Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân | Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích Vợ nhặt Kim Lân
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà
văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với
"thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu
thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy.
Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem
vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm.
Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông
dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất
thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám
phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết
về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến
những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ
vẫn muốn sống, sống cho ra con người".
Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình
người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận
với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp
với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công
ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy,
nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa
tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân
thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống
đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất
đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà
cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc
Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu
Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn
mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn
của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia.
Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ
đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một
điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh
xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây
của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay
chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường,
dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của
cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà
dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
"Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ
trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và
ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình.
Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng.
Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát
vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước
thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi.
Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui
nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy: tình cảm của một con người, biết yêu thương,
biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng
đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng
chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống
có trách nhiệm với gia trình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ
một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng
thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm
ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng".
Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả
đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh
phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay
đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgic. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn
đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ.
Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu,
một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét
tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy
hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với
vợ con sau này". Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến
chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm
trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn
và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi
để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách
mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong
các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện.
Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã
làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người
chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì
đã làm thị biến đổi như thế.
Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn
bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh
miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp
nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê
tà áo dài đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo
mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình.
Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con
người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị
được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị
Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca
ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con
người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào
hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng
Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy
lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp
miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu
đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào
trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.
Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt
nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không
ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm
của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động
lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy.
Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà
lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã "cúi
đầu nín lặng". Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn
giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà
"lòng đầy thương xót". Bà thiết nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta
mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói,
chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng:
"Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Đói khổ đang
vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực
thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa.
Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà
thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo,
nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người.
Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn
ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa
của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối
của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con niềm tin về cuộc sống.
Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà
lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận
hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối
thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng
chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương.
Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đây - ngon đáo để cơ". Ở
đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện
không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ
song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới
trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành
công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người
và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ
chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện
sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật
miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà
văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” C.Đôtôiepki). Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể
hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là
nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt
Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình
người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là
ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Phân tích Vơ nhặt SIÊU HAY
Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ
ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ
tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để
linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh
cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí
nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.
Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người
cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất
của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối với chúng ta.
Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học -
cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Và
mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc
sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm
hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và
nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của
Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người lưa manh trong xã hội
thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có
thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần tạo nên thành công của
một tác phẩm, như “ xương sống của một con người vậy”. Viết đề tài người nông dân,
nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ,
chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
Kim Lân là một cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân
chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có
một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của
đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết. Với
cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài,
ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê -
những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những
sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “ Vợ nhặt”. Tác phẩm được xây
dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc đến
như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến
Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “ Xóm
ngụ cư”, được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh
cu Tràng - một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói
kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả
xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua
đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương
lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân phận rẻ
rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một nhân vật
điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng
mấy ưa nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư - tầng lớp người bị coi thường nhất lúc
bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “ túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn
những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này.
Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng
cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết
bao là xác chết nằm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị
coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như
“ sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất
hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời,
chửi đất...” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi
ngất ngưởng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại
ngửa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung
miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai
cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau
chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ
nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng
trước mặt cứ nằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưởng trước đây ở Tràng.
Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng
nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó
người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!
Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt
đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hòa hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và
thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây
lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật,
tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẵn
sàng cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là
tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “ Thương người như thể thương thân”,
anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẵn sàng
cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng
hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi
thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu
thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một
người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác, mang trong mình
những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình
người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính,
những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng,
văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!
Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ.
Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống
Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không
khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ
“quần áo rách như tổ đỉa trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái
đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiển, trơ trẽn bất
chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát
cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng.
Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình
người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ
một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “ Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng
lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về
cái đói, cái chết, “ Thóc gạo này đến cái thân mình cũng có nuôi nổi hay không mà
còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng
rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà
là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con
người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang
cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo
nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã
chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì
miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con
mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác. Tình thương đã cho anh quyết định
dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia
đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá
thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng - giàu tình
yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khổ hơn mình.
Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành
một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình.
Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời
của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “ mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào
hàng cơm “ đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt
như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ
đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những
người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay
không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng
cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa
xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn
của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong
buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẵn sàng đánh đổi cho
niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng
của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!
Ai đó đã từng nói rằng “ Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người
thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm
lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “ tủm tỉm cười”, “ hai mắt sáng lên lấp
lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh
chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ
có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không
chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có
thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng
sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta nâng niu và
ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người
dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến
nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn
cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một
tia sáng ở cuối con đường”.
Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một
đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì
hạnh phúc quá lớn, “ Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng
rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo
lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh chện rồi
mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một
người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi
nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ
nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà
tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo
không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ
như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương,
trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với
nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho
người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước.
Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương
nhau... dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.
Song song với niềm hạnh phúc vừa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng
một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”.
Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng,
niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với
căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành,
từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách
nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước.
Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống
“ Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp
phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những
ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng
hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm
tin vào một ngày mai tươi đẹp!
Với tác phẩm “ Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái
lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ
hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn
người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên
truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo hóa ban cho ngoại hình chẳng mấy ưu
nhìn, bị cuộc sống vùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống
hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bây giờ.
Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính
đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có
bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.
Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước
năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “ Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân
tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chi Dậu
phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình. Điểm
chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn
khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí
Phèo.... đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi
được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của Đảng.
Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân vật, đó
là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài
học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều
tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến
làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ
những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt động thiện nguyện....
Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc
sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm
nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời –
cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được
sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!
Phân tích Vợ nhặt đạt điểm cao
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với hơi thở của vùng nông thôn
Bắc Bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như:
Làng, Vợ Nhặt,...Tác phẩm Vợ nhặt được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác
phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng
khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm
tin vào tương lai của người lao động nghèo. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua tác phẩm này.
Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay
sau cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa
bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm xoay quanh tình huống
truyện, anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ. Giữa nạn đói năm Ất Dậu, chỉ một câu nói
bông đùa, bốn bát bánh đúc, hai hào dầu mà Tràng có được vợ. Nói đúng hơn là có vợ
theo mà không tốn tiền cưới hỏi gì. Sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son, cuộc sống
gia đình Tràng bắt đầu nhen theo ngọn lửa niềm tin. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng thì rạng rỡ
hẳn lên. Người vợ nhặt thì hiền hậu đúng mực khác với vẻ chao chát ngoài chợ. Kết
thúc tác phẩm là chi tiết lá cờ đỏ cùng đoàn người đi phá thóc Nhật.
Tìm hiểu vào truyện ta mới thấy được sự tài tình trong nghệ thuật tả thực. Đó là một
cốt truyện, một tình huống éo le khó có thể thấy trong đời sống hiện đại. Câu chuyện
xoay quanh chàng trai xấu xí nghèo khổ, là người dân ngụ cư nay đây mai đó có phẩm
chất hiền lành, tốt bụng, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng
khiếp. Anh sống với mẹ già, gia cảnh nghèo túng. Lấy vợ trong thời điểm nạn đói
hoành hành, thêm một miệng ăn là thêm một bữa đói. Đã vậy, còn không phải là nên
duyên do tình yêu đôi lứa mà chỉ là đúng nghĩa “nhặt” được một cô vợ mang về nhà
cùng chung sống. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, chính Tràng cũng hiểu được nếu
trong hoàn cảnh bình thường, cuộc sống yên bình, người người nhà nhà no đủ thì bản
thân Tràng rất khó có khả năng lấy vợ.
Ngoài những câu văn thật đến trần trụi thì Kim Lân cũng theo chủ nghĩa nhân đạo, tôn
vinh vẻ đẹp của tâm hồn con người. Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay cả
đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vặt dùng trong nghề mộc. Với vài nét bút
phác họa đơn giản, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc
trong truyện cổ tích. Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn
tượng bởi “hai con mắt nhỏ tí gà gà, quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều
hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm
về. Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích về thằng đần thằng gốc mà
ông đang kể lại một sự thật, sự thật đau lòng về cái đói cái nghèo.
Nhưng cùng là miêu tả hình tượng nhân vật xấu xí như Chí Phèo nhưng Tràng lại
không bị biến chất, luôn có niềm tin vào cuộc sống, tin vào tương lai. Hắn luôn sống
chân thật với bản thân mình, không cố thay đổi nó để phù hợp với hoàn cảnh. So với
người trưởng thành hắn là kẻ ngốc nhưng trong thế giới quan của bản thân, hắn luôn
vui vẻ dù thực tế cuộc sống có nghiệt ngã ra sao. Khi ngày ngày thức dậy, bắt đầu
ngày mới Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba
bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi
và mùi gây của xác người”. Khi mà cái đói cướp luôn tiếng cười vui vẻ hồn nhiên của
lũ trẻ trong làng thì Tràng luôn là viên thuốc giúp bọn trẻ trở lại với độ tuổi của mình,
chúng vây quanh anh to nhỏ nói cười. Dù bản thân cũng khó khăn, cơm không đủ nó
nhưng hắn vẫn tự chịu trách nhiệm với lời nói của bản thân mà mang người đàn bà
mới gặp hai lần về làm vợ. Hắn vui vẻ mời người phụ nữ đã cùng phụ hắn đẩy xe một
lần, mời người đang mờ mắt vì đói dù bụng hắn cũng chả no cùng lúc “bốn bát bánh
đúc”. Câu “Nói đùa chứ về với tớ thì chỉ ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi
ai ngờ Thị về thật. Là câu nói đùa, câu nói không suy nghĩ liều lĩnh nhất trong đời hắn.
Vì khi mà Thị theo về thật lúc đầu hắn lo hơn mừng, lo vì nghèo càng thêm nghèo, lo
khi có vợ mà không chắc mình có thể cho cô no ấm. Nhưng ẩn sau trong câu nói
tưởng vô tư không suy tính đến tương lai đấy chính là khát vọng về cuộc sống tươi
sáng hơn, cuộc sống có đầy đủ người thân, có hạnh phúc trọn vẹn sau này.
Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ:
thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng” Đó
là nỗi sợ hãi có thật nhất là thời điểm đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương
người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “chậc
kệ!”. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo
nghĩ để vui vén cho cái hạnh phúc của mình. Tràng dường như thay đổi sau một đêm,
trưởng thành hơn, chín chắn hơn trong cả nhận thức lẫn hành động. Hai con người
cùng khổ nương tựa vào nhau, cùng nhau cố gắng cho tương lai. Điều đó thể hiện rõ
nhất ở hình ảnh ngôi nhà sau một đêm có người phụ nữ sinh sống. Ngôi nhà vốn chật
hẹp, tối tăm, bẩn thỉu nay sạch sẽ gọn gàng hơn, giống nơi có người ở hơn. Nơi đó
Tràng lại thấy có mẹ, có vợ, có những người quan trọng và thân thiết nhất. Hắn thấy
nhiều hơn về tương lai tươi sáng, thấy thương yêu và cần có trách nhiệm hơn với gia đình.
Phân tích Vợ nhặt học sinh giỏi
Kim Lân là một trong những nhà văn viết ít nhưng thành công lớn trong sự nghiệp
viết văn. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, vừa đi làm vừa viết văn, sống gần
gũi với người nông dân nên những trang viết của ông tái hiện đầy đủ và chân thực
nhất hình ảnh người nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng. Tuy viết ít nhưng
ngòi bút Kim Lân vững vàng. Ông viết bằng cả tâm hồn, tình cảm của một đứa con đẻ
của đồng ruộng với niềm trân trọng con người sâu sắc nhất. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu
biểu cho phong cách ấy của Kim Lân
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư. Đây là cuốn tiểu
thuyết mà Kim Lân Viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn
dang dở sau đó bị mất bản thảo. sau năm 1954, Kim Lân viết lại dựa một phần trên cốt
truyện cũ và đặt tên là vợ nhặt. Giá trị lớn nhất của truyện ngắn “Vợ Nhặt” đó là tố
cáo xã hội đã đề con người và nạn đói khủng khiếp khiến mạng người bị coi rẻ như cỏ
rác. Tác phẩm còn mang giá trị nhân văn sâu sắc là niềm tin của người dân lao động
vào sự sống và tương lai, niềm tin và khát khao về tình yêu, hạnh phúc.
Thành công của Kim Lân trong Vợ nhặt là đã xây dựng được một tình huống truyện
éo le, độc đáo, đau xót và thấm đẫm tình người. Tình huống ấy éo le, độc đáo ở hình
ảnh nhân vật Tràng – nhân vật chính của tác phẩm. Tràng là con nhà nghèo, xấu trai,
lại là dân ngụ cư nay đây mai đó bị mọi người khinh bỉ. Anh lấy vợ giữa lúc đói kém
cùng cực nhất mà người đó là vợ nhặt. Tình huống trớ trêu ấy khiến cho ta đau xót: sẽ
không ai lấy Tràng nếu như không có hoàn cảnh như vậy. Tình huống thấm đẫm tình
người: tất cả mọi người đều yêu thương nhau dù nạn đói đang hoành hành dữ dội.
Ở nhân vật Tràng là sự đối lập gay gắt giữa vẻ ngoài xấu xí với tâm hồn cao đẹp bên
trong. Tràng xuất thân là con nhà nghèo, lại là dân ngụ cư. Cái thân phận dân ngụ cư
đã nói hết cái nghèo khó của hắn rồi. Nghĩ đến tương lai của hắn không có gì là hi
vọng. Như bao con người khác, hắn cũng bị lãng quên ngay trong chính cuộc đời này.
Thế mà hắn lại còn có một ngoại hình xấu xí và thô kệch. Cái đầu cạo trọc trong gớm
gớm. Cái lưng bè to như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều. Hai
bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng
nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Mỗi khi đi làm về, cái áo nâu tàn vắt
sang một bên cánh tay. Dáng đi lù lù, lúc nào cũng chúi về đằng trước. Hình như
những lo lắng vật chất trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.
Ngoại hình của Tràng xấu xí, thô kệch nhưng không phải là kiểu biến dạng như nhân
vật Chí Phèo. Cuộc sống tự nhiên của hắn đã thế rồi. Hắn chưa bao giờ tự làm thay
đổi nó. Hắn lại là người khá vui tính. Người lớn ít nói chuyện với hắn nhưng bọn trẻ
con thì bám riết và chơi đùa với hắn mỗi khi hắn đi làm về ngang xóm ngụ cư buồn tẻ.
Bên trong cái hình thức xấu xí, đáng sợ ấy lại ẩn chứa một tâm hồn vô tư cao đẹp và
giàu lòng yêu thương. Trước tình cảnh đáng thương của người khác, hắn đã rộng lòng
cưu mang. Hắn vui vẻ mời người đàn bà xa lạ mà hắn đã gặp những lúc kéo xa thóc
lên tỉnh ăn bánh đúc khi thấy thị lờ đờ trong cái đói dù hắn cũng chẳng có gì sung
sướng hơn. Câu nói nửa đùa nửa thật của hắn với người đàn bà: “này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng rồi cùng về” có thể xuất phát từ sâu thẳm con tim hắn mà
hắn chưa bao giờ dám chạm tới.
Đưa người đàn bà xa lạ về nhà làm vợ là hành động liều lĩnh nhất của tràng. Nói nó
liều lĩnh là bởi vì đời hắn đói khát, nay còn thêm một người nữa biết có nuôi nhau nổi
không. Cái chết hiện hình ngay trong cuộc sống chứ đâu phải chuyện đùa. Sự liều lĩnh
đó hóa ra lại là khát khao hạnh phúc của người đàn ông nghèo khổ. Cứ cho rằng đó là
bản năng sống của người đàn ông nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trưởng thành,chín
chắn trong nhận thức và hành động của Tràng. Sự kết hợp của hai số phận đã tạo nên
sức mạnh vươn lên của con người. Điều đó thể hiện ngay vào sáng hôm sau. Khi thức
giấc, Tràng có cái nhìn thay đổi đối với cái nhà, sân vườn và những người thân yêu
xung quanh hắn. Hắn thấy mình nên người, nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở
của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Hắn cũng thấy
thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Từ đó hắn thấy hắn có bổn phận phải
lo lắng cho vợ con sau này.
Nhân vật Tràng không đẹp về ngoại hình nhưng đẹp về tính tình, đẹp ở tấm lòng, ở
tình yêu thương con người. Qua ngòi bút miêu tả, phân tích những diễn biến tâm lí
cùng với vốn ngôn ngữ đời thường của nhà văn Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên với
đầy đủ những nét đẹp mang chất nhân văn, nhân bản của người nông dân nghèo ở
vùng nông thôn Việt Nam trong nạn đói những năm 1945.
Nhân vật bà cụ Tứ cũng được nhà văn dành cho những trang viết vô cùng cảm động.
Bà cụ Tứ là một bà mẹ nghèo, lam lũ, từng trải và có tấm lòng nhân hậu. Bà cụ Tứ
xuất hiện trong dáng vẻ già nua, dáng đi thì lọng khọng, tiếng ho “húng hắng”, vừa đi
vừa lẩm bẩm tính toán. Nhà văn đã thể hiện rất chân thực và sâu sắc diễn biến tâm
trạng của bà Tứ khi Tràng đưa người “vợ nhặt” về nhà.
Buổi chiều, khi về đến nhà bà lão vô cùng ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà ở
trong nhà. Bà tự hỏi: “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”. Và bà lại càng ngạc nhiên
hơn khi người đàn bà ấy lại chào bà bằng u. Bà sửng sốt: “Sao lại chào mình bằng u?
không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Ngay cả khi Tràng nhắc bà “kìa nhà tôi nó
chào u” thì bà vẫn chưa hiểu bởi bà không ngờ rằng có người chấp nhận lấy con mình
và cũng không ngờ rằng con bà lại dám lấy vợ vào lúc đói kém nhất này. Bao nhiêu
câu hỏi là bấy nhiêu sự ngạc nhiên đối với bà. Đến khi hiểu ra cơ sự, trong lòng người
mẹ nghèo ấy ngổn ngang bao nỗi niềm. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng
người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình. Trong lòng bà lão trào dâng sự buồn tủi “chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái sau
này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.
Nhưng khi nhìn người đàn bà tiều tụy vì đói bà hiểu vì sao mà người ta chấp nhận
theo không con mình. Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy
đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.
Bà lão thực sự cảm thấy tủi hờn là buồn bởi bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cả
đời cho con mình. Bà tự an ủi mình: “thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng
được cho con… may ra qua cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề
nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết
được?”. Là một người mẹ từng trải qua nên bà cảm thấy lo lắng cho hạnh phúc của
con. Bởi chúng lấy nhau trong lúc đói kém này biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua cơn đói khát này không. Nhưng rồi tấm lòng nhân hậu của bà cũng rộng mở để
đoán nhận người con dâu không cưới hỏi ấy. Mở lời bà động viên, không giấu nổi
niềm vui của mình: “ừ, thôi hai đứa phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Bà lão mừng, vui vì con mình có được vợ. Nhưng niềm vui ấy của bà đã bị những lo
lắng ghì chặt xuống khiến bà “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng”.
Trong cái bức tranh ảm đạm, đen tối ấy có lẽ bà cụ Tứ chính là điểm sáng tươi đẹp bởi
chính bà lão lại là người vẽ ra viễn cảnh cho cuộc sống tươi sáng sau này. Bà lão xăm
xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, bà nói với hai con toàn những chuyện vui, chuyện
sung sướng về sau này. Tình cảm của bà cụ Tứ đối với con không phải là tình mẫu tử
sâu nặng mà còn thể hiện đạo lí tốt đẹp của con người, đó là sự cưu mang che chở lẫn
nhau của những con người cùng cảnh ngộ.
Dù Kim Lân không dành cho nhân vật “người vợ nhặt” nhiều trang viết nhưng chính
“thị” là hiện thân cho sự khốc liệt của cái đói. Hình ảnh “thị” hiện lên xót xa đến tội
nghiệp, thị thậm chí không có lấy một cái tên, thân hình tiều tụy rách rưới. Chính cái
đói đã khiến cho thân hình của thị bị tàn phá một cách ghê gớm khiến cho Tràng trong
lần thứ hai gặp lại “thị” Tràng cũng không nhận ra. Cái đói, cái khát, cái tuyệt vọng
khiến cho thị “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên
cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cũng chỉ vì cái đói, vì
miếng ăn mà thị mất đi cả nữ tính. Thị trơ trẽn đến mức đòi hỏi để được ăn. và khi
được ăn thì “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng trò chuyện gì”. Và chỉ
bằng một câu nói vu vơ nửa đùa nửa thật của Tràng mà thị đã mạnh dạn chấp nhận
theo không người khác cũng chỉ vì cái đói.
Tuy nhiên bản chất của thị cũng không phải là người xấu và điều đó đã chứng minh
khi thị theo Tràng về làm vợ. Hình ảnh một người đàn bà cong cớn, trơ trẽn lúc ban
đầu đã được thay thế bằng một con người khác hẳn. Thị trở nên rón rén, e thẹn và có
vẻ ngượng nghịu. Đáng chú ý nhất là hình ảnh “thị” trong buổi sáng đầu tiên ở nhà
Tràng, “thị” đã hoàn toàn trở thành một con người khác. Tràng nhận ra “nom thị hôm
nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gỉ chao chát
chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng chính tình thương yêu
giữa con người với con người đã cảm hóa “thị”, đã làm thay đổi hoàn toàn con người “thị”.
Tình người thấm đẫm qua bữa sáng nghèo khó. Để đón mừng con dâu mới, buổi sáng
hôm sau, bà lão đã dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng thịnh soạn. Đến khi Tràng đã
trở dậy, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi
ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh cái mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy,
vừa cười khoe món chè khoán “ngoan đáo để”. Nhìn bát cháo cám, ai cũng ngậm ngùi.
Cái hạnh phúc nhỏ nhoi ngay lập tức đứng trước nhũng đe dọa khủng khiếp của cuộc
sống nghèo khó ấy. Ai cũng thấu hiểu và thầm động viên nhau vượt qua.
Với nồi cháo cám, bà cụ Tứ vừa mừng đón dâu mới, vừa cố tạo niềm vui dù là mỏng
manh cho hai con. bà không ngừng tạo động lực, cổ động, thúc giục chúng vươn lên.
Đời bà đã khổ, bà chẳng sợ, chúng còn trẻ thì sợ gì khổ chứ. Bà vẫn tin khổ tận cam
lai. Rồi một ngày nào đó cái khổ sẽ qua đi, đây chính là cơ hội để chúng có một gia
đình đúng nghĩa. Hi vọng và niềm tin của người nông dân về cuộc sống trong hoàn
cảnh cơ cực, bi đát nhất vẫn nồng ấm. Họ cần đứng tựa vào nhau để sống, để đi tiếp
cho đến hết cuộc đời.
Chi tiết bát chè khoán là một hình ảnh đặc sắc phơi bày tình cảnh vô cùng thảm hại
của người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nó còn thể hiện tấm lòng
thương người, thương con, đôn hậu của người mẹ già nghèo khổ. Chi tiết độc đáo
thấm đượm giá trị nhân đạo cao cả và chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm.
Thông qua việc Tràng có vợ giữa những ngày đói khủng khiếp và những nét tâm lí trái
ngược ở các nhân vật, nhà văn Kim Lân đã có thấy thảm cảnh hết sức thê thảm của
những con người nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu đã cướp đi sinh
mạng của hơn hai triệu đồng bào ta.
Kim Lân chẳng cố công đi tìm sức mạnh đấu tranh ở đâu cả. Ông nhẹ nhàng đi vào
đời sống bình thường nhưng chan chứa tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người
nông dân để phát hiện, trân trọng và ca ngợi. Bởi thế, ông không đi theo bề rộng mà đi
theo bề sâu của nghệ thuật. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ
cho cuộc sống ấy. Với truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân xứng đáng là một trong
những nhà văn xuất sắc nhất viết về đề tài người nông dan Việt Nam trước cách mạng.
Vợ nhặt là bài ca ca ngợi sự sống. Trong lúc nạn đói diễn ra, cái chết có thể đến bất cứ
lúc nào nhưng những con người nghèo khổ vẫn không mất đi tình thương, sự cưu
mang đùm bọc, vẫn không mất đi khát vọng hạnh phúc. Những con người nghèo khổ
họ biết dựa và nhau để hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Tác phẩm còn chỉ ra
con đường giải phóng cho những con người nghèo khổ: Chỉ có thể đi theo cách mạng
để tự giải phóng, để thoát khỏi đói nghèo cơ cực. Chính vì lẽ đó tác phẩm “Vợ nhặt”
còn mang một giá trị nhân đạo mới.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân Đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn
khó của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn
đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt
không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm
ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhận vật thị vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ
này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét
với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người
phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán
rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị
trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến
mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra
cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng. Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa
cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị
liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai
con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn
một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã
phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.
Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về
nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi
Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách
nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là
một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái
vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị
cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.
Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người
đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt
một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và
nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng
cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép
giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn.
Vẫn đứng nguyễn chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm
bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.
Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy
sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một
người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng
nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn
nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam. Không những thế thị còn tỏ ra là
người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi
cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã
không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện
của thị như tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một
ngày mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong tương lai.
Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực
cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Không
nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra
rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Phân tích Vợ nhặt hay nhất
Nhà văn Pháp Napoli từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên,
gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc nào để đánh
giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”. Vâng, một tác
phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới – địa hạt của những
yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện
niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc sống
ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta. Cái đói đã hiện hữu
thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị khiến con người bị dồn tới mức đường
cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh khủng khiếp ấy,
ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh.
Đồng thời qua đó, ông tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, phản ánh khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ nhặt”
tức là người vợ tự theo về nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy cũng chính
là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận của các nhân vật.
Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người trong nạn đói khủng
khiếp xảy ra vào năm 1945.
Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ, xấu xí
nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống
dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm
tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có
người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối, cháo loãng và
muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng nồi chè nấu bằng cám. Ba mẹ con xoay
sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo và kết thúc truyện
bằng hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của sự
sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều
điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra một tình huống
hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như Tràng mà lại nhặt
được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc
nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân anh ta.
Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí bởi chính nạn đói làm cho những
mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống
truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con
người tới ranh giới của sự sống và cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng
đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cơ cực, nghèo đói đến xác xơ của con người
qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là ba mẹ con Tràng. Cái đói ập đến
ngôi làng như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao nhiêu người, nó
biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh bình thành không khí
ẩm thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,
đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười
hồn nhiên của những đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về,
đám trẻ con lại bu lại theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa
kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ
nhoi ấy giờ không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới
những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật chính của truyện là một
thanh niên ngụ cư nghèo, xấu xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh
vườn đầy cỏ dại. Sống với kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm
công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo khổ, chàng
đã “nhặt” được một người vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê
quán, nhà cửa. Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào dòng người
tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút
tả thực, nhà văn đã khắc họa thành công bức tranh của “ngôi làng đói” trong năm 1945.
Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất tốt
đẹp: Đó là tình yêu thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc và
niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống để yêu
nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ còn xót lại khi con người ta đã mất tất cả, đã rơi
vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vật Tràng hiện lên với
lòng tốt của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ xa lạ. Đặc biệt
nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với tình yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ trôi
qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã thể
hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai có vợ: bà cụ hết sức
ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ chào là “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhòe mà
vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện một loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại
chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa bao giờ nghĩ một người nghèo khó như con
mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng
trước hạnh phúc quá lớn lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người mẹ chất
chứa bao cơ sự, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt
sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì tủi thân, giọt
nước mắt thương con lăn trên gò má. Không những thế, bà cụ cảm thấy lo khi nghĩ về
hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không”. Dù lo lắng nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đứng vân ve tà áo thì lòng
bà cụ xót thương vô cùng cho người con dâu. Những suy nghĩ đầy tình thương đầy
nhân ái và cảm giác yên tâm đã thay thế nỗi lo trong lòng bà cụ: “Người ta có gặp
bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
được”. Tình yêu thương con còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, hành động cụ thể:
gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ bằng một từ “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận
con dâu giúp con dâu bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã
coi người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói
to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng có vẻ lẩm cẩm
nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con người
qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của Tràng thể
hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định nhanh khi đưa
người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo sau này
đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta
“chặc kệ”. Bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng ở bên trong
lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên
cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về xóm ngụ cư, dù nghèo nhưng vẫn hào phóng
khi đãi thị một bữa và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc hiện lên trong con mắt
và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình tứ đi bên người đàn
bà của mình, họ nói chuyện với nhau có vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm
hạnh phúc. Khi đưa người vợ nhặt về nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh
toàng của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng muốn mọi
sự tốt đẹp hơn khi có vợ, muốn người phụ nữ đó ở lại với mình. Tràng lo lắng sốt ruột
khi mẹ chưa về để được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ
nữ kia, sợ thị đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ
động giới thiệu với mẹ bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tôi nó về nó làm bạn
với tôi”. Tâm lí của Tràng đã xóa tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi
đây là một việc nghiêm túc: muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hôm sau
thức dậy là thời điểm thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới đến với
cửa sổ tâm hồn mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lơ lửng
như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy sự khác lạ
xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong không khí giản dị, yên
bình của gia đình: vợ quét sân, mẹ dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị ấy khơi gợi
trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vô cùng với mình. Không những thế
Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn cũng muốn bắt tay làm gì
đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây nên bởi
khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận để sống trọn vẹn với hạnh
phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh theo Tràng về làm vợ và khi bước vào gia đình
Tràng, hiểu được gia cảnh của anh, thị ngán ngẩm thở dài nhưng muốn có một gia
đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, thị bắt tay gây dựng gia đình, cuộc sống với
mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của
người vợ, mọi thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm hơn, thậm
chí bản thân Tràng cũng thay đổi hẳn: trở thành người con có hiếu và người chồng có
trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn khác,
Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con người ta bị đẩy
tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn chết. Điều đó được
thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. “Người vợ nhặt” vì muốn
thoát khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự sống mà đã liều lĩnh theo Tràng về
làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên thành niềm khát khao hạnh phúc làm
thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát thành người biết vun vén cho hạnh
phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh hơn cả cái chết và thị làm mọi cách để được sống
và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống của bà cụ Tứ. Dù lo
lắng cho các con, dù xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn nén lòng mình lại động viên
an ủi các con và cũng là động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng
chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn
toàn: khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào nhanh
nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay đổi của bà cụ
đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống.
Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân vật,
nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng con người
tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy nghĩ nhạy bén
của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người
đói nữa”.Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá
cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người nông dân
cần đi: con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lòng bạn đọc không chỉ bởi niềm
cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn
sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng bằng trung du bắc
bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tôi” gợi lên không khí miền
trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó là nghệ thuật xây dựng cốt
truyện, tình huống hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể
hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của
con người trong nạn đói.
Phân tích bài Vợ nhặt Bài làm mẫu 1
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh ra ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông chỉ được học hết bậc
Tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống. Ông có sự đam mê và yêu thích văn chương, nên
đã bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy cảm hứng từ cuộc
sống lam lũ của người nông dân nghèo hoặc các cảnh sinh hoạt văn hóa truyền thống ở vùng thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, những tác phẩm truyện ngắn của ông đều viết về làng quê,
đây là mảng hiện thực mà ông am hiểu sâu sắc. Nguyên Hồng đã từng nhận xét thì
Kim Lân rằng ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần
hậu nguyên thủy nhất của cuộc sống nông thôn. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm
đặc sắc có giá trị và “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông, tác phẩm được
viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng mãi cho đến sau khi hòa
bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập truyện “Con chó xấu xí”.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm khủng khiếp 1945, “Vợ nhặt” đã khắc họa một cách trần
trụi cuộc sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta thời
bấy giờ. Cái đói, cái khổ đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi và thành vị
khiến con người ta bị dồn tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực thẳm của cái
chết. Chứng kiến thảm cảnh kinh hoàng ấy, ngòi bút của Kim Lân đã cất lên tiếng đau
đớn của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông cũng
lên tiếng tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và bọn phát xít Nhật, ca ngợi khát
vọng sống, khát vọng được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề tác phẩm, Kim Lân đã cho người đọc thấy sự tò mò bởi hai từ “Vợ
nhặt”, vợ nhặt tức là người vợ được nhặt về mà không cần cưới xin. Nhưng cũng
chính nhan đề ấy là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách khá đầy đủ về số
phận bất hạnh của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm, tủi nhục và sự rẻ
rúng của con người trong nạn đói khủng khiếp ấy.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một người thanh niên nghèo
khổ, có ngoại hình xấu xí nhưng chỉ với vài ba câu hò bông đùa và mấy bát bánh đúc
mà lại nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ đã kết lên mối nhân duyên
giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong cái
bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vọng
lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối và nồi cháo cám. Bữa cơm đầu tiên ấy do
chính tay me chồng chuẩn bị để đãi con dâu và con trai. Khi ăn, ba mẹ con xoay sang
câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật để chia cho người dân nghèo và kết thúc
câu chuyện là hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra quan niệm rằng: “Tình huống truyện là một lát
cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là nó sẽ
chi phối nhiều điều trong cuộc sống của con người”. Trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã
xây dựng một tình huống hết sức độc đáo đó là: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí
như Tràng mà lại “nhặt” được vợ chỉ bằng vài ba câu nói bông đùa và mấy bát bánh
đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng xung quanh, cho
mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân của anh ta nữa. Đây là một tình huống éo le, cảm
động nhưng lại hết sức hợp lí bởi chính cái nạn đói đã làm cho những mảnh đời cơ
cực trôi dạt vào với nhau và họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã
làm nổi bật lên giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo sâu sắc: nạn đói khủng
khiếp ấy đã đẩy con người tới cận kề cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng,
đồng thời cũng làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện lên hoàn cảnh cơ cực, khốn khó, nghèo đói đến xác xơ
tiêu điều của con người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là mẹ con
Tràng. Cái đói ập đến ngôi làng giống như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của
biết bao nhiêu con người, nó đã biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng
quê thanh bình, yên ả thành không khí ẩm ướt hôi thối của mùi rác rưởi và xác chết:
“Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây
nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây
của xác người”. Cái đói, cái khổ ấy đã cướp đi tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên của những
đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu, trong mỗi buổi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ
con lại bu lại xung quanh anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa thì cù, đứa
thì kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao, nhộn nhịp lên một lúc. Nhưng
niềm vui nhỏ nhoi ấy bây giờ cũng không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng.
Chúng ngồi ủ rũ, mặt buồn so dưới những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng –
nhân vật trung tâm của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, có ngoại hình xấu xí,
thô kệch sống hiu quạnh với người mẹ già trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ
dại. Sống với thân phận là dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm những
công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của cái kiếp nghèo khổ,
đói rách, chàng đã “nhặt” được một cô vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi
cũng chẳng có quê quán, nhà cửa. Thị bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào với
dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc để nhặt những hạt rơi hạt vãi,
sống nơi đầu đường xó chợ. Bằng ngòi bút tả thực, Kim Lân đã khắc họa bức tranh
của “ngôi làng đói” trong năm 1945 một cách chân thực mà trần trụi.
Nhưng cũng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ ra những phẩm
chất tốt đẹp: Đó chính là tình yêu giữa con người với con người, niềm khao khát được
sống, được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau”.
Vâng, tình yêu chính là thứ duy nhất còn sót lại khi con người ta đã mất đi tất cả, đã
rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn cùng. Trong cái hoàn cảnh đói khát khủng khiếp
ấy, nhân vật Tràng hiện lên với sự tốt bụng của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng
ăn cho người phụ nữ xa lạ mặc dù bản thân anh cũng chẳng dư dả gì. Đặc biệt nhân
vật bà cụ Tứ hiện lên với lòng nhân hậu, khoan dung, hiền từ và tình yêu thương con
sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ, âm thầm trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa một
người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã dùng ngòi bút tinh tế của mình để thể hiện
sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai bỗng dưng có vợ: bà cụ
đã hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ kia chào bà bằng “u” mà vẫn không
hiểu, mắt nhìn nhòe đi mà vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện hàng loạt những câu
hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa từng nghĩ một
người nghèo khó, xấu xí như con trai mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải là sự
hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc quá lớn lao bất ngờ của con
trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, thì lòng người mẹ lại chất chứa bao cơ sự, vừa thương con
lại vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà
ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu
ba chấm được đặt ra như ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì thương xót, vì tủi thân, giọt
nước mắt thương con lăn dài trên gò má. Không những thế, bà còn cảm thấy lo lắng
khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này không”. Dù lo lắng là vậy nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đang đứng
vân vê tà áo thì lòng bà lại xót thương vô cùng cho người con dâu mới này. Sự nhân
hậu và cảm giác yên tâm đã thay thế cho nỗi lo trong lòng bà: “Người ta có gặp bước
khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
Tình yêu thương con của bà còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, từng hành động cụ
thể: bà đã gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ với một từ “con” đó thôi đã cho ta hiểu rằng
bà đã dang rộng vòng tay đón nhận cô con dâu này giúp con dâu bớt ngượng ngùng.
Bà còn thủ thỉ tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng”. Hai từ “mừng lòng” ấy nói lên việc bà đã coi người con dâu đến với gia
đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh của mình “Kể có ra làm được dăm ba mâm
thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này.
Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng chừng như có vẻ lẩm cẩm nhưng lại
rất chan thành, nhân hậu, chan hòa phá tan đi sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn đã thể hiện niềm khao khát có được hạnh phúc của
con người qua nhân vật Tràng và Thị – người vợ nhặt. Trước hết cái khao khát hạnh
phúc của Tràng được thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động anh. Tràng quyết
định rất nhanh chóng khi đưa người một phụ nữ xa lạ, chỉ mới gặp 2 lần về làm vợ:
“Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả
biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Nhìn bên ngoài anh
ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng tận sâu bên trong lại chứa đựng niềm
khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cả cái đói và
cái chết. Khi Tràng đưa vợ về nhà, mặc dù nghèo nhưng anh vẫn hào phóng khi đãi thị
một bữa ăn no và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy hiện lên trong
con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi cái nghèo đói mà tình tứ
đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau còn chưa hết ngượng ngùng
nhưng trong họ đã nhen nhóm ngọn lửa hạnh phúc. Khi về tới nhà, Tràng vội thanh
minh cho sự tuềnh toàng, lộn xộn của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của
người phụ nữ. Khi thấy bà cụ Tứ mãi chưa về, Tràng lo lắng sốt ruột, anh đang rất
mong muốn được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia,
sợ rằng với gia cảnh nghèo khó này thị sẽ bỏ đi, sợ rằng hạnh phúc sẽ tuột khỏi tầm
tay. Khi mẹ về, Tràng vui mừng chủ động giới thiệu với mẹ một cách nghiêm túc,
trịnh trọng bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”.
Tâm lí của Tràng như xóa tan đi sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là
một việc hết sức nghiêm túc: anh muốn sống lâu dài với người phụ nữ này. Cảm xúc
của Tràng được bộ lộ rõ nét nhất trong buổi sáng hôm sau khi thức dậy. Một ngày mới
đến với niềm hạnh phúc hân hoan, Tràng “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ giấc mơ
ra”. So với sự vô tâm như mọi khi thì hôm nay Tràng nhận thấy sự thay đổi khác lạ
xung quanh mình. Anh thấy thật hạnh phúc khi được sống trong không khí yên bình
với niềm hạnh phúc giản dị của gia đình: vợ quét dọn sân nhà, mẹ thì dọn cỏ ngoài
vườn. Cảnh tượng bình dị ấy đã khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc vô bờ.
Không những thế Tràng nhận thấy mình cần trưởng thành và có trách nhiệm với gia
đình hơn, anh cũng muốn bắt tay vào làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của nhân vật Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được vun vén,
đắp xây bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận ngặt nghèo, bất
hạnh để sống trọn vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh, bất chấp theo
Tràng về làm vợ và khi về hiểu được gia cảnh của Tràng, thị ngán ngẩm thở dài nhưng
vẫn muốn có một gia đình. Thành vợ, thành con dâu trong gia đình, thị bắt tay để gây
dựng gia đình, cuộc sống với hai mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén
dọn dẹp sân vườn, nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ – người phụ nữ mà mọi
thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm, có sức sống hơn, thậm
chí bản thân Tràng cũng có sự thay đổi lớn: Tràng muốn trở thành người con có hiếu
và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người
ta lại càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về đề tài những người nông dân trong cái nghèo đói nhưng khác với những
nhà văn khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình một tư tưởng mới đó là:
Khi con người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, cái khổ người ta mới muốn
sống hơn muốn chết. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật người vợ nhặt và
bà cụ Tứ. Người “vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì mong muốn được
sống mà đã liều lĩnh theo Tràng – một người đàn ông xa lạ về làm vợ. Niềm khao khát
được sống nâng lên thành niềm khát khao được hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà
này từ một người chan chát, đon đả, chảnh lỏn thành người vợ hiểu chuyện biết vun
vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị toát lên một sức sống mãnh liệt nên thị làm mọi
cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống,
niềm tin vào tương lai của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái nghèo,
cái khổ nhưng bà vẫn nén lòng mình lại để động viên an ủi các con và cũng là động
viên, an ủi chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà bảo ban, khuyên răn các con
và cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cũng đã thay
đổi hoàn toàn với trước kia: khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám, xám xịt
hàng ngày, nay bà đã ra vào nhanh nhẹn, khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện
vui vẻ, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả những thay đổi của bà đều xuất phát từ tình yêu
thương và khát vọng sống mãnh liệt.
Qua việc tái hiện khung cảnh nghèo đói, khốn cùng của con người cùng thế giới nội
tâm nhân vật, nhà văn đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân đã chèn ép, vùi dập con
người đồng thời hướng con người tìm tới con đường cách mạng. Điều đó thể hiện qua
câu chuyện của người vợ nhặt: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không
chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói
nữa”. Và kết thúc tác phẩm là hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới” đó như là lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người
nông dân cần đi đó chính là con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm, những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn
đọc không chỉ bởi niềm cảm thương, xót xa, niềm khao khát bình dị của con người mà
còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi
mang đậm màu sắc của vùng đồng bằng trung du bắc bộ. Bên cạnh đó là nghệ thuật
xây dựng tình huống độc đáo, hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó
tác phẩm đã thể hiện được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt cùng niềm
tin vào một tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói. Bài làm mẫu 2
Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt
Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có
tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài
các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và
xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-
1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây
bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm
của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ
những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng,
niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.
Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những
con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong
hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ
đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn
muốn sống, sống cho ra con người”. Thật vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu
chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt
không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh
Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ
đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí
ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm
hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống
thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn
“người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi
và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ,
khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm
thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê
thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung
trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói
lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ.
Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa
địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra,
một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn.
Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những
phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó
khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.
Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo
lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư,
sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò
thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm
nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng,
cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng
không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa
lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không
vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống,
chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.
Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã
trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc.
Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của
nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số
phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất
chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì
anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng
chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4
chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn,
thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng.
Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương
cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường
cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử
trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng
lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại
vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa
qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở
thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ.
Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại
càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới
cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng
nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự
tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn
ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để
mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ
nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt
nhọc đang chờ phía trước.
Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và
hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ
một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong
một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói
khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới
kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một
con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn
chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về
nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột,
anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng.
Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một
cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn
vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng
làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.
Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận
thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy
hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm,
mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy
nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng
cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy
xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”.
Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai
của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính
bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.
Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không
gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn.
Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương
xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái
lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải
sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất
chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa
của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì
cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh,
mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống,
thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.
Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ,
tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là
được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo
dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt
chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại,
thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại
vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về.
Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng,
trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu,
sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một
tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn
nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ,… đã mang đến hình ảnh đẹp của một
người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc
sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.
Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại
diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là
một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi
anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang
bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể
xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân
nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con
mình khổ sở, đơn độc mưu sinh.
Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi
thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi
mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự,
bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất
lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ
vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm
tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì
nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái
cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời
làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả
những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu
nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng
hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở
con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc
sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó
khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này.
Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu,
bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị,
người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang
rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm
thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy
đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi
chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba
mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những
nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng
Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi.
Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh
đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị.
Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc
sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm
hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời
khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua
cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà
cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự
định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó
vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám,
tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những
con đường mới mẻ, đầy hy vọng.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết
về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói
kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay
đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức,
danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng,
thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những
ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng
ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai,
và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau
cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người
ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi
bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 1
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm
“Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã
hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân
đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn
đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người
chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp
ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói
đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim
Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất.
Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi
tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân
nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng
nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên
xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước
đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo
lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông
dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng
nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình
huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc
nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây
giờ. Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy
ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không
còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu,
ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy
phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây
gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn
khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái
nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào
lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn
bà đi bên cạnh Tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là
vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt đầu không còn chua
ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm
vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con
người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm
thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà,
đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng
của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín
lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là
trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim
Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển
hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi,
hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi
cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện
thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà
cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn
mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên
bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa
cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn,
“nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến
người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện
ngắn đã mang đến chút niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng
ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo,độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói
nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh
tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 2
Kim Lân được biết đến cũng chính là nhà văn của làng quê Việt Nam với người nông
dân Việt Nam. Có một cách viết chân chất, mộc mạc và ông lại chắt lọc và sáng tạo
lên những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Không sai chút nào khi người ta
nói văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị và vô cùng đời
thường. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn vô cùng đặc sắc của Kim Lân khi
ông đã tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân thế
nhưng trong đau khổ họ vẫn luôn khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc, yêu thương.
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm đã được ra đời trong thời kỳ
đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945. Có thể nói đời sống nhân dân lúc này đây
bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm. Và một khung cảnh thê lương đó dường
như cũng đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm biết bao nhiêu.
Độc đáo ngay từ khi đọc nhan đề của tác phẩm, Kim Lân dường như cũng đã dẫn
người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, cuộc sống bần hàn nhất.
“Vợ nhặt” chính là chi tiết và đồng thời cũng là tình huống truyện thắt nút làm nên
cuộc đời của từng nhân vật được hé mở ra.
Mở đầu truyện ngắn người đọc cũng nhận thấy được nhân vật anh Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra,…” Nhà văn cũng
chỉ miêu tả một vài những chi tiết nhỏ nhưng cũng đã khiến cho người đọc cũng lại
cảm nhận thấy được diện mạo của người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Có thể
nhận thấy được chính vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ được chính lên trước mặt
người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói khổ biết bao nhiêu, cái nghèo như làm
họ xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả Kim Lân dường như cũng đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc
đáo và cũng vô cùng mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Người đọc như
cũng lại nhận thấy được chính tình huống Tràng “nhặt” được vợ như nới lên chính sự
thê thảm và vô cùng éo le của những con người chính trong xã hội lúc bấy giờ. Người
đọc dường như cũng lại cảm nhận thấy được chính hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần
hiện ra dưới ngòi bút miêu tả thật độc đáo của nhà văn đầy ám ảnh đó chính là chi tiết
miêu tả “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống và cái nón rách tàng tàng nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Người đọc cũng nhận thấy
được đây là một người đàn bà nghèo khổ, và ở người đàn bà này không còn thứ gì giá
trị gì thị lại khi đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, và có một cuộc sống như thật
cùng cực đúng là một đôi trời sinh vậy.
Thực sự cũng chính giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên
khung cảnh đìu hiu, nó dường như cũng lại thật ảm đạm của xóm nghèo la liệt những
xác chết đói nữa. Thế rồi chính không khí lúc này đây cũng thê thảm, một buổi chiều
nơi xóm ngụ cư này bị cái đói, cái nghèo đè nén thật tang thương biết bao nhiêu. Cái
đói, cái nghèo đó như cũng đè nén sự sống đến chìm nghỉm khiến cho mọi người khi
đọc câu văn cũng cảm nhận thấy được có những phận nghèo thật long đong và bước
vào đường cùng không lối thoát. Khung cảnh mà Tràng dắt vợ về đã khiến cho điều
đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về chính người đàn
bà như đang đi bên cạnh Tràng. Người đàn bà không còn vẻ chua ngoa như trước mà
đã biết thẹn thùng đi sau Tràng khi về làm vợ. Trong cảnh đói nghèo đó đến miếng ăn
và bản thân mỗi người còn chẳng lo đủ thế mà lại lấy vợ thì thực đây là một điều lạ.
Điều lạ này lại lạ với tất cả mọi người, với lũ trẻ con, với tất cả người dân xóm ngụ cư,
với bà cụ Tứ và cả với Tràng nữa.
Truyện ngắn còn đặc sắc và mang được tính nhân văn cao đó là khi trở về nhà, hình
ảnh bà cụ Tứ – mẹ Tràng dường như cũng lại được nhà văn Kim Lân khắc họa diễn
biến và có thể nhận ra được cũng chính sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và
sâu sắc biết bao nhiêu. Chắc chắn rằng chính người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người mẹ bao dung và hiền hậu của bà cụ Tứ. Làm sao có thể quên được chi tiết đó
chính là bà Tứ nhận ra được và hiểu được mọi sự tình khi Tràng dẫn người vợ nhặt về.
Những sự băn khoăn, những sự lo lắng của bà cụ Tứ dường như cũng đã hiển hiện rõ
hơn thế rồi bà cũng lại động viên các con tin tưởng vào tương lai. Thế rồi hình ảnh đặc
sắc “nồi cháo cám” chính là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia
đình ngay trong nạn đói. Tâm trạng của mỗi nhân vật như cũng đổi khác và ai ai cũng
mong vun vén cho hạnh phúc gia đình của mình ngay trong nạn đói đó. Người đọc
cũng lại nhận thấy được chính bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở
ngay cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi
sáng hơn mà nhà văn Kim Lân muốn thể hiện.
Có thể nhận thấy rằng chính bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc
họa tâm lý nhân vật sắc sảo và cũng vô cùng độc đáo và cốt truyện “Vợ nhặt” mang
được đầy bất ngờ. Kim Lân dường như cũng đã vẽ lại trước mắt người đọc khung
cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Thông qua đó tác giả
cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt ngay trong cả lúc cái chết chiếm lĩnh.
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 3
Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của ông
tập trung phản ánh bức tranh của nông thôn Việt Nam và hình tượng người nông dân.
Dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn Việt Nam cũng
như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người nông dân được thể hiện
chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những tác phẩm thành công của Kim
Lân với cốt truyện độc đáo cùng lối dẫn chuyện hóm hỉnh hấp dẫn người đọc.
Lấy cảm hứng từ nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hiện thực bức
tranh ngày đói ám ảnh trong từng câu chữ, từng trang văn của ông. Bằng ngòi bút tả
thực kết hợp Kim Lân đã tái hiện cảnh vật xác xơ heo hút của ngã tư xóm chợ về
chiều, rồi “hai bên dãy phố, úp sụp, tối om”,”cái nhà vắng teo đứng rúm ró một mảnh
vườn mọc lổn nhổn”…Từng ấy thôi ngòi bút của ông đã tô đậm lên bức tranh u tối,
với cảnh sống đói nghèo của nông thôn Bắc Bộ những năm 1945. Tất cả hiện lên đều
còm cõi, xác xơ, rách rưới. Ở đó không chỉ có cảnh vật mà con người cũng hiện lên lụi
tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái chết cũng được ghi lại trong âm thanh thê thiết, tạo
nên sự ghê sợ, rợn người. ở đó như đang dồn đuổi sự sống của con người đến đường
cùng. Âm thanh của tiếng quạ trên mấy cây gạo, của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng
trống thúc thuế mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ vậy thôi mà nhà văn như tô lại hiện thực
tố cáo sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc thực dân với những chính sách vô cùng hà
khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.
Trong cái không gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc
không khỏi bàng hoàng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài nhiều vế,
kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng bế, dắt díu
nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những người sống đang
lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống không phải cuộc sống của con người. Người chết
thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn và nhức nhối của biết bao
con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thôi thúc Kim Lân phản ánh lại bằng những trang
văn đầy ám ảnh như vậy.
Cũng từ bức tranh đói khổ ấy, câu chuyện mà Kim Lân muốn kể với người đọc là câu
chuyện đầy đủ bi hài. Ở đó là câu chuyện của nhân vật Tràng “nhặt” được cô vợ trong
những ngày đói khổ như thế. Kim Lân đã rất tài tình trong việc khắc họa từng tâm
trạng của nhân vật chính xoay quanh cốt truyện độc đáo. Sự thay đổi tâm lý rất phù
hợp từ lúc gặp Thị (vợ Tràng), trên đường đưa Thị về nhà, về đến nhà. Đặc biệt là tâm
trạng sáng ngày hôm sau và tâm trạng trong bữa cơm đều được Kim Lân tái hiện lại
chân thực. Bằng những ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, mộc mạc nhà văn đã cho
người đọc thấy rõ nhất được hiện thực cuộc sống thê thảm qua câu chuyện “cưới vợ”
của Tràng trong ngày đói. Cũng từ cái hiện thực thê thảm đấy mà qua đó, người đọc
vẫn nhìn nhận được niềm tin của nhà văn. Ông tin tưởng vào tương lai dù có thế nào,
dù họ có bị đẩy vào bước đường cùng thì vẫn le lói sự sống bằng tình yêu thương sự
đùm bọc lẫn nhau giữa con người. Đồng thời cũng cho thấy được khát khao hạnh phúc
gia đình mãnh liệt của người dân lao động.
Sau hình ảnh nhân vật Tràng thì nhân vật Thị cũng hiện lên với bản lý lịch trích ngang
hoàn toàn trắng xóa. Không gia đình, không người thân, không nhà cửa, không tên
tuổi. Thị hiện lên như một sinh vật khốn khổ bị quăng quật, hiện lên là một con số
không tròn trĩnh trong cơn lốc xoáy của cuộc đời. Chỉ qua lời bông đùa đơn giản Thị
nghiễm nhiên trở thành vợ của Tràng. Và như những người khác khi về nhà chồng,
Thị cũng trải qua đầy đủ mọi cảm xúc, sự e thẹn, xấu hổ, đến niềm vui, sự bần thần lo
lắng cùng Tràng và bà mẹ chồng về cái đói, cái nghèo bủa vây. Nhưng trong đó, vẫn
là niềm vui, khát vọng sống của từng ấy con người. Từ bức tranh hiện thực ấy mà Kim
Lân một lần nữa ca ngợi khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người như một giá trị tốt đẹp.
Xây dựng một kết thúc mở cùng với lối kể truyện độc đáo, lời văn giản dị, chân thành,
mộc mạc nhưng rất có sức gợi hình, Kim Lân đã rất tài tình trong việc phản ánh chân
thực nạn đói của xã hội Việt Nam những năm 1945. Số phận của người lao động bị rẻ
rúng, thấp hèn, bị cái nghèo đói bủa vây cùng vô số những chính sách hà khắc của chế
độ thực dân. Qua đó ông cũng thể hiện giá trị nhân đạo đó là ngợi ca khát vọng sống,
trân trọng và gieo vào lòng người đọc một niềm tin thay đổi hoàn cảnh. Đồng thời tố
cáo xã hội đen tối, tố cáo những chính sách khiến người dân càng lâm vào cảnh lầm than.
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 4
Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính
xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành
công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu
qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng
mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập
trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng
quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập
“Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của
nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn
đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ
thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò mới mẻ
về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng như thảm họa.
Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi vãi ở dưới đất, những
vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy lại được gắn liền với hình
ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác giả đối với nhân vật của mình
bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh
này, thân phận của con người lại rẻ rúng hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa
của anh cu Tràng mà người phụ nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người
“vợ nhặt”. Tất cả những điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh,
thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát
vọng sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn được thể hiện
thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện chính là thứ
nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình huống truyện là nghệ
thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm, qua đó bộc lộ tính cách, số
phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ
nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ
nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong
không gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa
bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại
ngờ nghệch, nay lại có người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay
nên khóc. Tình huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân
đạo của tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân
phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật chính
của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người chết như
ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết”.
Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng lại có tính thương người,
luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hy vọng vào một tương lai tươi sáng.
Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện ngay ở
cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có một cái tên
thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó cũng là tên của
một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế nhưng lại được hóa công
gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh
ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của
Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái phần tự nhiên, hoang dại của con người.
Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối
tượng bông đùa của những đứa trẻ xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngốc nghếch”. Hoàn
cảnh sống của Tràng cũng chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên
mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả
trên giường, dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.
Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy. Tuy
Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngốc nghếch thế nhưng ẩn sâu trong tâm hồn
Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là người nhân hậu và giàu
tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã cho ăn “một chặp bốn bát bánh
đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người ta quá đói. Đó là một việc làm thật
đáng quý, thể hiện truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá
rách” của dân tộc ta. Khi người vợ nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm
của Tràng tìm vợ mà thực tế, Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người
còn đói khát hơn cả mình. Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát
khao hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ
của mình: “Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà
lạnh lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật sự
sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.
Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất “phởn
phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo le nhặt được
vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng niềm vui của Tràng đã
lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui, “có lúc muốn thân mật nhưng
không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ
xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc,
Tràng dường như quên hết cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa”. “Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt
Tràng”. Đó chính là hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát.
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 5
Kim Lân là một trong số những nhà văn xuất sắc viết về nông thôn và nông dân Việt
Nam trong nền văn học hiện đại với những tác phẩm độc đáo tỏng cách xây dựng tình
huống truyện, cách xây dựng và miêu tả nhân vật. Và có thể nói, truyện ngắn Vợ nhặt
– rút từ tập Con chó xấu xí là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hấp dẫn bạn đọc ngay từ nhan đề tác phẩm và cách
nhà văn xây dựng tình huống truyện. Chắc hẳn, mỗi người trong chúng ta ai cũng sẽ tò
mò khi nghe thấy nhan đề “Vợ nhặt” nhưng chính nhan đề ấy đã gợi lên thật nhiều
điều đáng suy ngẫm. Chính nhan đề ấy đã phần nào gợi lên thân phận rẻ rúng, đáng
thương của những con người trong nạn đói năm 1945. Đồng thời, nhan đề ấy cũng đã
phần nào hé mở tình huống truyện độc đáo của tác phẩm và góp phần to lớn vào việc
thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc ở thiên truyện. Không chỉ độc đáo ở nhan đề, Vợ nhặt
còn xây dựng thành công một tình huống truyện mới lạ, độc đáo và giàu ý nghĩa. Kim
Lân đã thật sự thành công khi xây dựng tình huống truyện – Tràng – một người dân
xóm ngụ cư, với ngoại hình xấu xí lại “nhặt được vợ” ngay trong chính nạn đói khủng
khiếp năm 1945. Đó là một tình huống truyện mới lạ, bất ngờ nhưng cũng đầy éo le
gây nên sự ngạc nhiên cho biết bao người nhưng cũng chính tình huống ấy đã góp
phần không nhỏ vào việc thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm – sự rẻ rúng, bèo bọt
của thân phận con người ngay trong nạn đói.
Không chỉ thành công trong việc lựa chọn nhan đề và tạo dựng tình huống, Vợ nhặt
của Kim Lân còn hấp dẫn bạn đọc trong cách xây dựng nhân vật và chắc hẳn, những
ai đã đọc tác phẩm này sẽ không thể nào quên nổi nhân vật Tràng. Không đi sâu miêu
tả ngoại hình của nhân vật nhưng Kim Lân đã có những nét vẽ đủ để chúng ta nhận
thấy Tràng là một chàng trai ngụ cư xấu xí với“dáng người thô kệch, cái cười khềnh
khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm bạnh ra”. Có lẽ ở Tràng hội tụ đầy đủ
những yếu tố để ế vợ, ấy vậy mà ai ngờ đâu chính trong cái nạn đói khủng khiếp năm
1945 Tràng lại được một người phụ nữ theo không về nhà làm vợ. Và cũng chính sự
kiến ấy đã làm cho những dòng cảm xúc của Tràng có sự thay đổi theo thời gian.
Tràng và thị quen nhau thật tình cờ, chỉ vài ba câu hò vui ấy vậy mà thị theo Tràng về
nhà thật “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng
lên xe rồi cùng về”. Thị theo về nhà, trong lòng Tràng chắc hẳn có niềm hạnh phúc
đang len lỏi nhưng rồi cũng có lúc Tràng lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nhưng rồi Tràng lại
“tặc lưỡi: chậc kệ”. Cái tặc lưỡi ấy của Tràng không phải là cái tặc lưỡi của kẻ bất lực,
muốn buống xuôi tất cả mà Tràng chậc lưỡi bởi với Tràng trong giờ phút này đây mọi
niềm vui và khát vọng hạnh phúc đã lấn át và lớn hơn tất cả. Và để rồi, trên đường đưa
vợ về nhà, niềm hạnh phúc, vui sướng ấy của Tràng như càng nhân lên gấp bội và
phát lộ rõ rệt ra dáng vẻ bên ngoài của hắn ““vẻ mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa
đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đặc
với mình”. Nếu như, trên đường đưa vợ về nhà trong Tràng ánh lên niềm hạnh phúc
khôn nguôi, Tràng như đang đắm chìm trong men say của hạnh phúc thì lúc về tới nhà
Tràng lại ngượng nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi có cái gì đó lo lắng, có lẽ
Tràng sợ mẹ mình sẽ không đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, lời giới thiệu của
Tràng với mẹ mình về sự xuất hiện của thị “kìa nhà tôi nó chào u” – một lời giới thiệu
chan chứa bao nghĩa tình. Đặc biệt, tâm trạng của Tràng đã thực sự thay đổi trong
buổi sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ đi ra”,
“cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái gia đình
này” sau một đêm đắm mình trong tình yêu, hạnh phúc. Và có lẽ chính sức mạnh của
tình yêu, của hạnh phúc đã khiến Tràng thay đổi và thêm yêu, thêm tin tưởng vào
hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng hơn.
Cùng với nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị. Nếu
như khi xây dựng nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân tập trung đi sâu khám phá thế giới
tâm trạng thì khi khắc họa nhân vật thị nhà văn lại làm bật nổi nhân vật qua việc miêu
tả ngoại hình và tâm trạng để từ đó làm bật nổi tính cách, tâm trạng của thị. Chắc hẳn,
những ai đã từng một lần đọc Vợ nhặt sẽ không thể nào có thể quên được những chi
tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của thị “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo
quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm cà tàng che nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép
nhô lên”. Ngoại hình ấy của thị có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho cái đói đang
hoành hành. Và có lẽ cũng chính nạn đói khủng khiếp ấy đã khiến thị có những hành
động “chao chát”, “chỏng lỏn” nhưng xét đến cùng đấy là chứng tích của cái đói. Đó
là cái hành động thị đon đả “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”,
“ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng vẻ
bên ngoài ấy, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được sự tinh tế, ý tứ, e dè của thị trong
lúc theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường theo Tràng về nhà, thị có cái gì đó ngượng
nghịu đến nỗi “chân nọ bước díu cả chân kia”. Thêm vào đó, khi về đến nhà, thị “nén
tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”, “ngồi mớm ở mép giường”,… Những hành
động ấy của thị đã làm toát lên sự e dè, ý tứ ở người phụ nữ có vẻ ngoài chao chát,
chỏng lỏn tưởng chừng như có cái gì đấy vô duyên. Đặc biệt, nét đẹp tâm hồn, sự ý tứ
của thị được thể hiện rõ nét trong buổi sáng hôm sau, thị “dậy sớm quét dọn nhà cửa,
sân vườn, phơi quần áo, “trong bữa sáng: nói nhỏ nhẹ, đúng mực, lễ phép”,… Như
vậy, thị chính là sự hiện thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong những ngày khủng
khiếp của nạn đói những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho người phụ nữ mất đi
những nét đặc trưng của họ thì chính tình yêu, hạnh phúc đã đem đến cho họ sức sống
mới, để được sống với con người thật của mình.
Thêm vào đó, trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân còn xây dựng thành công nhân vật bà
cụ Tứ – điển hình cho người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Những chi tiết nhà văn Kim
Lân miêu tả ngoại hình của bà cụ Tứ đã gợi nên sự cơ cực, lam lũ nơi người phụ nữ
này. Đó là “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho vừa lẩm bẩm tính
toán”. Nhưng ở người mẹ ấy chúng ta cũng cảm nhận thấy bao phẩm chất, bao nét đẹp
tâm hồn qua những dòng xúc cảm của bà. Lúc vừa về đến nhà, thấy sự xuất hiện của
thị trong nhà của mình, bà có cái gì đấy ngạc nhiên, “tỏ ý không hiểu”. Nhưng rồi, bà
vỡ lẽ, bà nhận ra bao điều Bà lão cúi đầu nín lặng, “bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán vừa xót thương” và rồi lòng người mẹ ấy cảm thấy thương con và thương cho
chính mình, bà khóc – giọt nước mắt của sự tủi thân, của sự tự trách. Nhưng lòng
thương con, lòng thương người đã khiến bài mở rộng vòng tay đón nhận nàng dâu mới.
Và có lẽ chính sự xuất hiện của thị đã đem đến cho bà một niềm vui, niềm hạnh phúc
khôn nguôi vào buổi sáng hôm sau. Sáng hôm sau, bà dậy sớm cùng nàng dâu mới
chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình, “gương mặt bủm beo, u ám
ngày thường rạng rỡ hẳn lên”, trong bữa ăn sáng cả gia đình cùng nhau nói toàn
những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Như vậy, bà cụ Tứ là đại diện điển hình
cho người phụ nữ Việt Nam dù cơ cực, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn luôn tràn đầy
tình yêu thương và tinh thần lạc quan.
Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ
thuật trần thuật linh hoạt và cách xây dựng, miêu tả nhân vật đã vẽ nên bức tranh hiện
thực về cuộc sống và số phận của người lao động trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện rõ nét tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim
Lân – bài ca ngợi ca tình người và khẳng định những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người.
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 6
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người
nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những
phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con
chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết
ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và
sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ
kỷ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ
cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã
gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp,
khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp
nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được
Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông. Trước hết là màu sắc, ông đi
khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những
màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết
hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba
bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất
hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh,
phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn
đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái
đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện
xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng
vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân
biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những
người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia
bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề
xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ
con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp
bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê. ....................
Tải file về để xem thêm bài phân tích Vợ nhặt ngắn gọn
Phân tích bài Vợ nhặt đầy đủ nhất
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 1
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ
được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng
tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người
nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện thực
mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một lòng đi về
với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác
phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện
ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau
khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho
ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian
xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính
sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo
“nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói,
ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua
truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật; đồng thời phản
ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa và
mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ thành
chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng
tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió
vẳng lại. Bữa cơm cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối mẹ chồng đãi nàng dâu
và con trai món chè nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt
Minh tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên
hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo
không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khác lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh ngộ, số
phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê
thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống
độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ
bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng! Tác giả diễn tả
tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng
dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi
thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì
không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao
mình lại có vợ dễ dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết
nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm
tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc,
phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình
cảnh cơ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động
đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn
đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác
giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm
đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm
ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui
nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó
ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày
của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc
áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như
những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn…
Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn
ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi
chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quả là một cảnh tượng
khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa từng thấy từ
trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí,
sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi
nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ
như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con
gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: …hai
con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp
nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước…
cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần
thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng không
nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng
cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui
vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn
như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về
với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ
trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không
ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất
hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ… Đã từ
lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường,
khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng
anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công
ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại,
anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?
Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn
tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào
chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về
nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng,
háo hức. Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế
nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay
đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong một lúc,
Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà
đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy…
Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với
người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là lòng biết ơn bởi
chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có
được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm
chợ… xác xơ, heo bút. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn,
lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như
những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết…
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp
súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp.
Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh
hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng
văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau
thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy
Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây
dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm
đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn
phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.
Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh
đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự
nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh
Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu
hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm cho mọi
người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cái lạ lùng đã thắng cái đói, trả lại
tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh Tràng ơi!
Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu: Bố ranh! mà trong bụng thì khoái
lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần,
khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một
niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái
xóm ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Xem thêm: Mở bài về tác phẩm Vợ Nhặt
Phân tích Vợ nhặt - Mẫu 2
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người
nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những
phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con
chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết
ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau
đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỷ
niệm cách mạng tháng 8 thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”,
dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây
được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp,
khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn làn, khủng khiếp diễn ra ở khắp
nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được
Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của
đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa.
Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi
đốt đống rấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ
từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy
hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết cong queo bên đường. Tình
cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân
thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc
thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở
chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện
xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng
vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân
biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những
người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia
bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề
xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ
con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp
bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự,
anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều,
còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập
vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ
và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp
dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về
ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ
một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có
những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũ vậy, anh
cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò
với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới,
dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh
cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch,
hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng,
phởn phơ, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa
vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên
hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà
Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại
vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng
mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị
với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã
thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói.
Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm
sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ
trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát
khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác
lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp,
vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động
và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm
của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con.
Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn
chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng
đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt,
anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang
không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người
đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ
chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lên trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân
dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ.
Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn
cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt.
Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và
cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói
khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng,
quần áo thị rách rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám
ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm
hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chat,
chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt
tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”,
“xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra
là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách
con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sao sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống
vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn,
vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn
hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng
con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”.
Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớm ở
mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ
dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai
trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương
cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy
vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực
người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn
khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ, bà dặn dò hai vợ chồng mới. Nói những
chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người
mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện
thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời
ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước
mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân
tích phân tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 3
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến cho nhân dân ta rơi vào tình cảnh vô cùng
thê thảm. Tình cảnh ấy được các nhà văn tái hiện chân thực trong những sáng tác của
mình. Nhà văn Kim Lân cũng là một trong số đó. Ông đã khắc họa số phận của những
người nông dân qua tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một lòng thương cảm sâu sắc.
Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, có tiền thân là tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư” được ông viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và
sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến năm 1954, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này dựa vào
một phần truyện cũ và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện tố cáo tội ác
diệt chủng của bọn thực dân, phát xít đồng thời cũng khẳng định niềm khát khao hạnh
phúc cùng niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động vào sự sống và tương lai phía trước.
Tác phẩm có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn
đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ
nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường,
người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này,
thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống
truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình
còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu
nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và
cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây
quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện
cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao
nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất
này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?
Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và
người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc
nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám,
đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngốc nghếch nên thường bị
đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh
là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã
nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay
trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn
phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến
với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ
nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với
nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh
thay đổi. Từ một con người ngốc nghếch, anh trở thành một người có trách nhiệm,
biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt
trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị
cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng
đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả
về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người
dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý
lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua
“cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.
Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh
cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của
mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải
kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về
khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến
lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên
người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết
sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực
đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng
thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.
Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn
gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ - mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà
“đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lý
chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu
người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa
ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ
xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng
dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận,
bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ
nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ.
Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.
Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện
trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra
may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố
gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng,
bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào
có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo
cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các
con và giấu đi giọt nước mắt tủi hờn. Chính bà là người truyền niềm tin, sức sống mới
cho đôi vợ chồng trẻ. Sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã
trở thành ánh sáng, trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con.
Bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân
vật người vợ nhặt. Đây là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ trong nạn
đói năm 1945. Ngay cả một cái tên riêng người phụ nữ ấy cũng không có được. Nhân
vật này được tác giả gọi là “thị”, một đại từ nhân xưng chỉ chung những người phụ nữ
khác cũng như ngầm chỉ số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa
ngoại hình của thị bằng tất cả nỗi xót xa của người trong cuộc. Thị “rách quá”, “cái
ngực gầy lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến anh cu Tràng không nhận ra. Thị
không có việc làm, ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi
đến thì làm. Vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với
anh, nì!” mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là duyên cớ để hai
người gắn kết cuộc đời mình với nhau.
Ở con người thị có chút gì “chao chát chỏng lỏn” khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng. Thị
quên cả ý tứ cần có của người phụ nữ để “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” rồi “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Tuy
“sưng sỉa” là vậy nhưng ẩn sâu trong người vợ nhặt là vẻ đẹp mang tính truyền thống
của người phụ nữ Việt Nam. Thị chỉ theo anh cu Tràng về nhà khi biết anh chưa có vợ.
Trên đường đi về, thị rón rén, e thẹn, thị ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào
chân kia”. Khi về đến nhà Tràng, thị cũng chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và lễ
phép cất tiếng chào bà cụ Tứ. Thị có những sự bỡ ngỡ của nàng dâu mới khi về nhà
chồng. Đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”, thị có sự thất vọng nhưng cũng chỉ “nén một tiếng thở dài”.
Người vợ nhặt đã có sự thay đổi lớn vào sáng hôm sau. Thị “hiền hậu đúng mực”, thị
cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại nhà cửa và sửa soạn bữa cơm đầu tiên đánh dấu cuộc đời
làm dâu của mình. Dù món chè khoán có đắng chát thì thị “vẫn điềm nhiên đưa vào
miệng” mà không một lời than vãn. Thị chấp nhận cuộc sống nghèo khổ ấy. Niềm tin
vào cuộc sống đã khiến thị theo không anh cu Tràng về làm vợ. Nhờ có anh cu Tràng
và bà cụ Tứ mà cuộc đời thị được cứu giúp. Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể
hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm bộc lộ niềm thương cảm, xót xa đối với
cuộc sống con người, đồng thời cũng lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp khiến
hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 4
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà
văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với
“thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác
phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết
tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một
điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào
cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà
cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc
sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường
viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến
những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những
con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hy vọng, vẫn
tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống cho ra con người”. Đó chính là tình
người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận
với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp
với khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công
ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng,
nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa
tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những
mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình
dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ
nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá
kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của
anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong
tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi
miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người
kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ra rất
dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra
một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh
xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây
của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay
chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường,
dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái
xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như
ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ
trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và
ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình.
Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của
Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như
hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của
hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ
tầm phào cho vui nhưng điều ấy không hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người
biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ
ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm
ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ
chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng
ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự
khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp,
mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu,
hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét
đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những
thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài
tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ.
Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu,
một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét
tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy
yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ
con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của
Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu
của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh
phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi sẽ qua đi
để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự động đang ở phía trước sức mạnh của thời đại. Một
lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của
mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo, tăm tối ấy, đã
làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người
chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì
làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn
bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh
miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến đã bóp
nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong
tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người
ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến
không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được
trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu
thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ,
cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng
lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong
những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại,
niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và
người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước
vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa
câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có
chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng
ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn
muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng
thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân
vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một
điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ
nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người
đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng,
ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.
Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi
cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau
khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng
đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy
đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu
thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp
với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 5
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt Nam bởi
trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nông dân. Với văn phong
giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn, tác giả Kim Lân đã gửi
tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm đậm đà của ông dành cho
những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn phòng,
cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước ta đang trong
giai đoạn một cổ hai tròng vừa bị thực dân Pháp đô hộ, vừa bị phát xít Nhật cai trị,
kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát làm cho người dân vô cùng
khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói kinh điển năm 1945 làm chết hai
triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo nơi tập trung những gia đình đi di tản từ
khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới. Ngay cái nhan đề của tác phẩm
“Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy nghĩ về nội dung câu chuyện, thể hiện
một việc trọng đại của đời người chính là việc dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm
rất qua loa, như việc nhặt một món đồ, một viên gạch ngoài đường mang về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu Tràng
“hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ
bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình dung ra được
hình ảnh nhân vật. Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gia cảnh
thì mẹ góa con côi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Công việc của
Tràng làm nghề kéo xe bò thuê chở hàng cho người ta, một công việc lao động tay
chân, bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt
mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè
nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên những
suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó. Tràng
thật sự là một con người kỳ quái. Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con
người xấu xí, thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô
độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ
Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng
với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một cô gái ngoan
ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Tác giả Kim Lân đã xây dựng
tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng.
Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động
nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là
việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận
suy tính trước sau. Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta
mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có
giấy đăng ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm đến
với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ cũng hy vọng
khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào tương lai.
Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “thị cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị
có vẻ rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm như
những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn
ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa,
gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma...”
Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng. Họ tò
mò vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo. Nhưng có người
cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn không có như hiện nay
mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc kệ cứ
bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Cuộc gặp gỡ giữa mẹ
chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp
phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi đầu nín
lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là
trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một
người mẹ thương con, được tác giả Kim Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng
xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm đầu tiên
sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào đắng ngắt trong cổ
họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa chuối thái vội. Một hình
ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc. Tuy nhiên, trong bữa cơm
ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon. Họ còn nói chuyện với nhau
về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba
con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được
sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng vào tương lai.
Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến tận
cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải thoát cuộc
đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể
hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết động tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim
Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta cũng thấy
được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 6
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm
“Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã
hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân
đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn
đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người
chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp
ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói
đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim
Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất.
Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi
tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân
nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng
nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên
xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước
đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo
lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông
dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng
nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình
huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc
nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ.
Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám
ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tầng nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn
thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu,
ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo
xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu
trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm
và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị
cái đói, cái nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân
đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn
bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ
Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa,
đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một
cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến
với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và
xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà,
đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng
của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín
lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là
trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim
Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển
hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi,
hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi
cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện
thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà
cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn
mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên
bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa
cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn,
“nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Phân tích bài Vợ nhặt - Mẫu 7
Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Kim Lân
cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt Nam khi
viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngòi bút sâu sắc và cái
nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng cười sâu cay của Vũ
Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh lùng, đau đớn từng câu văn
của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không chủ tập trung vào việc phản ánh hiện
thực xã hội đương thời hay những nỗi đau thân phận, mà tác giả dựa vào đó để làm
nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp tâm hồn nhân vật, bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của
những tình cảm cao quý như tình thân, tình yêu, thứ làm thay đổi con người và cuộc
sống của họ dẫu trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đời sáng tác của Kim Lân
ngắn, và ông không để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt,
một tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác của tác giả.
Truyện ngắn Vợ nhặt diễn ra trong bối cảnh khá đặc biệt - nạn đói cuối năm 1944 -
đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ Bắc Kỳ đến
Quảng Trị chịu chết đói, cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao viết trong Đôi mắt
rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng
mình”. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những từ ngữ quá nặng nề, gay gắt,
không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính để mô tả lại viễn cảnh khủng
khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được cái tiêu điều, thê thảm của một xóm
ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc, bằng những câu văn nhẹ
nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế
nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”,
“ngổn ngang khắp lều chợ”, không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người
chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”. Ớn lạnh, ám ảnh với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”,
cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”
như tiếng gọi của tử thần, còn con người thì đang bước dần từng bước chậm rãi đến
nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những con người ấy dường như đã nhìn thấy trước
cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình sống nổi”. Đó là một khung cảnh
đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong các dòng văn xen kẽ, ông
không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong một vài câu văn khiến người ta
có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn
ấy. Không ai lạ gì cảnh người chết đói, thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc
đầu người ta còn có sức để đi chôn, sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng
là không có cả chiếu để cuốn, thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn
Kim Lân không hề né tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm
không nằm ở chỗ phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện
thực tác giả đã tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình
người, của niềm tim toát lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người
đang bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như
những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và bà cụ Tứ.
Nhân vật Tràng là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong nạn đói
năm 44-45, lai lịch của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ cư”, và từ ba
chữ này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng là người mang số phận tha hương cầu thực,
không thể sống nổi ở quê hương mình nên đành phải tìm đến nơi khác kiếm kế sinh
nhai, điều đó đem đến cho anh nhiều nỗi khổ, sự kỳ thị, phân biệt đối xử của dân bản
địa, dẫn đến việc anh không được chia ruộng đất (vốn là tài sản lớn nhất của người
nông dân lúc bấy giờ), vô cùng nghèo khổ. Không chỉ vậy, dân ngụ cư cũng không
được sống trong không gian làng xóm, mà phải sống riêng biệt ở rìa làng hoặc ngoài
đê, đồng thời cũng không được tham gia bất cứ một sinh hoạt cộng đồng nào của làng
xã. Có thể nói là vô cùng đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa
con côi dựa dẫm vào nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn
định. Thêm nữa Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch
được tác giả ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng
chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa
lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời cười hầy hầy.
Chính vì ngoại hình xấu lạ ấy mà Tràng chỉ có sức hấp dẫn với những đứa trẻ trong
xóm, chứ không lọt được vào mắt xanh của bất cứ cô gái trẻ nào, điều đó dẫn tới việc
Tràng chẳng thể lấy nổi một cô vợ. Sau những nét về lai lịch, ngoại hình để bộc lộ tính
cách nhân vật Tràng Kim Lân đã đặt anh vào một sự kiện mang tính bước ngoặt, cũng
chính là tình huống truyện - Tràng “nhặt” được vợ. Đó là khi Tràng đang đẩy xe bò,
để cho đỡ mệt anh đã hò mấy câu cho vui miệng, chứ cũng không chủ đích chòng
ghẹo ai “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu
nói ấy, thì thị lại ra đẩy xe cùng Tràng thật, rồi còn cười tít mắt với anh, khiến anh vô
cùng khoái chí, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở đó. Trong lần gặp thứ hai, Tràng và
thị vẫn chưa có cái gì gọi là tình yêu mà nó chỉ là sự chia sẻ, cảm thông giữa những
người đồng cảnh ngộ, khi thị sưng sỉa, cong cớn vì miếng ăn thì Tràng sẵn sàng giúp
đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc và thị cũng chẳng ngại ngần gì mà ăn một lượt không
chuyện trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyện trò và một câu bông đùa nữa của Tràng
“Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà thị theo Tràng, trở thành
vợ của Tràng thật, không cần mối lái, lễ hỏi, chỉ với 4 bát bánh đúc và một câu đùa,
hai con người ấy đã trở thành vợ chồng với nhau. Đó là một tình huống rất bất ngờ,
bất ngờ với cả độc giả lẫn nhân vật Tràng, anh đã có vợ bằng một phương thức rất kỳ
quái, còn thị thì trở thành một người vợ “nhặt”. Từ sự kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vật
này có nhiều diễn biến tâm trạng khác nhau. Trong buổi chiều hôm trước, trước khi
dẫn vợ về nhà, Tràng vốn dĩ xưa nay là một người thô kệch, cục mịch thế mà lại trở
nên tinh tế, biết chăm sóc người khác lạ kỳ.
Thương vợ tàn tạ, rách nát quá, về nhà chồng mà chẳng có gì ngoài bộ đồ như tổ đỉa
và cái nón rách, Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua một cái thúng con đựng vài thứ đồ
lặt vặt để cho thị đỡ tủi thân, đồng thời dẫn thị di ăn một bữa no nê thay cho tiệc mừng
cưới. Không chỉ vậy Tràng còn mua thêm hai hào dầu (việc làm vốn được gọi là
hoang phí trong thời buổi nạn đói hoành hành), để về thắp sáng nhà cửa, đón thị về
làm dâu mới. Đó là một cách làm rất cảm động và đủ tinh tế của một người chồng biết
lo nghĩ, nhân hậu. Trên đường về Tràng tỏ ra rất sung sướng, phấn khởi cái niềm vui
nó trào ra hiện rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác
thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân
còn dùng một câu văn rất cảm động để diễn tả tâm trạng của anh lúc này “trong một
lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát
đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng trong thâm tâm
Tràng lúc này Tràng sự vui mừng, niềm hạnh phúc đã xóa mờ hết tất cả những gì khó
khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước, kể cả cái chết. Khi về đến
nhà, đứng trong một không gian hẹp hơn, bỗng Tràng cảm thấy ngượng, rồi thấy sờ sợ,
bởi lẽ sự quen biết giữa thị và Tràng chẳng đủ để hai người có thể đối đãi hẳn với
nhau như những người thân, chứ đừng nói là một cặp vợ chồng, họ chưa có tình yêu,
sợi dây duy nhất nối giữa họ chính là sự đồng cảm, thương xót của Tràng, và thị thì
cần miếng ăn. Cuối cùng là khi Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới, chờ đợi sự
đồng ý với mẹ, thì anh lại chuyển sang trạng thái nôn nóng, sốt ruột, đi đi lại lại, ra
sân ngóng trông mẹ về, rồi đón mẹ một cách rối rít, mừng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng
cũng bộc lộ rõ sự chững chạc, nghiêm túc, thể hiện sự trân trọng trìu mến với u già, và
cũng là sự trân trọng hạnh phúc bất ngờ này.
Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lòng Tràng có nhiều điều thay đổi,
hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người đàn ông
trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm ái, lửng lơ như
từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà mình đang nắm giữ,
nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa được dọn dẹp
sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc nhà, thì giờ được đem ra sân
hong khô, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường khô cong thì bây giờ đầy ắp nước,
đống rác mùn được dọn sạch,...), thứ hai nữa là không khí trong nhà bỗng trở nên ấm
áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc “cảnh tượng thật đơn
giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột
tràn ngập trong lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng đã nhận thức được trách nhiệm
của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động
“hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ chuyện
có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức đã dẫn tới kết quả là sự khao khát, ước muốn
đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm đến chuyện
ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên, Bắc Giang nhân dân nổi lên cướp kho thóc của
Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt Minh mà mình đã tránh né, rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ,
vẩn vơ khó hiểu, điều ấy chứng minh rằng nếu được cho quay lại thời gian khi ấy, có
lẽ Tràng đã không ngại ngần mà gia nhập Việt Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật,
và trong tương lai, nếu gặp lại cảnh ấy có lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép
lại với hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí
óc Tràng, đã mở ra những hy vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng
và cả những người dân trong nạn đói năm 44-45.
Nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Thị là người
có lai lịch không rõ ràng, không tên không tuổi, không quê quán họ hàng, thân phận
của thị chính là một số không tròn trịa, phản ánh số phận rẻ rúng như rơm như rác của
con người trước nạn đói năm 1944-1945. Thị không phải là người phụ nữ có ngoại
hình hấp dẫn, Kim Lân đã dùng những nét vẽ rất thảm hại để tái hiện lại dáng vẻ tàn tạ
của thị như “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.
Không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng của thị cũng chẳng lấy gì làm
hay ho, ngôn ngữ chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa chỉ vì một miếng ăn. Cử chỉ,
hành động vô duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bản
chất của thị hay không? Câu trả lời là không, bởi thực tế trong những biểu hiện khi về
làm vợ Tràng thị đã bộc lộ nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát vọng
sống mãnh liệt, như đã phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động của thị đều
có vẻ phản cảm và đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một chút sang khuynh
hướng nhân văn nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có những hành động, ngôn
ngữ như vậy tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có miếng ăn cứu đói, thị không
muốn chết, đồng thời cũng bộc lộ khao khát được hạnh phúc, thị cũng muốn có một
tấm chồng để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính
là vẻ đẹp nữ tính được bộc lộ sau khi về làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị
trở nên thẹn thùng, bẽn lẽn như bất kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy
nón che mặt, bởi ngại ngùng trước những ánh mắt săm soi của dân làng. Khi bước về
nhà chồng, nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nỗi thất vọng qua
tiếng thở dài, thế nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt trên chợ
tỉnh, thị lại im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ không hề
buông lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh vốn có của
người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên rất lễ phép,
thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau đêm tân hôn thì
thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem quần áo ra phơi,
gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết tâm làm một người vợ
hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong ứng xử thị cũng trở nên rất tế
nhị, thông minh, khi bà cụ mang nồi “chè khoán” ra với niềm vui mừng, thì bản thân
thị cũng rất trông mong vào món chè ngon ngọt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị
tối lại” - thị thất vọng, tuy nhiên thị cố giấu sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp,
không nhìn ai, cũng không nói câu gì để tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất không
khí vui vẻ của gia đình. Một vẻ đẹp nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi
sáng, chính thị đã đem đến cho cả gia đình một thông tin mới, mở ra một lối thoát cho
Tràng, bà cụ Tứ và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu.
Nhân vật thứ 3 của tác phẩm đó chính là nhân vật bà cụ Tứ. Đây là một người phụ nữ
nghèo khổ, cơ cực, cả đời long đong lận đận, mong ước lớn nhất với cuộc đời là lấy
vợ cho con mà mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc đau gạo kém, giữa lúc
nạn đói người chết như ngả rạ thì anh con trai lại “nhặt” được một người vợ theo
không, khiến bà vừa mừng vừa lo. Trước cảnh Tràng lấy vợ, trong buổi chiều hôm
trước bà vợ đầu tiên là hết sức ngạc nhiên và bối rối, trước lời chào của thị, bà cụ Tứ
chỉ im lặng vì thấy không thể tin nổi là con mình lại có được vợ mà không cần cưới
hỏi. Sau sự ngạc nhiên ấy chính là những cảm xúc lẫn lộn sau khi hiểu ra ngọn nguồn
cớ sự, khi nghe Tràng giải thích thì bà “cúi đầu nín lặng”. Bà thấy buồn, thấy tủi cho
mình và cho con trai, bởi lúc người ta cưới vợ cho con là lúc nhà ăn nên làm ra, có
tiền có của, làm được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì,
lại còn ngay giữa nạn đói sống nay chết mai. Không chỉ buồn mà bà còn lo lắng cho
tương lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói
khát này không. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì thấy rằng may mắn thị có gặp phải
bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng, chứ không thì Tràng có lẽ phải chịu ế cả
đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc đan xen, bà cụ Tứ cuối cùng cũng lấy lại tinh
thần, bộc lộ tình yêu thương con cái, tấm lòng nhân hậu thông qua cách hành xử với
người con dâu. Đó là câu nói “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u
cũng mừng lắm” để chính thức nhận thị làm dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có
những lời dặn dò, động viên hướng các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi
buồn nỗi lo trong lòng để truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn
của các con, bà thay đổi hẳn không còn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm
hy vọng tràn trề, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn
quét tước nhà cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói
toàn những chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,... Sau đó lại cố gắng nối dài
niềm vui cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi bằng “chè khoán”,
cố xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng lại càng trở nên rõ ràng
hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang miệng, nghẹn bứ trong cổ của cả ba người.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc phản
ánh hiện thực xã hội thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác giả đã bộc lộ
những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp, khát vọng sống còn
của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến những thứ tình cảm giữa con người
với con người như tình thân, tình yêu, tình đồng loại,... thứ không bao giờ bị dập tắt
bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ đã tiếp thêm cho con người sức mạnh để tiến về phía trước.
Phân tích bài Vợ nhặt - Mẫu 8
“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói, khổ
cực và khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Việt Nam
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm thông với
những số phận bất hạnh của những con người đói khổ trong thời chiến và yêu thương,
quý trọng đối với những ao ước giản dị của họ, từ đó tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.
Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tò mò và từ đó dẫn dắt người đọc
khám phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất. Chuyện dựng vợ
gả chồng vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người, chính vì thế việc này cần
được xem xét kĩ lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”. Cưới vợ mà lại gọi là nhặt vợ
được sao? Một con người được “nhặt” về rồi trở thành vợ gợi cho người ta liên tưởng
đến việc nhặt một món đồ, như thể một thứ gì đó được lượm lặt một cách vô tình và
ngẫu nhiên từ ngoài đường. Chỉ riêng nhan đề tác phẩm mà tác giả cũng đã để lại sự
ám ảnh đối với người đọc. Điều gì đã khiến cho con người ta trở nên rẻ rúm như vậy?
Kim Lân chính là đã mượn chuyện nhặt vợ để nói lên một vấn đề khác. Đó chính là
cái đói, cái nghèo của người nông dân trước Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo
đã khiến cho con người lâm vào tình cảnh đáng thương đến như vậy.
Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ không
phải cưới xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một món đồ vứt
chỏng chơ ngoài đường và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế thật. Anh cu
Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nữ theo về làm vợ. Khốn
nào anh ta có bánh bao, hấp dẫn gì: vừa xấu trai, vừa dở hơi, lại vừa là dân ngụ cư
nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại có vợ. Tràng cưới vợ, đúng hơn là nhặt được
vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình huống truyện thật đầy bất ngờ mà cười
ra nước mắt. Qua tình huống này, các nhân vật đều bộc lộ những tâm trạng, tính cách
nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật, về hoàn cảnh cũng như số phận của con người.
Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm lý đan xen, phức tạp của
từng nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì xào bàn
tán”, người thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi chao! Giời đất
này còn lôi cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?”.
Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất cho nên
càng khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con mình, bà cụ
cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình
bằng u? Ai thế nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng dễ hiểu bởi lẽ, nghèo
như con trai bà thì ai thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát thế này, nuôi thân còn chả
nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?
Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai dòng
nước mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà mừng vì
con trai bà dù sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp bước khó khăn
đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được..”.
Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh
“vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Lòng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu thì anh cu
Tràng lại vô tư bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh chặc lưỡi “mặc
kệ”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lầy làm thích ý
lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’. Việc có vợ đối với Tràng đột ngột và hạnh
phúc tới mức đến sáng hôm sau anh vẫn còn thấy “trong người êm ái lơ lửng như
người ở trong giấc mơ đi ra”.
Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người phụ
nữ làm vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng, là trao
gửi cả cuộc đời của mình cho một người đàn ông mà mình tin tưởng. Vậy mà ở đây
thị nào có biết Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng quơ và bốn bát bánh đúc là
“đủ tin tưởng” để theo về nhà người ta. Cái đói đã đẩy con người ta đến chỗ chẳng còn
biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng cỏ
mà người ta có thể lượm nhặt vu vơ nơi đầu đường xó chợ. Thế nhưng buổi sáng hôm
sau, khi Tràng nhìn thấy thì chị ta đã trở thành một người vợ hiền, một cô dâu thảo,
khác hẳn với cái vẻ chao chát hôm đầu tiên Tràng gặp.
Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thấy một bức tranh
hiện thực sống động trong nạn đói 1945. Ở đó, con người ta chỉ toàn là nghèo khổ, tối
tăm nhưng lại ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp. Hành động cưu mang người phụ nữ
nghèo đói hơn mình đã cho thấy Tràng là một người hào phóng và nhân hậu. Mẹ
Tràng cũng vừa mừng vừa tủi chấp nhận nàng dâu mới, không những thế bà còn góp
thêm câu chuyện bằng những niềm hy vọng về tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm
tối của đói nghèo đang vây bủa.
“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng về mái
ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ,
sáng lên niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo cho vợ
con sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn nên làm ra.
Bà cụ Tứ cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên”. Bà còn tính “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. […] ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia
đình giữa lúc nạn đói hoành hành, giữa nồi cháo cám đắng chát nhưng nó vẫn làm cho
thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu hơn. Từ đây, thị sẽ cùng chồng chăm lo, vun vén cho
gia đình những mong một ngày số phận sẽ mỉm cười rộng lượng hơn.
Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế nhưng
Kim Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc anh cu Tràng
nhặt được vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả. Vượt lên trên tất cả
những lo lắng, tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con người bừng sáng.
Với truyện ngắn này, Kim Lân đã bày tỏ sự yêu quý sâu sắc đối với những người
nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Tác phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết
chóc không thể giết chết được niềm tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói
nhất thì con người ta vẫn biết cách nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một
tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích bài Vợ nhặt - Mẫu 9
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học hiện thực Việt Nam.
Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người nông dân và vẻ đẹp của họ trong
những hoàn cảnh điển hình của đất nước. Chúng ta hẳn vẫn chưa quên hình ảnh của
ông Hai bước ra từ truyện ngắn Làng với lòng yêu nước sâu sắc và nghĩa tình với quê
hương tha thiết. Đến với Vợ Nhặt, ta lại không khỏi xúc động trước khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc của những người nông dân trong cảnh khốn cùng. Có thể nói
truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm thành công điển hình cho phong cách và tài năng
của Kim Lân. Truyện lấy bối cảnh của những năm 1944-1945, khi nước ta đang phải
đối mặt với nạn đói "hoành hành", cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" ấy cướp đi sinh mạng
của hàng vạn con người. Bằng bút pháp hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc tác
giả không chỉ khắc họa hiện thực tàn khốc của nạn đói mà còn làm sáng bừng lên vẻ
đẹp của tình người ngay trong hoàn cảnh thử thách nhất.
Truyện bắt đầu từ việc “nhặt vợ” đầy lạ lùng, éo le của anh cu Tràng. Theo lẽ thông
thường, để lấy được vợ người ta phải làm lễ cưới hỏi đàng hoàng, còn anh cu Tràng
thì khác, anh nhặt vợ chỉ với vài câu bông đùa cùng bốn bát bánh đúc ăn vội. Tình
huống càng éo le hơn, khi mà Tràng và mẹ đang trong hoạn nạn của đói khổ, vùng vẫy
giữa cảnh khốn cùng thì Tràng lại đèo bòng, nhà lại có thêm một miệng ăn, gánh nặng
lại thêm ghì lên vai. Tràng có vợ khiến người ở xóm Ngụ cư ai nấy đều kinh ngạc, ai
nấy đều tò mò, thích thú nhưng cũng không khỏi xót xa trước một tình cảnh éo le. Bởi
họ biết giờ này đến thân còn không lo nổi thì làm sao có thể lo thêm cho ai. Một tình
huống “nhặt vợ” tuy nhẹ nhàng nhưng là tiền đề để triển khai câu chuyện, thể hiện tư
tưởng nhân văn trong tác phẩm về tiếng nói của tình người, của lòng nhân ái. Giữa
cảnh khốn cùng, người ta vẫn sẵn sàng cưu mang nhau lúc khốn khó, trong đói rét
ngọn lửa của khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm và bùng cháy trong tâm thức mỗi con người.
Những nhân vật bước ra từ trang văn Vợ nhặt đều để lại trong lòng chúng ta những ấn
tượng và niềm thương cảm sâu sắc. Trước tiên, đó là Tràng, một người nông dân hiền
lành, chất phác mà giàu tình cảm. Tràng vốn sinh ra không được sự ưu ái của tạo hóa
khi mang trên mình một dáng hình xấu xí, tình tình lại cục mịch, chẳng được lanh lợi
như bao người: “ ...Hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm
bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính
những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than
thở những điều hắn nghĩ.”
Hơn thế nữa, Tràng con là dân ngụ cư, khốn cảnh không có đất đai mà cày cấy, đã
nghèo lại càng nghèo thêm. Người như Tràng thì khó có vợ, hắn biết, mẹ hắn cũng
biết và cả xóm ngụ cư đều biết. Tuy vậy, nhưng Tràng là người hiền lành, luôn vui vẻ
với bọn trẻ quanh xóm ngụ cư và còn rất chăm chỉ. Tràng ngày ngày vẫn làm thuê
kiếm sống, cùng người mẹ nghèo cố gắng từng ngày. Cũng như bao người con trai
khác, Tràng cũng mong có vợ, niềm hạnh phúc đến với hắn khi được thị theo về khi
chợt cất lên câu nói bông đùa trong một lần đẩy xe bò thuê thì gặp thị: "Này nói đùa
chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút ấy, Tràng bắt đầu
trưởng thành và thay đổi lên rất nhiều. Niềm hạnh phúc có vợ, niềm hạnh phúc khi
được sống trong một căn nhà nhỏ ấm êm có một người mẹ hiền, một cô vợ thảo đã
khiến Tràng thay đổi, Tràng thấy mình như "nên người” hơn: “Bây giờ hắn mới thấy
hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm
xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
Sự xuất hiện của thị là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, khiến Tràng thay
đổi tích cực về cả nhận thức và hành động. Có thể nói niềm hạnh phúc có vợ ấy đã
xua tan những nỗi lo chuyện cơm áo nơi Tràng, khiến Tràng trân trọng và thêm niềm
tin vào cuộc sống. Sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã cứu vớt tâm hồn Tràng,
dẫu đó chỉ là thứ hạnh phúc "nhặt vội" mà thôi. Qua nhân vật Tràng, tác giả đã bày tỏ
niềm cảm thương sâu sắc trước số phận của những con người bất hạnh trong xã hội, là
niềm tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam xưa.
Thị cũng là một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm. Người phụ nữ không tên, khổng
tuổi, với dáng hình gầy đét đi vì đói. Cái đói đã đày đọa con người cả dáng hình, thậm
chí thị phải vứt bỏ cả lòng tự trọng của một người con gái để theo Tràng về. Ở thị, ta
thấy được điều đáng trân trọng là niềm khát khao sống mãnh liệt, vì đói quá rồi, khổ
quá rồi, thị biết cái đói có thể chực chờ để giết chết mình bất cứ khi nào, nên theo
Tràng về cũng là để có miếng ăn, có một nơi để cứu lấy mình, để mình nương tựa. Thị
theo Tràng chính là lựa chọn cuối để giành lại sống cho chính mình, nuôi hi vọng vào
một điều gì đó dự phần vào thay đổi tình cảnh đói rét của bản thân lúc ấy.
Sau khi theo Tràng về, sự chua chát, chỏng lỏn của thị cũng không còn mà thay vào
đó là sự e ấp, ngại ngùng của một người con gái. Nét dịu dàng, nữ tính của Thị bắt đầu
được bộc lộ, đó là sự lo lắng, ngập ngừng khi ra mắt mẹ Tràng và sự chu đáo, đảm
đang khi cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại căn nhà, khu vườn nho vào sáng hôm sau. Có thể
thấy, sâu thẳm bên trong thị cũng là một người con gái trách nhiệm, biết sống vì gia
đình, bên trong vẻ ngoài bất cần ấy là một con người khát khao hạnh phúc.
Và đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền còm cõi ở tuổi
xế chiều vẫn một lòng lắng lo cho con- bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ
trách nhiệm, lo làm ăn để nuôi nấng con nên người, biết con mình chẳng được lanh lẹn,
bà cũng dặn lòng, lo lắng cho tương lai của con. Cũng như bao người mẹ khác, cụ Tứ
cũng mong con mình được hạnh phúc êm ấm khi đến tuổi lập gia đình.
Khi Tràng dắt thị về, bà cụ Tứ thấy thì vô cùng ngạc nhiên đan xen với nỗi tủi hờn, tự
trách. Bà ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người con dâu mới, chua xót bởi bà hiểu
trong cảnh khốn cùng, đói khổ quá người ta mới chịu theo con mình về nhà. Lắng lo
bởi lẽ với một người từng trải như bà cụ Tứ, chắc chắn hiểu được những khó khăn
trong tương lai mà cả Tràng và thị phải vượt qua. Lời dặn dò con đầy ấm áp của bà
thật xúc động: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn.
Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?
Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Là một người mẹ, bà cũng mừng cho hạnh
phúc của con, dù lo lắng nhưng trong người mẹ ấy vẫn tin vào ngày mai, vào một thứ
ánh sáng tốt đẹp nơi bần cùng tăm tối. Bà cụ Tứ hẳn là một người mẹ trách nhiệm,
mẫu mực, giàu lòng bao dung và đức hi sinh mà ai đã từng đọc Vợ nhặt cũng không thể nào quên được.
Bằng việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc cùng hệ thống các nhân vật điển hình
trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm sâu sắc cùng ngôn
từ giản dị mà giàu sức biểu đạt, Kim Lân đã dựng nên một tác phẩm giàu giá trị nhân
văn. Đó là tiếng nói thiết tha, thương cảm và trân trọng những người nông dân nghèo
trong xã hội giữa nạn đói năm những năm 1945 đầy đau xót. Đó là tiếng nói căm phẫn
trước tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn thực dân xâm lược. Là sự trân
trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người trong gian khổ.
Đồng thời, mở ra một con đường để nhân dân vượt qua tăm tối, vươn tới những điều
tốt đẹp hẹp, đó là con đường đấu tranh cách mạng.
Kim Lân bằng tài năng trong ngòi bút của mình đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về
nạn đói và những thảm cảnh trong những năm tháng đói khổ. Qua đó, bộc lộ chiều sâu
tư tưởng của tác phẩm hiện thực vì con người, gắn bó với đời sống con người.
Phân tích bài Vợ nhặt - Mẫu 10
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam có bí quyết viết chân chất, mộc mạc và
các hình ảnh nhân vật tiêu biểu cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người
đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ
nhặt” là 1 “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái tạo thành công xã hội nghèo
khổ, khốn cùng, bế tắc của người nông dân. Bằng văn pháp tả thực Kim Lân đã xây
dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cộng giai đoạn đấy.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong quá trình quốc gia
đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống dân chúng bần cùng, kẻ sống người chết
nhảm nhảm, ”người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi
làm ruộng không gặp ba bốn mẫu thây nằm còng queo bên tuyến phố. Không khí vẩn
lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Quang cảnh xóm ngụ cư ấy
đã diễn đạt được chiếc đói đang hoành hành, đời sống quần chúng thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của
những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện
thắt nút khiến cho nên cuộc thế của từng nhân vật.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa mủm mỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ sở hữu vài
chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được diện mạo xấu xí của một anh nông
dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám con trẻ không buồn trêu
tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Quang cảnh buồn thiu, đầy sợ hãi bao phủ
lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, nghĩ suy của Tràng được tái tạo “hắn
bước đi từng bước mỏi mệt, chiếc áo nâu tàng vắt sang 1 bên cánh tay. Tuồng như các
lo lắng, cực nhọc đè nặng lên dòng lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết điển hình, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người dân
cày nghèo đói, tả tơi, bộn bề lo lâu đến cơ cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên
tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi thế cục của một con người. Tình
huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ chẳng hề lấy được. Người đọc trông
thấy sự thê thảm, bước trục đường cộng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ.
Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy
khiếp sợ “ thị cắp loại thúng con, đầu hơi cúi xuống, chiếc nón rách tàng nghiêng
nghiêng che mệnh chung đi nửa mặt. Thị với vẻ rén,e thẹn”. Một người đàn bà nghèo
khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã vun đắp nên khung cảnh quạnh hiu,
ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió trong khoảng cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối mịt, không nhà nào mang ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc
gạo xù xì bóng các người đói dật dờ di chuyển lặng thầm như những bóng ma. Tiếng
quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì
thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ tuồng
như bị mau đói, cái nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả chân sinh động,
Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc đa dạng đau xót, đắng cay cho các phận nghèo lận đận.
Điều đáng chú ý chính là cách thức các người láng giềng hỏi thăm Tràng về người đàn
bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có nhẽ là
vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người nữ giới bắt không còn ngoa ngoắt,
đanh đá nữa mà phát triển thành thẹn hậu sự lúc quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất thần, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái đói nghèo đã đẩy hai
con người đến có nhau, chẳng hề ái tình nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ thông
cảm và xót thương cho các mảnh đời dật dờ nơi xóm cư ngụ.
Lúc trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tình thật tài giỏi và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng 1
người mẹ bao dung và nhân từ. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà,
đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người nữ giới ở trong…” Sự băn khoăn lo âu
của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín
im, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ đấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là
trong khi khiến ăn nên nổi, còn mình…” các suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim
Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái làm cho loại khổ, cái đói lại vồ vập và hiển
hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Cảnh huống làm người đọc nhớ mãi,
hình ảnh khiến người đọc khi nhắc tới tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi
cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện
thân của mẫu nghèo đói đến cơ cực trong một gia đình “không còn gì trị giá nữa”. Bà
cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn kể các chuyện vui trong nhà, vì bà muốn
mang lại không khí vui tươi hơn giữa mẫu nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên
bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Người nào cũng muốn sở hữu
một bữa cơm đón dâu với mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh
nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà sở hữu thể đem đến cho con.
Đây là một chi tiết hết sức đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân làm cho
người đọc nhớ mãi. Ngoài ra hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện
ngắn đã đem đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng ngòi
bút mô tả trung thực, sinh động, cách thức khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo, độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói
nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua ấy tác giả cũng nhấn mạnh
tình yêu thương giữa người có người luôn bạt mạng.
Dàn ý phân tích Vợ nhặt - Mẫu 1 I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp.
Ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt”
rút từ tập “Con chó xấu xí”, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả
tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt
đẹp và sức sống kì diệu của họ. II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
- Trước hết, từ “vợ” là một danh từ thiêng liêng, dùng để chỉ người phụ nữ trong mối
quan hệ được pháp luật công nhận với “chồng”. Theo phong tục, vợ chồng chỉ được
công nhận khi có sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm. Còn “nhặt” là hành động cầm vật bị đánh rơi lên.
- Kim Lân đã sáng tạo ra một nhan đề độc đáo. Vì người ta chỉ nói “nhặt” được một
món đồ nào đó. chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Nhưng
qua đó, nhà văn đã thể hiện được cảnh ngộ thê thảm của con người lúc bấy giờ.
- Nhan đề “Vợ nhặt” trước hết khái quát được tình huống của truyện. Đồng thời đó
cũng lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã đẩy người nông dân
vào tình cảnh nghèo đói, người “chết như ngả rạ”.
- Nhan đề “Vợ nhặt” có tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là một trong số
đó. Đồng thời, qua nhan đề nhà văn cũng thể hiện sự đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ
của người nông dân trong nạn đói năm 1945.
2. Tình huống truyện
- Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Tình huống độc đáo, bất ngờ: với Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ
nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những
người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: Hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho
phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau. 3. Nhân vật Tràng a. Hoàn cảnh gia đình
- Xuất thân: Dân xóm ngụ cư, cha mất sớm, sống với mẹ già trong một căn nhà ở tồi
tàn, cuộc sống bấp bênh…
- Ngoại hình: “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập
vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về...
b. Hành động và tâm trạng
* Khi gặp gỡ người vợ nhặt
- Lần gặp 1: Lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình
ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình. - Lần gặp 2:
● Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả
gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
● Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của
kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh
phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
● Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của
Tràng trước quyết định lấy vợ. * Trên đường về
- Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh
vênh tự đắc”... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. c. Khi về đến nhà
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của
đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia
cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để
thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu
hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: Thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải
duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
* Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo...).
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp
phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
=> Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự
biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con
người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói. b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự
hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai: Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị
hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh
đúc”. Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật
bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người.
Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy. c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
● Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
● Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”,
thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
● Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại
ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
● Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong gia đình.
● Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
● Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
● Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn
cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng
hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự
xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ
nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ
cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với
niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le,
độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người
nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý phân tích bài Vợ nhặt - Mẫu 2 I. Mở bài
Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt: Kim Lân là nhà văn vô cùng thành công khi
viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông chính
là truyện ngắn Vợ nhặt. II. Thân bài
1. Nhân vật anh Tràng a. Lai lịch, ngoại hình
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già.
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
- Ngoại hình xấu xí, thô kệch: “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên
quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp
nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như
lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. b. Tính cách
- Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình.
Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
- Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: Ban đầu không chủ tâm tìm vợ.
Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ
chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ
lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.
- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngoãn
với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết
việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã
hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn
dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. => Tiểu kết:
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời sống
tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo.
- Qua nhân vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm
1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
2. Nhân vật người vợ nhặt
a. Hoàn cảnh, ngoại hình
- Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.
- Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc
xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy sọp”,
“trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô
lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. b. Tính cách
- Trong lần gặp gỡ: Cong cớn, chỏng lọn, chua ngoa… Khi nghe thấy anh Tràng đãi
ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Cúi
đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa
quệt ngang miệng, thở “hà”.
=> Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc.
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
● Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng
che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
● Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người
làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi về đến nhà Tràng:
● Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép
nép, ngại ngùng. Thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác
hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
● Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo
vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân
hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm...
● Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng”. Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
● Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá
kho thóc của Nhật. Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người
đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
- Sự ngạc nhiên của cụ khi Tràng dắt vợ về:
● Về đến nhà, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
● Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”…
“Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”...
● Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
- Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ:
● Khi biết rằng con bà “nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn hơn.
● Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo túng quẫn: Bà không
biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con
không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
- Nỗi lo của bà cụ Tứ: Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không
biết phải qua những ngày khó khăn này như thế nào. Người mẹ ấy khuyên con,
khuyên dâu cùng nhau thương nhau, cố gắng vươn lên.
- Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ:
● Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
● Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
● Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
● Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
=> Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn
cảnh khó khăn. Bà cụ Tứ là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản
dị, giàu tình yêu thương và đức hi sinh III. Kết bài
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với những
giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn quan trọng trong lòng bạn đọc.
Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 3 I. Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt: Kim Lân là một nhà văn chuyên
viết truyện ngắn. Một trong những truyện ngắn tiêu biểu của ông là Vợ nhặt. Truyện
đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. II. Thân bài
1. Nhân vật người vợ nhặt a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “thị”.
=> Thị cũng chỉ là một trong vô số những người đàn bà trong cảnh đói khổ. b. Chân dung
- Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp.
- Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
=> Sự nghèo khổ đeo bám lấy cuộc sống của thị. c. Hành động
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự
hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo. - Lần thứ hai:
● Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi
được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
● Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị không nghĩ ngợi
gì mà quyết định theo chàng về nhà, mặc kệ ánh nhìn và những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư.
=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người.
Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy. d. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
● Dù không biết gì về Tràng, cũng như không có tình yêu nhưng vẫn chấp nhận
theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
● Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”,
thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
● Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại
ngùng cho thân phận của mình.
● Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập
được vị trí trong gia đình.
● Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
● Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
● Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
=> Cái đói không thể cướp đi những phẩm chất tốt đẹp của con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng. 2. Nhân vật Tràng
a. Giới thiệu đôi nét về Tràng
- Người dân xóm ngụ cư: cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn.
- Nghề nghiệp: kéo xe bò thuê
- Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân
hình to lớn vập vạp, lại thô lỗ…
b. Hành động và tâm trạng
* Cuộc gặp gỡ với Thị:
- Lần gặp 1: Câu hỏi Tràng chỉ là lời hát vu vơ, không chủ tâm trêu ghẹo tình với cô gái nào. - Lần gặp 2:
● Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn một chặp bát
bánh đúc dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
● Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đó không phải là quyết định
bồng bột mà là thái độ thản nhiên, chấp nhận hoàn cảnh cũng như sâu thẳm
trong đó là khát khao hạnh phúc, thương yêu của Tràng.
● Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của
Tràng trước quyết định lấy vợ. - Trên đường về
● Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy
vênh vênh tự đắc”... Tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
● Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. Khát vọng về
một tương lai tươi sáng. - Khi về đến nhà:
● Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay
của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
● Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi
vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
● Sốt ruột mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ
đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
● Khi mẹ về: liền thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng
Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
- Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
● Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…).
● Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
● Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay
phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
=> Người vợ đã khiến Tràng thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
- Đôi nét về bà cụ Tứ: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng
hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
=> Một người phụ nữ tần tảo, khổ cực. - Diễn biến tâm trạng:
● Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước
sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
● Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải
lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà
khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
● Cách đối xử với con dâu: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với
niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn...
=> Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu. III. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Với tình huống truyện độc
đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, đối thoại sinh động, Truyện
ngắn Vợ nhặt đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức
sống kỳ diệu của họ.
Lập dàn ý phân tích Vợ nhặt - Mẫu 4 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân (1920- 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông có những trang viết
đặc sắc và độc đáo về phong tục và đời sống làng quê với những am hiểu sâu sắc về
cảnh ngộ và tâm lí của người nông dân, nổi bật trong tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm
hồn người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ nhưng vẫn lạc quan yêu đời.
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí”
viết về người nông dân trong tình trạng thê thảm của nạn đói năm 1945 với bản chất
tốt đẹp, lương thiện. 2. Thân bài
- Nhan đề: “Vợ nhặt”
+ Độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm
1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng. - Tình huống truyện:
● Khái niệm tình huống truyện: Tình huống truyện là tình thế, thể hiện tính cách
nhân vật, số phận nhân vật, qua đó, thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
● Tình huống truyện trong “Vợ nhặt”: Bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi
là hiểm họa tràn đến, phản ánh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Trong không
gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã tạo nên cảnh vừa bi vừa
hài, chỉ mấy câu bông đùa mà lấy được vợ thật.
● Ý nghĩa tình huống truyện: Tình huống truyện cho thấy tính nhân bản và tình
cảm nhân đạo, hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân
phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng. - Phân tích nhân vật: a. Nhân vật Tràng:
- Tràng là người nông dân có cuộc sống nghèo khổ: + Tên gọi, ngoại hình:
● Tên gọi: Gợi sự lam lũ, vất vả, tên của một dụng cụ lao động.
● Ngoại hình: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh
ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng thô kệch”. + Tính cách:
~ “Hay ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, “đối tượng bông
đùa của những đứa trẻ ngụ cư”, “tính tình ngờ nghệch”. + Hoàn cảnh sống:
● Nơi ở: “Cái nhà vắng teo, nhiều búi cỏ dại trong nhà”
● Là người dân xóm ngụ cư, gia cảnh thuộc hạng cùng đinh.
- Vẻ đẹp tâm hồn Tràng
● Nhân hậu, có tính thương người:
● Khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi.
● Thay đổi theo hướng tích cực sau khi lấy vợ.
● Có niềm tin vào tương lai tươi sáng.
-> Tràng là người nông dân nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, khao khát mái ấm
gia đình và có niềm tin vào tương lai tươi sáng.
b. Nhân vật người “vợ nhặt”:
- Tên gọi, lai lịch, gốc gác của người “vợ nhặt”:
● + Tên gọi: Nhân vật này không có tên, được gọi là “thị”, “người đàn bà”,
“người con dâu”, đây là cách gọi khiến cho tính khái quát càng rộng, trong
hoàn cảnh bấy giờ có muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế.
● + Lai lịch, gốc gác: Không được giới thiệu cụ thể, không ai biết gốc tích của
chị, “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì gọi đến thì làm”.
● + Người “vợ nhặt” không quê hương, không quá khứ, một thân phận lênh
đênh,trôi dạt trong thảm họa đói khát.
- Ngoại hình: Miêu tả rất tỉ mỉ:
● “Cái nón rách tầng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”.
● Tác giả quay lại lần thứ hai gặp Tràng: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi
như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
-> Người phụ nữ đã phải chịu đói nhiều ngày, sự đói khát đã làm chị mất đi những nét nữ tính. - Cử chỉ, hành động:
+ Cử chỉ: “điệu bộ chao chát, chỏng lỏn mất hết vẻ dịu dàng, nữ tính”. + Hành động:
● Lần đầu nghe câu hò của Tràng: “Ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”, “Thị liếc mắt, cười tít”.
● Lần khác gặp lại Tràng: sưng sỉa, trách móc “điêu, người thế mà điêu”.
● Khi được Tràng mời ăn: “Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sang lên”, “Thị
ngồi sà xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng thở”.
● Cái đói thử thách nhân cách của người phụ nữ thật ghê gớm, nạn đói như một cơn lũ khủng khiếp.
- Diễn biến tâm lí người “vợ nhặt” sau khi theo Tràng về nhà.
● Người “vợ nhặt” mang vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng, đúng mực.
● Niềm lạc quan: Đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người.
-> Người “vợ nhặt” đã góp phần thể hiện được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
c. Nhân vật bà cụ Tứ:
- Bà cụ Tứ là người phụ nữ nghèo khổ: ● Dáng vẻ gầy gò.
● Có cảnh ngộ đáng thương.
- Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ khi Tràng nhặt được vợ:
● Sự ngạc nhiên khi có người theo không Tràng về làm vợ.
● Niềm vui mừng khi con trai lấy được vợ.
● Tâm trạng tủi hổ và lo lắng về tương lai.
● Chi tiết “bát cháo cám”.
● Niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
-> Bà cụ Tứ là điển hình về người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, thương con, hiểu
biết, nhân hậu và bao dung.
d. Đặc sắc nghệ thuật: - Nhan đề độc đáo.
- Tình huống truyện đặc sắc, éo le.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.
- Nghệ thuật trần thuật.
e. Giá trị tác phẩm: - Giá trị nhân đạo:
● Dựng lại bức tranh hiện thực đương thời.
● Trân trọng, cảm thông trước số phận bi thảm của nhân vật.
● Phát hiện và khẳng định vẻ đẹp con người.
● Khám phá và chỉ ra con đường cách mạng cho người nông dân. - Giá trị hiện thực:
● Tái hiện được một thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
● Phản ánh chân thực số phận cũng quẫn của con người trong nạn đói.
● Phản ánh hiện thực cơ bản đó là lòng người dân hướng tới cách mạng. f. Đánh giá:
- Khẳng định tài năng sáng tác của tác giả, qua đó cho thấy sự đồng cảm của nhà văn
đối với số phận đáng thương của nhân vật.
- Để lại cho chúng ta bài học về sự yêu thương, đùm bọc.
- Ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” của dân tộc ta. 3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ: Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt
trong lòng người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bối cảnh nạn đói năm 1945 qua
các nhân vật Tràng, người “vợ nhặt”, bà cụ Tứ với một niềm tin yêu, luôn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.