ phu Bắc Hà và những người hiền tài ra phò vua giúp
nước. Văn kiện thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn ra trông rộng của một vị vua anh minh, lỗi lạc.
Chiếu là văn kiện chính trị thuộc loại văn học chức năng, còn có tên gọi khác là
“Chiếu thư”, “Chiếu chỉ”, “Chiếu bản”. Đó là văn cáo mà thiên tử hạ đạt mệnh lệnh
xuống cho thần thuộc. Dù là trực tiếp nhà vua viết hay do người khác vâng theo mệnh
lệnh mà viết thì cũng đều phải thể hiện được tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng
lâu dài đến vận mệnh của đất nước.
Theo như lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các nhà báo: “Trước khi
cầm bút mỗi người cần trả lời ba câu hỏi: Ta viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế
nào?” Chỉ với mười hai từ ngắn gọn đã thâu tóm được quan điểm và nội dung của bài
viết. Đối với bài văn nghị luận sâu sắc như “Chiếu cầu hiền”, khi phân tích tôi chọn
cho mình điểm nhìn đứng ở vị thế của người viết. Chúng ta giải đáp từng câu hỏi để
làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của tác phẩm.
Trước tiên “Ta viết cho ai?” tức đối tượng bài chiếu hướng đến là ai? Trước tình hình
chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra
Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, thừa thắng đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, thù
trong giặc ngoài được loại bỏ, thống nhất non sông về một mối, lập nên triều đại mới -
triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Một số người với quan niệm
bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh của vị vua mới đã có thái độ bất hợp
tác, thậm chí nổi dậy chống lại triều đình Tây Sơn. Nhà vua đã cho viết bài chiếu
trước là để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà có thái độ đúng đắn, hiểu được vận mệnh
dân tộc và mở rộng ra là hiền tài còn ẩn mình hãy đem tài năng ra giúp nước. Chính
sách chiêu hiền không giới hạn phạm vi đối tượng “các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng
thứ dân trăm họ” tất cả mọi người ai cũng có quyền, có trách nhiệm đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Viết để làm gì? Đúng như tên nhan đề là cầu hiền và cũng như phân tích ở trên để
chiêu mộ nhân tài, những con người vừa có đức vừa có tài có tâm ra phụng sự cho dân
cho nước. Mục đích ấy cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ và vai trò to
lớn của người hiền tài đối với vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng đó đã được chủ tịch Hồ
Chí Minh kế thừa qua lời dạy nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.”
Bởi các em chính là thế hệ tương lai của đất nước, nắm trong tay vận mệnh dân tộc
Việt. Ngày nay chủ trương chiêu mộ nhân tài luôn luôn được chính quyền Trung ương
Đảng đề ra và thực hiện bằng các chính sách cụ thể thiết thực về “Đào tạo nhân tài và
bồi dưỡng nhân lực”.
Sau khi xác định rõ được đối tượng và mục đích điều quan trọng là phải viết như thế
nào để thể hiện được mong muốn của tác giả. Ngô Thì Nhậm là người dùi mài kinh sử
học rộng tài cao nên ông am hiểu tâm lí của các sĩ phu. Bởi theo quan niệm chính
thống của tầng lớp Nho sĩ người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới
xứng nối nghiệp tiên vương, mới có khả năng làm Thiên tử. Nguyễn Huệ lại xuất thân
là nông dân nên ít nhiều Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà con tỏ vẻ khinh
miệt, coi thường. Ông nắm được suy nghĩ ấy nên mở đầu tác phẩm đã dùng lời dạy
của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử thuyết phục đối với Nho sĩ Bắc Hà.
Ông chỉ ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như
ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ
giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời
dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Tác giả chỉ ra quy luật của
vũ trụ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” để khẳng định người hiền tài phải phụng
sự cho dân cho nước, phải có trách nhiệm với vận mệnh dân tộc mà trước tiên là “làm
sứ giả cho thiên tử” tức phục vụ cho vua là lẽ tất yếu. Nếu làm trái là không theo ý trời.
Hình ảnh so sánh rất tiêu biểu, cụ thể phù hợp với tâm lí của những con người xuất
thân nơi “Cửa Khổng sân Trình”.
Tiếp đó tác giả nói đến tình cảm của kẻ sĩ dành cho triều đại mới bấy giờ: một số
người tài đức thì “ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời”, những người tinh anh thì sợ
hãi im lặng “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc nửa chừng thì bỏ dở “gõ
mõ canh cửa” hay người bị chết đuối trên cạn, thậm chí có cả những người tự tử để
giữ lòng trung với vua Lê_cái tôi trung thành đến mù quáng. Tác giả không nói thẳng
mà dùng lối nói hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng vừa đả kích nhẹ nhàng, vừa tế nhị
sâu kín lại tỏ ra là người có học thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng, có tài văn chương
khiến cho người nghe không những không chạnh lòng, tự ái mà hiểu ra vấn đề, tự cười
tự trách bản thân mình vì có thái độ chưa đúng đắn.
Sau khi chỉ ra những thái độ tiêu cực của sĩ phu Bắc Hà, vua Quang Trung bày tỏ tâm
sự, lòng chân thành của mình bằng cách đặt ra các câu hỏi khiến cho người đọc, người
nghe phải suy ngẫm, trăn trở: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong
mỏi nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức
không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu
chăng?” Nhà vua tha thiết mong mỏi những người hiền tài có thể ra giúp vua giúp
nước nhưng vì lí do gì mà vẫn vắng bóng. Phải chăng Quang Trung đang tự trách
mình “Ít đức”, hay vì họ viện cớ cho thời đại đổ nát. Thực sự những điều đó không
đúng với hoàn cảnh thực tế bấy giờ. Nếu ít đức sao ông có thể làm nên nghiệp lớn xây
dựng cơ đồ, thời đại đổ nát chẳng phải vì giặc giã phương Bắc đã dẹp, non sông quy
về một mối, triều đại mới vừa được tạo dựng... và còn biết bao điều cần hơn nữa người tài giúp nước.
Thái độ chiêu hiền của nhà vua rất chân thành, ông luôn khiêm tốn, nhún nhường. Nhà
vua chỉ ra tính chất của thời đại, nhu cầu của đất nước và không ngần ngại nhận khiếm
khuyết bản thân và sự bất cập của triều đình mới đồng thời khẳng định sự cần của
người tài với đất nước. Công việc ngày càng nhiều, trọng trách ngày càng lớn một
người không thể gánh vác mà cần sự chung tay góp sức của mọi người. Hình ảnh
“Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể
dựng nghiệp trị bình”. Điều đó cho thấy quan điểm “lấy dân làm gốc” thật đúng đắn
thể hiện một tầm nhìn chiến lược của Quang Trung. Tư tưởng ấy bao đời này vẫn
được gìn giữ và tiếp nối bởi “nước có thể chở thuyền cũng có thể lật thuyền...lật
thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” là vậy. Kết thúc đoạn văn tác giả dùng lối
viết trích dẫn lại lời Khổng Tử để khẳng định người hiền tài trong nước ta còn rất
nhiều, vậy “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại
không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu
của trẫm hay sao?” câu hỏi đó khiến cho biết bao người tài còn ở ẩn phải trăn trở, phải
suy ngẫm về thái độ của mình.
Tác phẩm là bài văn nghị luận mẫu mực, từng câu chữ, lí lẽ, dẫn chứng đều rất khéo
léo và có tính thuyết phục cao. Các điển cố được sử dụng tài tình cho thấy sự am hiểu
về văn học, kiến thức sâu rộng của tác giả.
Tác phẩm “Chiếu cầu hiền” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, cái tâm, cái tài của một
vị vua tài ba, lỗi lạc. Chính sách cầu hiền luôn là một điều tất yếu cần có của mỗi triều
đại dù trong bất kì hoàn cảnh, thời gian nào bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, đất
nước càng phát triển càng cần có nhiều nhân tài cống hiến tài năng. Ngô Thì Nhậm đã
thể hiện quan điểm, tư tưởng, chủ trương của vua Quang Trung về chính sách chiêu
hiền thật xuất sắc trong tác phẩm. Những chính sách đó luôn được Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp nối và không ngừng đổi mới để Việt Nam ngày
càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế.
Phân tích bài Chiếu cầu hiền - Mẫu 9
Trong kho tàng văn học Việt Nam, không chỉ có những tác phẩm thơ, truyện,… mà
còn có nhiều tác phẩm thuộc thể loại khác. Chúng cũng góp phần làm phong phú thêm
nền văn học nước nhà. Trong đó chiếu cầu hiền Được đánh giá là tác phẩm nổi bật cho
thể loại chính luận trung đại. Phân tích Chiếu cầu hiền, ta sẽ hiểu rõ hơn phong cách
nghệ thuật và tấm lòng vì nước vì dân của tác giả Ngô Thì Nhậm.
Ngô Thì Nhậm là một nho sĩ toàn tài, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp
của triều đại Tây Sơn. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt
lịch sử, văn hóa mà còn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam.
“Chiếu cầu hiền” được sáng tác trong buổi cảnh triều đại Tây Sơn còn non trẻ. Vua
Quang Trung mong muốn chiêu dụ người tài để đứng ra xây dựng đất nước. Vua đã
giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách ấy để kêu gọi hiền tài có thể cùng vua chấn hưng
đất nước. Phân tích Chiếu cầu hiền để hiểu hơn về mối quan hệ vua tôi.
Trước tiên, tác giả nêu ra quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người
hiền và thiên tử. Tác giả nhấn mạnh: “Người hiền như sao sáng trên trời”. Hình ảnh so
sánh nhấn mạnh và đề cao vai trò của người hiền đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Hình ảnh “sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” ám chỉ một quy luật tự nhiên. Người
hiền tài, ắt sẽ một lòng phụng sự cho thiên tử để trị vì đất nước. Đây là một cách xử
thế đúng đắn, thuận theo tất yếu, hợp với ý trời.
Để nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của mối quan hệ thiên tử – hiền tài, tác giả còn
khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời
dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.” Với tác giả, người hiền nếu
như sống ẩn dật, không quan tâm thế sự thì cũng như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp
bị vùi giấu đi. Ở đây, hiền tài như những vì sao sáng, cần ra sức phụ tá thiên tử xây
dựng cơ đồ. Nếu không là đi ngược lại với ý trời, làm sai đạo lý cơ bản nhất. Chỉ với
vài câu đầu, Phân tích Chiếu cầu hiền ta đã thấy được lập luận chặt chẽ, sắc bén của
tác giả. Vấn đề được đặt ra tài tình, hấp dẫn và giàu sức thuyết phục.
Sau những lời khẳng định về quy luật giữa hiền tài với thiên tử, tác giả đưa ra nhận xét
về cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà. Khi thời thế suy vi, họ quay về sống đời sống ẩn
dật, không dám ra làm quan. Đó là hành động bỏ phí tài năng, cũng là thể hiện sự nhu
nhược, sợ hãi, không có trách nhiệm với trọng trách của mình. Nhiều người thì “ra
biển vào đông”, mỗi người một phương. Tác giả không nói thẳng vào những thực
trạng đáng trách ấy mà sử dụng hình ảnh của Nho gia, tạo ra cách nói tế nhị nhưng
châm biếm nhẹ nhàng. Phân tích Chiếu cầu hiền càng làm nổi bật kiến thức uyên thâm,
sâu rộng của bậc minh tướng.
Thời loạn thì vậy, thế nhưng hòa bình đã lập, vẫn “chưa thấy có ai tìm đến”. Tâm
trạng của vua Quang Trung đầy khắc khoải, chờ mong người hiền ra tay giúp nước,
phò vua. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá
chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” như thôi thúc,
khiến người nghe suy ngẫm về nỗi trăn trở ấy. Cách đặt câu hỏi thể hiện sự khiêm tốn
nhưng lại rất thuyết phục của vị minh vương. Nó tác động vào nhận thức của người
nghe, buộc các bậc hiền tài phải hành động đúng với trọng trách bản thân gánh vác.
Ngoài ra, tác giả còn đưa ra thực trạng của đất nước và nhu cầu cần củng cố phát triển.
Đất nước hiện giờ vừa mới giành được chủ quyền, đang bước vào giai đoạn bắt đầu
xây dựng nên triều chính chưa ổn định. Bên cạnh đó, biên ải cũng chưa yên, quân giặc
vẫn còn nhăm nhe xâm lược thêm lần nữa. Dân chúng còn khổ ải, những hậu quả
chiến tranh gây ra còn chưa kịp hồi phục. Trong khi đó, đức của vua vẫn chưa thấm
nhuần khắp nơi, chưa được nhân dân thấu hiểu. Do vậy lòng dân và ý mua chưa thuận,
khó có thể phát triển đất nước. Tác giả đã đưa ra cái nhìn toàn diện về những khó khăn
quốc gia đang gặp phải, không hề trốn tránh hay giấu diếm sự thật.
Chính bởi còn rất nhiều khó khăn như thế, nhu cầu cấp bách hiện tại là các bậc hiền tài
phải ra trợ giúp nhà vua. “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược
một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp
mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa.” Tác giả đã sử dụng hình ảnh cụ thể
để khẳng định vai trò, đề cao vị trí của người hiền đối với vận mệnh quốc gia. Cùng
với câu nói của Khổng Tử, sự tồn tại của nhân tài trong đất nước càng thêm được
khẳng định rõ ràng. Với hình ảnh, cách nói độc đáo, tác giả đưa ra kết luận, người tài
cần và phải ra phục vụ hết sức mình cho triều đại mới, đưa đất nước phát triển ngang
hàng với các quốc gia khác. Cùng với đó, hình ảnh vị vua Quang Trung yêu nước,
thương dân, một lòng vì nghiệp lớn hiện lên rất rõ nét.
Sau cùng, tác giả đã đưa ra con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước. Mọi tầng
lớp trong xã hội đều có cơ hội cùng nhau phò trợ thiên tử bằng cách dâng thư bày tỏ ý
kiến của mình về mọi vấn đề của đất nước. Quan tướng nếu có ai tài giỏi, hiền đức thì
tiến cử với vua, cùng nhau xây dựng cơ đồ. Kẻ sĩ ẩn dật được phép tự mình dâng sớ tự
tiến cử. Những biện pháp cụ thể ấy đã giúp cho toàn bộ dân chúng có thể hiểu rõ và
thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Chúng đều rất dễ thực hiện, thiết thực với tình
hình đất nước bấy giờ.
Tác giả đưa ra lời kêu gọi, động viên mọi người, đặc biệt là các bậc hiền tài cùng nhau
đứng lên xây dựng cơ đồ: “những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại
triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.” Điều này đã
thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Thông qua bài chiếu, ta thấy được tài năng biết tôn trọng người tài, luôn lắng nghe
nhân dân của bậc minh vương. Đó là những phẩm chất rất đáng quý, hứa hẹn một
tương lai rộng mở với đất nước dưới sự dẫn dắt của vị vua hiền đức ấy.
Với cách nói sùng cổ, lời văn ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, “Chiếu cầu hiền”
là tác phẩm chuẩn mực cho thể loại chiếu trong văn học Việt Nam. Những giá trị nghệ
thuật với sự khúc chiết đủ lí, đủ tình giúp cho những tác phẩm sau đó có thể học hỏi,
tiếp nhận và dựa vào như một chuẩn mực. Nhờ vậy mà các tác giả sau có thể góp thêm
nhiều tác phẩm có vị trí quan trọng với văn học nước nhà.
“Chiếu cầu hiền” với những giá trị nghệ thuật độc đáo đã giúp văn học Việt Nam có
thêm nhiều màu sắc. Tác phẩm đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của tác giả, nhà vua và
triều đình Tây Sơn trong việc chiêu dụ người tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Giúp cho triều đại Tây Sơn có được nhiều thành tựu quan trọng trong tương lai.
Phân tích bài Chiếu cầu hiền - Mẫu 10
Kho tàng văn học Việt Nam không chỉ hay bởi những bài những bài văn có nghĩa mà
còn có những thể loại khác cũng góp phần làm đa dạng và phong phú nền văn học
nước mình. Trong những thể loại ấy phải kể đến tác phẩm chiếu cầu hiền của vua
Quang Trung. Tác phẩm không chỉ đơn giản là một tác phẩm văn học mà còn là một
bản chiếu vua ban có tác dụng đến vận mệnh của quốc gia và sự phát triển của đất
nước. Có thể nói chiếu cầu hiền là một văn bản giàu ý nghĩa và thiết thực cho lịch sử nước ta lúc bấy giờ.
Chiếu cầu hiền được viết khi vua Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược
nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc để
quét sạch 20 vạn quân Thanh cùng bọn tay sai bán nước. Thua trận Lê Chiêu Thống
cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ, triều Nguyễn được vua
Quang Trung lập lên. Trước sự kiện trên một quan thần trong triều Lê có thể là do
theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê, hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên
tất cả đều trốn tránh ẩn nấp không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất
nước. Biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung đã liền phái Ngô Thì Nhậm
thay mình viết chiếu cầu hiền để kêu gọi những người tài giỏi ra giúp nước.
Có thể nói vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi nghĩ ra kế sách này. Qua đó thể
hiện niềm khát khao cầu hiền của nhà vua trẻ tài đức. Mặt khác thấy được sự uyên bác
của Ngô Thì Nhậm khi viết ra một bức chiếu có sức thuyết phục như vậy.
Về phần Ngô Thì Nhậm, khi triều Trịnh – Lê sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo phong
trào Tây Sơn và được cử làm Lại Bộ Tả Thị lang. Ông trở thành một quan thần tín
nhiệm của vua Quang Trung.
Trước hết ta đi tìm hiểu về thể loại chiếu, chiếu được hiểu là một thể loại văn thư do
nhà vua để ban bố mệnh lệnh đến dân chúng. Công văn hành chính ngày xưa gồm hai
loại đó là do cấp dưới đệ trình lên nhà vua, hai là do nhà vua ban bố xuống dưới.
chúng ta có thể thấy được nhiều bài chiếu trong kho tàng văn học Việt Nam. Đó là bài
chiếu dời đô, hoàng lê nhất thống chí, hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính
những bài chiếu tiêu biểu đó đã khẳng định sức thuyết phục của thể loại chiếu. Chiếu
nói chung và chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị xã hội. Mặc
dù chiếu thuộc công văn nhà nước nhưng lại viết cho những bậc hiền tài, hơn nữa đây
là cầu là vua Quang Trung cầu hiền tài chứ không phải mệnh lệnh.
Đi vào bài chiếu điều đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò và sức mạnh của
hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên tất cả những vai
trò to lớn của hiền tài, đó là nhan đề hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính vì
thế tác giả nêu cao vai trò của hiền tài trong sự nghiệp phát triển đất nước. Tác giả so
sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc
của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng của thiên nhiên. Đó là một sự tôn
vinh khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà những bậc hiền tài ấy sẽ phải theo Bắc
thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài sợ trời sinh ra và người tài ấy phải có
phận sự sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. phải chăng đó cũng là
cách mà tác giả muốn cho sĩ phú hiền tài thấy được vua Quang Trung biết trọng người
tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó góp phần xóa đi những nghi ngờ
sợ hãi của những bậc hiền tài. Nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh cho
chiếu cầu hiền. Hơn nữa qua những lời khen ngợi hay cũng chính là lời mời gọi của
tác giả đã góp phần làm cho bài chiếu thêm phần thuyết phục người nghe.
Tiếp đến là đoạn văn tiếp theo nói về nguyện vọng của nhà vua khi muốn những hiền
tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả đi
sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và chính tình hình ấy phải cần đến
sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Cách trình bày thẳng thắn cho thấy được sự trung
thực thật thà cũng như quang minh chính địa của vua Quang Trung. Chính qua đó ta
thấy được sự chân thành và tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời
đó còn là tâm trạng lo lắng của Quang Trung “ trời còn tăm tối”, “ đương ở buổi đầu
của nền đại định”, “ công việc vừa mới mở ra” đó là những khó khăn bức thiết của
triều đại nhà Nguyễn cũng như đất nước đang rơi vào tình thế khó khăn. Hình ảnh đất
nước qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó là một đất nước
đời đầu mới ở buổi đại định, tương lai còn chưa sáng rõ, thiếu nhân tài thì làm sao có
thể sáng được vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về phụng sự giúp đỡ vua.
Thế rồi “ kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, việc biên ải chưa chưa yên, dân còn nhọc
mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với “một cái cột không thể đỡ nổi
một căn nhà lớn”. và thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”.
Như vậy có thể thấy vua quang trung vô cùng minh bạch, biết trọng người tài, biết
xem thời thế không cậy thắng mà ngông cuồng. Đó là điều dĩ nhiên và hiển nhiên về
đức và tài của ông. Điều đó cho thấy nhà vua thiết tha đầy nhiệt huyết kêu gọi hiền tài
vì nước vì dân mà cùng vua xây dựng một đất nước với triều đại mới. Cuối cùng tác
giả để một câu hỏi: “ Huống nay trên mảnh đất văn hiến rộng lớn như thế này…buổi
ban đầu của trẫm hay sao?”. Như vậy nhà vua không chỉ kiên quyết, thẳng thắn mà
cũng rất tha thiết để thuyết phục những hiền tài những vị tinh tú, sáng soi lấy bầu trời
tăm tối của đất nước thời bấy giờ.
Cuối cùng là chính sách cầu tài của vua Quang Trung, ở phần này tác giả chỉ ra những
điểm nổi bật trong đường lối chính sách của vua. Đó là một chính sách công bằng cho
tất cả mọi người từ quan viên cho đến dân chúng. Từ đó cho thấy Nguyễn Huệ hẳn là
một người con rất đỗi yêu thương dân chúng, chăm lo cho cuộc sống của tất cả mọi người.
Đường lối chính sách thứ nhất của vua Quang Trung là các bậc quan viên lớn nhỏ, thứ
dân trăm họ tất thảy đều có thể dâng sớ tâu bày sự việc, không sợ lời nói sơ suất mà
bắt tội. qua chính sách ấy ta nhận thấy được vua Quang Trung có điểm khác so với
những vị vua thời trước. Ông luôn yêu thương dân chúng, phải chăng chính xuất thân
là một anh hùng áo vải cho nên vua thấu hiểu được nỗi khốn khổ và thấp cổ bé họng
của nhân dân. Qua chính sách ấy thì mọi người có thể thấy sự công bằng cho tất cả
những bậc dưới vua. Nếu như ngày xưa dân chúng sống trong cảnh thấp cổ bé họng,
thường xuyên bị bắt nạt áp bức bóc lột của tham quan một cách thậm tệ thì đến thời
vua Quang Trung những thứ dân ai ai cũng được tâu trình những bất bình mà mình muốn giải quyết.
Thêm nữa là cách tiến cử hết sức rộng mở: tự mình dâng sớ tâu bày sự việc, do các
quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Qua đây ta thấy đây là một
đường lối mở rộng và đúng đắn. Nó có thể coi là một tính dân chủ của thời phong kiến.
Vì không chỉ có các quan mà chính những người nhân dân cũng có quyền bày tỏ ý
kiến cá nhân cũng như mọi điều ngang tai trái mắt mình nhìn thấy. dẫu có lỡ lời thì
cũng không bị bắt tội. Đó chẳng phải là một chính sách đường lối công bằng và dân
chủ hay sao, ai cũng có quyền lợi và nghĩa vụ góp sức và tài năng của mình để xây
dựng đất nước. Một chính sách thấu tình đạt lý như thế thì làm sao không khiến mọi người nghe theo.
Như vậy có thể thấy đường lối của vua Quang Trung rất rộng mở, dễ hiểu, đúng đắn,
cụ thể và dễ thực hiện. đồng thời qua chính sách ấy ta thấy được vua Quang Trung
đúng là một đấng minh quân đầy bản lĩnh, tư tưởng tiến bộ, giàu lòng thương người và
có khả năng thu phục lòng người. Cuối cùng tác giả cỗ vũ những người có đức có tài
hãy cùng chung tay xây dựng đất nước cùng nhà vua. Lời khích lệ khép lại bài chiếu
như một lời kêu gọi vui vẻ, lời mời mọc đầy hấp dẫn và giàu sức thuyết phục trong
thời đại mới của tác giả: “ Nay trời trong sáng đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây…”
Như vậy với kết cấu ba phần rõ ràng cùng với những nghệ thuật so sánh cùng những
hình ảnh mang đầy tính chất tượng trưng cùng với những đức tài của nhà vua đã giúp
cho bài chiếu giàu sức thuyết phục và đậm chất tư tưởng tiến bộ dân chủ. Có thể nói
với chính sách và đường lối của mình vua Quang Trung xứng đáng là một bậc minh
quân đời đời nhớ đến. chính lòng thiết tha, thẳng thắn, kiên quyết cầu người tài đã làm
nên sức thuyết phục cho bài viết. Và tác phẩm chiếu cầu hiền cho đến ngày nay vẫn
sáng mãi với thời gian, nó không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá tri văn học.
Phân tích Chiếu cầu hiền - Mẫu 11
Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746, là người Thanh Trì, Hà Nội. Sinh thời, ông từng làm
Đông đốc trấn Kinh Bắc dưới thời chúa Trịnh, sau khi nhà nhà Lê- Trịnh bị suy vong,
ông tiếp tục ra làm quan và có nhiều công lao lớn với triều đại Tây Sơn. Được Nguyễn
Huệ giao phó nhiều trọng trách lớn. Những văn kiện có tính quan trọng đều do một
tay Ngô Thì Nhậm soạn thảo, một trong số đó có thể nhắc đến "Chiếu cầu hiền".
Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788-1789, theo lệnh của
Vua Quang Trung, mục đích của nó là nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự,
giúp vua xây dựng triều đại, đặc biệt là các tầng lớp trí thức sĩ phu Bắc Hà.
Mở đầu bài chiếu, tác giả khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người hiền tài với
quốc gia, dân tộc. Ngô thì Nhậm ví hiền tài như "ngôi sao sáng trên trời cao, mà sao
sáng thì ắt chầu về Bắc thần", cũng như những người tài phải phò trợ cho thiên tử
mình. Những người hiền mà không được đời dùng, dấu đi tài năng cũng như sao bị
che đi vẻ lấp lánh, không như ý trời đã định.
Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh về những bậc hiền sĩ ở ẩn khi thời thế suy vi, đất nước
nhiều biến cố. Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như
những kẻ "gõ mõ canh cửa", "chết đuối trên cạn" để mà lẩn tránh việc đời. Tác giả đã
đề cập đến vấn đề ấy một cách đầy tinh tế, sử dụng các thành ngữ, từ ngữ có tính
tượng trưng để nói mà không xâm phạm đến những người tri thức coi trọng lòng tự
tôn. Những lời viết ra khiến cho người nghe, người đọc không khỏi không suy ngẫm,
để người hiền tự nhìn lại bản thân, tác giả tin rằng với những người sáng suốt, họ sẽ
hiểu những điều mà con chữ phản ánh.
Những lời cầu hiền thiết tha, chân thành lại vừa khiêm tốn, thể hiện được tấm lòng của
một vị vua anh minh được tác giả viết đầy xúc động: "Này trẫm đang ghé chiếu lắng
nghệ, ngày đêm mong mỏi......Hay đang thời đổ nát chưa thể phụng sự chăng?".
Để thuyết phục những tri thức xưa, Ngô Thì Nhậm nêu lên thực trạng đất nước lúc
bấy giờ còn nhiều điều đáng lo ngại. Triều đại lúc này đang buổi đầu chập chững, luật
pháp, kỷ cương còn mắc nhiều khiếm khuyết, chốn biên ải còn trăm điều lo toan, trăn
trở, một mình vừa sao có thể vẹn tròn nếu không được sự giúp sức, phò trợ từ những
vị đức độ, tài năng. Ngặt nỗi, nhân dân còn chưa lấy lại sức, vua cũng vừa mới lên
ngôi lòng dân khắp nơi chưa thấu rõ bởi vậy mà ngày đêm lo lắng, những khó khăn cứ
chồng chất ngày một thêm. Mọi người đều hiểu được rằng: "Một cái cột không thể đỡ
nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình". Mà trong
trời đất, bốn phương nơi đâu chắc hẳn cũng có người tài, dù nước lúc hưng, lúc suy
những nhân tài thì đâu thể thiếu "...trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này há lại
không có một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi bẩn đầu như trầm hay sao?".
Sau những lý lẽ thấu tình đạt lý ấy, tác giả công tuyên thỉnh nhiều chính sách khác
nhau nhưng quy chung một mục đích chiêu mộ kẻ sĩ trong thiên hạ. Mọi người dân
không phân biệt nam nữ, thành phần hay tầng lớp nào, nếu có tài năng, học thức đều
được quyền ứng cử, một tình thần dân chủ được triển khai rõ rệt trong nhân dân, ai
cũng có quyền bình đẳng góp sức mình cho đất nước "Vậy ban chiếu xuống, quan việc
lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều
cho phép được dâng thư bày tỏ công việc". Những người có nghề giỏi, nghiệp hay,
những người có tài năng mà lâu nay bị giấu kín cũng tự tiến cử giúp đời. Tất cả hãy vì
nước mà gắng sức mà tụ họp về để cùng nhau mưu lược, kế sách phát triển quốc gia,
nước nhà. " Này trời trong sáng, đất thái bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió
mây...cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh".
Bài chiếu tuy ngắn gọn mà chứa đựng cả một tấm lòng thiết tha với dân với nước của
vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Luôn mong cầu sự ấm êm cho nhân dân, hành động
vì sự bình yên, thịnh trị của xã tắc, vương triều. Một vị vua suốt đời mình tâm huyết
mọi việc vì cuộc sống phồn vinh cho nhân dân. Từng lời, từng chữ viết ra đều thấm
đẫm tinh thần dân tộc, thấm đẫm tình cảm lớn của một người trị vì cánh cánh nỗi lòng
phát triển, dựng xây nước nhà.
"Chiếu cầu hiền" có ngôn ngữ trang trọng, lời văn đầy sự cầu thị khoan dung, khi lại
thiết tha, mãnh liệt, hệ thống những lập luận thuyết phục và chặt chẽ. Tác phẩm đã
cho thấy trước tầm nhìn xa trông rộng và sự chân thành của một với vua yêu nước coi
trọng hào kiệt, nhân tài. Bài chiếu giúp em hiểu và trân trọng hơn giá trị của trí thức,
vai trò của người giỏi đối với đất nước. Em sẽ cố gắng trau dồi bản thân, rèn sức luyện
tài để sau này làm một công dân có ích cho nước nhà, góp sức tài vào sự phát triển của đất nước Việt Nam.