Văn mẫu lớp 11: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt | Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ
Dàn ý chi tiết số 1 I. Mở bài
- Vợ nhặt là một tác phẩm nổi tiếng của Kim Lân
- Cụ tứ là một trong những nhân vật của tác giả
- Một hiện thân của người dân nghèo thời kì khó khăn
- Là nhân vật trọng tâm của cả bài
- Tâm trạng diễn biến phức tạp II. Thân bài
1. Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về
- Con trai lấy vợ trong lúc bấy giờ rất khó khăn, với người như anh không dễ gì có vợ, nên cụ ngạc nhiên
- Bà cụ ngạc nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn
- Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u
- Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”. Nhà tôi
nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”
- Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
2. Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
- Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ, bà nghĩ đến chồng, đến con gái trở nên buồn hơn
- Vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con
- Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn
- Bà không biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ
- Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
- Bà cụ xót thương cho con dâu, buồn tủi cho nhà mình
3. Nỗi lo của bà cụ Tứ
- Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những
ngày khó khăn như thế nào
- Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương nhau, vượt qua khó khăn
- Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình
4. Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
- Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
- Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa
- Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu
- Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con đâu đỡ tủi III. Kết bài
● Nghệ thuật đặc sắc trong diễn biến tâm trạng nhân vật
● Tác phẩm có nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động
Xem thêm: Dàn ý phân tích bà cụ Tứ
Dàn ý chi tiết số 2 I. Mở bài
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân
ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút
nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn
giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ
Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội
dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã
diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó II. Thân bài
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà
cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi
thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về
muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên
hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó
chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không
còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng
bà lão thấy mắt mình nhòe thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa
nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
2. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên
tưởng đến bao cơ sự “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên
tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho
con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm
vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để
cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc
vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu
tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói
được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng. 3. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà
giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái
“hạnh phúc” éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó
khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà
chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng
vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có
tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin. 4. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm
vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống.
Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu
ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui,
toàn chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn.
“Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món
cháo loãng và món “chè khoái” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng
bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo
không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà tươi cười
đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm
tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ
đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói
to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn nung
nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng
trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái
oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc. III. Kết bài
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân
đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm
đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống
cùng nhân vật của mình.
Dàn ý chi tiết số 3 1. Mở bài
- Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Kim Lân (đặc điểm về con người, cuộc đời,
sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật,...)
- Giới thiệu những nét khái quát về truyện ngắn “Vợ nhặt” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
của tác phẩm, những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”. 2. Thân bài
a. Giới thiệu những nét khái quát về nhân vật bà cụ Tứ
- Tuy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm như nhân vật Tràng song nhân vật bà cụ
Tứ vẫn để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
- Ngoại hình của nhân vật bà cụ Tứ hiện lên thật nghèo khổ, lam lũ, cơ cực: “dáng
người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán”.
b. Diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ
- Khi trở về nhà, nhìn thấy Tràng cùng người vợ nhặt ở nhà, trong lòng bà cụ Tứ hiện
lên một nỗi ngạc nhiên đến khôn cùng, hàng loạt câu hỏi hiện lên trong bà.
→ Bà cụ Tứ không hiểu, không biết người đàn bà kia là ai không phải vì bà không
hiểu mà bởi bà lão ngạc nhiên, không ngờ và không dám tin rằng con trai mình lại có
vợ trong những ngày nạn đói diễn ra khủng khiếp.
- Bà lão hiểu và bà hiểu ra bao nhiêu điều khác nữa:
+ Bà đã tin rằng Tràng đã có vợ
+ Ai oán, xót thương cho con, cho thị và cho cả chính bà.
+ Bà lão khóc, bà khóc vì thương con, vì lo cho con và vì bà chưa làm tròn trách
nhiệm của một người mẹ nhưng có lẽ đó còn là những giọt nước mắt của niềm vui,
niềm hạnh phúc khi con trai bà có vợ.
+ Bà mở lòng đón nhận nàng dâu mới
→ Bà cụ Tứ không chỉ là một người giàu lòng yêu thương con mà còn rất giàu tình yêu thương con người. - Sáng hôm sau:
+ Gương mặt rạng rỡ hẳn lên, nó “nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường”.
→ Gương mặt ấy của bà đã toát lên bao niềm vui mừng, phấn khởi và hạnh phúc.
+ Trong bữa cơm sớm hôm ấy, dù thật thiếu thốn nhưng bà nói toàn “chuyện vui,
chuyện sung sướng” về sau.
→ Những câu chuyện ấy cùng với niềm vui, niềm tin đang len lỏi trong tâm trí bà như
đã thắp sáng lên trong lòng Tràng và người vợ nhặt niềm lạc quan, yêu đời 3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” và nêu
cảm nghĩ của bản thân.
Dàn ý chi tiết số 4 I. Mở bài
- Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là
những người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
- Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về
nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
- Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam. II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật
● Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
● Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm
nhẩm tính toán theo thói quen người già.
2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.
- Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn
bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”
- Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoè đi”:
● Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy
được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
làm nồi ... còn con mình thì ...”.
● Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được
chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
● Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà,
thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được ... ”
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên ... u cũng mừng lòng”,
“cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dân lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống
qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó
liệu có hơn bố mẹ trước kia không”
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
● Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”,
● Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
● Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại
chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm
hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp
của người mẹ nghèo Việt Nam. III. Kết bài
- Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ Tứ.
- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí
nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người
nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Dàn ý chi tiết số 5 I. Mở bài
Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu và thành công của Kim Lân khi viết về đề tài người
nông dân trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Một nhân vật tiêu biểu trong tác
phẩm chính là nhân vật bà cụ Tứ II. Thân bài
– Lúc đầu băn khoăn, lo lắng
– Lúc sau hiểu ra mọi chuyện thì xót xa, oán trách cái xã hội lúc bấy giờ
– Lo lắng cho tương lai của các con ● Cái nghèo bao quanh
● Lo không biết các con nuôi nhau kiểu gì – Tươi tỉnh hẳn lên
– Hành động quét dọn nhà của, nấu cơm
– Hình ảnh bát cháo cám trong bữa cơm mang tính nhân văn sâu sắc
=> Tâm trạng bà cụ Tứ lẫn lộn, khi vui mừng khi lo lắng, phù hợp với tâm lí của một
bà mẹ khi thấy con trai có vợ III. Kết bài
– Bà cụ Tứ mang nét đẹp của người phụ nữ xưa, một người mẹ yêu thương và lo lắng cho con
– Nhân vật bà cụ Tứ như đem lại một sự kết nối tình yêu thương giữa con trai và con dâu của mình
Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 1
Pautopxki - một nhà văn người Nga từng nhận xét rằng “An-đéc-xen đã lượm lặt
những hạt trơ trên luống đất của những người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi
gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những đóa hoa thơ đẹp, chúng an ủi
trái tim của những người cùng khổ”. Ở Việt Nam tôi đã bắt gặp một An-đéc-xen như
thế mang tên Kim Lân. Một người một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với
“thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Và trên những trang văn cay xè
khói bếp hương ruộng đồng ấy là những bông hoa đang đua nhau bừng nở. Bà cụ Tứ
với những diễn biến tâm trạng phức tạp càng chứng tỏ bà là một bông hoa chan chứa
tình yêu, lòng bao dung và cả sự đồng cảm bung tỏa hương thơm khắp cả tác phẩm.
Và cũng từ bông hoa ấy, Kim Lân đã gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Kim Lân một trong những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện
đại. Một cây bút thâm canh trên mảnh đất về nông thôn và người nông dân lam lũ, hồn
hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Truyện ngắn “Vợ nhặt” chính là trái ngọt sau
vụ thâm canh trên mảnh đất ấy. Và cũng là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân
được in trong tập “Con chó xấu xí”. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản
thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông đã dựa vào một phần truyện cũ để viết
truyện ngắn này. Do đó tác phẩm không chỉ là kết quả của một quá trình suy ngẫm,
gọt giũa về cả nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng sự lạc quan của thời đại mới.
Kim Lân đã xây dựng thành công nạn đói kinh hoàng năm 1945 khi mà “Trên thân
mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã bốc mùi tử khí”. Cái đói, cái nghèo là
vậy nhưng không át được vẻ đẹp của con người, tình người. Trên nền của cái đói ấy,
bà cụ Tứ - một người mẹ nông dân chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống hiện
như một ngọn lửa ấm áp - tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao
dung. Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện qua ngòi bút miêu tả chân thực của Kim Lân
với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng lực kiệt. Nếu như vợ chồng nhà
Tràng xuất hiện mang theo nét khôi hài thì bà cụ Tứ lại được Kim Lân “tung ra” với
dáng vẻ của một người mẹ nghèo khổ, ốm yếu. Trong cái u ám của ngày đói, cái
chạng vạng của chiều hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của
bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa, chồng và con gái
đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ. Với những nét khắc họa đầu
tiên đã cho ta thấy dáng dấp của một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõm, luôn trĩu
nặng những lo toan về cuộc sống.
Trong cái cảnh đói khát của một người đã sắp sửa “gần đất xa trời” dường như đã mất
hết sức sống, chỉ đợi ngày về bên kia với chồng và con gái. Nhưng kì diệu thay, từ khi
người con dâu mới xuất hiện đã làm thay đổi mọi thứ trong bà, dường như lại có hi
vọng để sống, sống quãng cuối cuộc đời hạnh phúc hơn.
Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một người phụ nữ lạ mặt xuất
hiện trong nhà mình. Chính sự xuất hiện của người đàn bà ấy làm cho người mẹ ấy
ngổn ngang bao tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo. Trước hết là
tâm lý ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, bà băn khoăn quái lạ
sao hôm nay thằng con lại ra tận ngõ đón mình, ngạc nhiên vì người đàn bà lạ ở trong
nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”.
“Phấp phỏng” có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón đợi
mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “chợn” thì anh ta đi
thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau
giây phút ngạc nhiên của bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong.
Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì
đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt
những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng
trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình
thế kia? Sao lại chào mình bằng U?
Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là
sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng
thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời này, bà là
người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì
không người mẹ nào lại không nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở
đây ta thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc
nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt
cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng
không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không
giận dữ lại càng không vui mừng mà lòng bà càng trở nên trăm mối tơ vò. Bà vừa hờn
tủi, xót xa cho mình lại vừa thương con thắt lòng.
Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng bà chợt trào lên biết bao
nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa mừng, vừa lo. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi
đầu” mang đến cho người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó
vừa uất nghẹn, vừa xót xa, vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa,
tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ, buồn
vì đến một đám cưới nhỏ cũng không lo được cho thằng con trai của mình. Bởi cuộc
đời của một người mẹ không chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm
gây dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao
ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của
bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà
ở đó sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Ở đây, Kim Lân đã để nhân vật
của mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó
là dòng nước mắt của tủi hờn, cơ cực của cuộc đời và cũng là những giọt nước mắt đã
cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều. Từ “rỉ” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó
khăn. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi
phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiến bà không thể khóc. Hình ảnh
“giọt nước mắt” trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng
bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của
cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy.
Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương. Bà xót thương cho
người phụ nữ đã theo không con trai mình về nhà “Người ta có gặp bước khó khăn đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà thừa hiểu
có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì
cũng phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có
nghĩa là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao
dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân
vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất
nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ “mang tội theo
trai” (Kim Lân). Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự an ủi và trấn an mình nhưng biết bao
âu lo trong lòng người mẹ già vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt
đầu từ tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không?”
Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy:
“Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Ca dao Việt Nam có câu:
“Trồng cây những muốn cây xanh
Nuôi con nhưng muốn con thành thất gia”
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Phải chăng ám
ảnh về nạn đói đã lấn át đi niềm vui của mẹ? Làm sao một người làm mẹ có thể vui
được khi hạnh phúc, tương lai các con đang bị cái đói bủa vây. Đó cũng là câu nói
chân thành chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia
đình đã thiêng liêng lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của
tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành cho người con dâu.
Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình
nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương
quá…nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Tiếng khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà
còn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lòng mình, để tìm được sự thông cảm từ các con.
Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng
giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương con trai,
thương bản thân mình mà còn thương người đàn bà xa lạ. Lời nói giản dị, chân chất
của một người mẹ hiền cũng là minh chứng cho sự bằng lòng của bà dành cho hôn sự
của con. Bà nhìn cô con dâu, bằng tất cả sự xót thương chứ không hề coi thường. Tấm
lòng nhân ái bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao!
Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao
không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già,
có chết cũng chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài
nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc
đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của
bà, bà nghĩ liệu cuộc đời con bà có khấm khá hơn cha mẹ nó hay không. Bằng tấm
lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không cho phép nhân vật của mình tuyệt
vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho
đôi vợ chồng son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục ngữ Việt
Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã nung
nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến
cái chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái
sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã
để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba
đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải của một người mẹ đã
kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên
tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí
nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.
Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Sáng
hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của con làm bà vui hơn, hi vọng hơn. Bà dậy
sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn
“làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó
“Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của
bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa ăn ngày đói được
Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt
rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà
đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của
ngon vật lạ mà chỉ có những gì thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối,
muối, cháo… Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi
cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà
đều ăn rất ngon lành”
Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ đã thêm một lần
truyền động lực sống cho các con. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người.
Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà
vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan
vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai.
“Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện
vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan,
có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông
dân có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện đàn gà mà mẹ
mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm:
“Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay
đàn gà cho mà xem…”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt
của người mẹ vào tương lai. Chính bà lão gần đất xa trời đang tìm cách nhen nhóm
niềm tin, niềm hi vọng cho các con. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự
sống sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng son này, rồi họ
cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt
Nam mãi mãi xanh tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương lai,
tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và cũng chính câu chuyện này đã
thổi hồn vào cuộc đời của Tràng và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ
vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên cái
nền u ám của nạn đói.
Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo cám trở nên đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen tối của hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên
rõ rệt hơn bao giờ hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ trong chốc lát.
Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã
khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy.
Bà tự hào bởi “xóm ta khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất
xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự hào ấy sao nghe chân thành mà đáng thương
làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai
con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi
đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Tinh
thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Nhân vật bà cụ Tứ cho ta càng thấy rõ giá trị nhân đạo mà Kim Lân gửi gắm. Chính
giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và “Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho
lớp bụi thời gian có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân thể
hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé nhỏ. Đó là là bà cụ Tứ
- người mẹ dịu hiền, yêu thương lo lắng cho con hết mực. Chẳng những thế, ở phía
sau con người già yếu sắp gần đất xa trời như bà là niềm tin, tinh thần lạc quan vào
cuộc sống. Chính điều đó đã nhen lại sự sống cho đôi vợ chồng trẻ, giúp họ vững tin
vượt qua khó khăn. Ngòi bút của Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít
Nhật đã khiến đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng trước
thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất vưởng như những bóng ma.
Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân không để cho nhân vật của mình phải chết trong
đau đớn, quằn quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã hé mờ
cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về tương lai, hướng về sự sống khi
để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng - bắt nguồn từ sự thay đổi nhận
thức đã sẵn sàng trong tâm trí người vợ nhặt.
Với cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân khéo làm nổi bật
sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân vật. Không những thế giọng văn còn mộc mạc, giản
dị gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Tất cả làm nên tên
tuổi “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện một xã hội
nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên tình người và những tia hi vọng trong tư
tưởng của người nông dân.
Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy
của cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công khi miêu tả những diễn
biến phức tạp của bà cụ Tứ. Cũng giống như thị, bà cụ Tứ cũng được vẽ bởi những nét
nguệch ngoạc nhưng ẩn sâu trong tâm hồn bà vẫn luôn hướng mình về ánh sáng, về sự
lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc trong cuộc đời nhất định sẽ tới. Một người mẹ hết
lòng vì con, một con người biết cưu mang, che chở, sống nhân ái, tình nghĩa đó là đạo
lý tốt đẹp của con người Việt Nam. Nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật
điển hình, tiêu biểu cho hình ảnh của người mẹ Việt Nam:
“Cả cuộc đời Mẹ một nắng hai sương
Lặng lẽ bước trên đường dù mưa gió
Bởi thương con…Mẹ lần mò vượt khó
Dù gian truân vàng võ chẳng nao lòng”
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ đạt điểm cao - Mẫu 2
Nói đến văn học là nói đến một phạm trù không giới hạn của nghệ thuật, có khả năng
gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì với tác phẩm Vợ
nhặt của Kim Lân cũng như thế. Ta không chỉ biết đến một anh Tràng thô nhám, cục
mịch đến ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, một chị vợ “chao
chát, chỏng lỏn” mà “hiền hậu, đúng mực”, ta còn biết đến một nhân vật giữ cho câu
chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, một nhân vật mang trên mình cái thiêng liêng của tình
mẫu tử, của tình người đẹp đẽ, mang đến những hi vọng, những hạnh phúc tưởng
chừng giản đơn nhưng lại thắp lên cả một niềm tin vào sự sống, vào tình người trong
cái đói. Đó là bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc tấm lòng
của người mẹ nông dân trong cơn đói thảm họa này. Hãy cùng theo chân người viết,
bước vào hành trình và nội tâm của nhân vật này trong tác phẩm Vợ Nhặt của cố nhà văn Kim Lân.
Nhắc đến nhà văn của làng quê Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến Kim Lân. Ngòi bút
mộc mạc của Kim Lân tìm về với kiếp người thôn quê nghèo khổ. Tuy trong cái bóng
tối của cơ cực vây quanh những mảnh đời những người nông dân, nhưng ánh sáng từ
ngọn lửa của tình người, lòng nhân nghĩa vẫn là màu sắc chủ đạo xuyên suốt trong tất
cả các tác phẩm. Vợ Nhặt cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Tác phẩm có tiền thân
từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám
nhưng bản thảo dang dở, thất lạc. Hòa bình lập lại (1954), KL viết lại dưới dạng một
truyện ngắn và đặt tên là “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí”
(1962). Bối cảnh của câu chuyện “nhặt vợ” là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Bóng
đen chết chóc của cái đói đã “đã tràn đến”, phủ xuống khắp các xóm làng, và nạn đói
năm ấy trở thành bóng ma ám ảnh của dân tộc ta tại thời điểm đó. Trong cái cảnh “tối
sầm lại” vì đói khát ấy, nhân vật của Kim Lân hiện lên mang thông điệp đầy ý nghĩa:
“trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân
ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm để mà vui để mà hi vọng”.
Bà cụ Tứ, dù là nhân vật phụ, xuất hiện sau cùng trong tác phẩm nhưng lại góp tiếng
nói đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần giữa thân truyện “Vợ nhặt”. Nhưng
nếu không có nhân vật này, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ hấp
dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu,
mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết “Vợ nhặt” với tình huống anh cu
Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân
trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Xây dựng nhân
vật bà lão, dường như nhà văn muốn hướng người đọc nhìn việc lấy vợ của Tràng từ
một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng đọc tác phẩm, càng ngẫm nghĩ ta
càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng.
Điều này có lẽ nằm ngoài ý đồ sáng tạo ban đầu của tác giả. Sự kì diệu của nghệ thuật
chính là ở đó. Lòng kính trọng người mẹ, kính trọng người già và nỗi đau khổ suốt đời
đè nặng lên con người đã tạo nên tầm bao quát và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “lòng khòng”, khẽ
mắt “lèm nhèm”,”khuôn mặt bủng beo, u ám”. Những hành động cử chỉ của bà “nhấp
nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” đều toát lên
tất cả các nét của bà là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ
nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà bà nói “cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của
nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, ta như được sống
với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ, nhiều
lúc ta có cảm giác như bà “hấp háy cặp mắt” bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình
mà bước vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả, một nhân
vật không hề có nét nào của việc “tô son đánh phấn”. Vâng, làm sao có thể nghi ngờ
được điều đó khi ta chứng kiến những diễn biến tâm lí đầy tinh tế, khi ta lắng nghe
những lời nói tưởng dớ dẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình của người mẹ nông dân nghèo…
Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường
thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim
Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và
hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có
vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng.
Và tinh tế, người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy hai mặt trong tâm trạng của bà mẹ nghèo
khổ ấy: Bề nổi mẹ luôn nói những chuyện vui, mong ước về tương lai tươi sáng để
gieo lên niềm tin cho các con, nhưng bề chìm, chiều sâu của tâm trạng là nỗi lo lắng,
tủi hờn và những giọt nước mắt chảy ngược vào trong mẹ đã giữ lại để riêng cho mình.
Lòng bao dung và đức hi sinh của bà mẹ ấy cũng giống như bao người mẹ Việt Nam.
Nhân vật duy nhất trong thiên truyện này có ý che lấp hiện thực phũ phàng chính là bà
cụ Tứ. Nó đau đớn vụng về như chính lúc bà quay đi che dòng nước mắt của mình cho các con khỏi nhìn thấy.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không
kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Phải
chăng sau một ngày đi làm thuê kiếm sống chưa đủ mưu sinh, còn bao lo toan cho
gánh nặng cơm áo để đầu óc người mẹ ấy không một phút thảnh thơi. Ta gặp lại dáng
hình gầy còng vì sương gió cuộc đời của người mẹ nghèo thân thuộc. Từ “lọng
khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình, một dáng vẻ gầy guộc, còm cõi, lưng còng,
bóng ngả. Cái bóng còng của bà cụ Tứ càng ngả hơn khi xuất hiện trong buổi chiều
hôm đầy chạng vạng. Cái xế chiều của một đời người gặp cái xế chiều của một ngày
tàn như gợi lên sự chua xót hơn cho những thân phận nghèo khổ trọn vẹn cả kiếp
người. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường
của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà lạ đứng ngay ở
đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già
nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không
phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được
giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về nhà một người vợ! Nỗi băn
khoăn bởi trong hoàn cảnh ấy, với anh con trai thô kệch và gia cảnh của mình là hoàn
toàn hợp lí. Đúng ra, khi con cái trong nhà đến tuổi dựng vợ gả chồng, người mẹ nào
cũng đủ tinh tế để nhận ra và hiểu chuyện khi thấy con dắt một cô bạn gái về. Nhưng
chính cái đói, cái nghèo đã làm người mẹ này mất đi khả năng nhạy cảm thiên phú ấy.
Bởi hơn ai hết bà hiểu gia cảnh của mình. Con mình nghèo làm sao lấy nổi vợ. Thật
chua xót cho những kiếp lầm than, đến cả hạnh phúc nhỏ nhoi, bình thường họ cũng đánh rơi mất.
Băn khoăn mãi, khi đã hiểu, “bà lão cúi đầu nín lặng”, cái cúi đầu của con người bởi
nỗi khổ đeo bám suốt cuộc đời, giờ đến khi gần đất xa trời mà cũng không lo được
cho con một mái ấm. Sự xót thương, tủi hờn cho mình, cho con trai và cho cả con dâu.
Bà vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận
mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi,
còn mình thì…”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái
thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ
xuống hai dòng nước mắt”, lý trí đã không ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như một nhà
quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh,
thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một đời vất vả của
người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy giãn ra hai dòng nước mắt
khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết:
“Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ
cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa,
bởi “nước mắt người già chảy ngược vào tim”. Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm.
Việc trọng đại trong đời con, bà cũng ý thức lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”,
nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện
được và bà đau, bà tủi.
Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta
tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: “con ngồi xuống đây. Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong mỗi gia đình không
mấy khi được hòa hợp, huống chi đây lại là cô con dâu không được hỏi cưới đàng
hoàng. Cứ ngỡ tưởng bà mẹ ấy sẽ coi thường, hắt hủi người dâu nhặt. Nhưng chúng ta
đã thật sự ngỡ ngàng trước những lời nói, cử chỉ ôn tồn của bà mẹ nghèo này. Còn đâu
là ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả.
Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “kể có ra làm được
dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương
quá….”. “Lúc này” ở đây chính là thời điểm năm 1945 – cái mốc in dấu một nạn đói
khủng khiếp đã đi vào lịch sử: “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói” (Tuyên ngôn độc
lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như một chứng tích tội ác của giặc, không khí quê
hương “vẫn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “dưới những
gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Ấy
vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc
đời, cùng cái đói, cái chết. Thử hỏi sao lòng người mẹ không đau. Bà chỉ biết khuyên
vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này.
Đó là nỗi cảm thông của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm…
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” bằng sự
cảm thông sâu sắc. Bà hiểu ra căn nguyên, ngọn nguồn của mọi vấn đề chính là cái đói.
Nó hủy hoại con người bằng cách cướp đi mạng sống nhưng đồng thời trước sự hủy
diệt ghê gớm của nó đã tạo ra một sợi dây vô hình gắn kết mọi người lại với nhau để
sống và sống thật ý nghĩa: Tràng có hạnh phúc gia đình, thị có chỗ bấu víu để hi vọng
có sự sống dù là mong manh, bà cụ Tứ có con dâu mới. Tất cả đang mở ra một tương
lai phía trước dù tương lai ấy đang mờ mịt, bế tắc bởi sự đe dọa bởi cái chết luôn rình rập.
Lo lắng cho cuộc sống và tương lai của các con. Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi
lo rất chính đáng của con người đã trải một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nếu qua được cái tao
đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó. Và bà cũng nghĩ đến trường hợp
xấu nhất nếu xảy ra là ông trời bắt chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết
cho được. Không hiểu trong đầu của bà mẹ nghèo kia đã trải qua bao suy nghĩ trong
những mảng sáng tối để rồi dừng lại ở một suy nghĩ bị đeo đẳng bởi hiện thực khắc
nghiệt. Cái đói, cái chết không phải lởn vởn mà nó luôn hiện hữu ở mọi ngóc ngách
trong suy nghĩ của con người.
Bởi nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai. “Vợ chồng chúng
mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai
giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Nhưng không phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để ngay khi
nghĩ về viễn cảnh tương lai tươi sáng lại là ánh mắt đăm đăm của bà khi nhìn ra ngoài
để bao trùm lấy hai con mắt là cánh đồng mênh mông bóng tối. Là mùi đống rấm khét
lẹt của những nhà có người chết thoảng vào. Lại là gánh nặng của hiện thực không thể
phủ nhận và chạy trốn. Không lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa
hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích
diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại.
Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu
sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết
thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời
cực khổ dằng dặc” của mình để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “Liệu
chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng tâm
hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người
mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong
phú đến mức nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. “Vợ nhặt”
không còn là trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt
nước mắt tụi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ lạc quan thắp lên
trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ
không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm lí mà còn rung cảm sâu sắc
trước tâm tình tha thiết của người mẹ. Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng
trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá…”. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu,
người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là
mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân
thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng tới mẹ
chồng Dần trong “Một đám cưới” (Nam Cao). Người mẹ ấy mở “tài ăn nói”, nói rất
nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp cái sự “không có nhiều tiền”, làm “mát lòng mát
ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư?
Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con
bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói… Nhưng nếu mẹ chồng
Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này lại nói rất ít. Bà khóc. “Nước mắt cứ chảy
xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu diếm đầy ngượng ngập, vụng về
những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí
cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của
mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát
đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước
mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên
rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những
giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng cao quí của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi
như muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả. Người mẹ già như cố nuốt
nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con.
Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là một niềm riêng không chia sẻ. Bởi trái tim người mẹ ấy
hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy
tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn một câu
danh ngôn: “tình yêu thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như
mạch nước ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời”. Suối nguồn của tình mẹ và
những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng. Rồi có ai đã
từng ví trong câu hát “tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”, thì đây, những giọt
nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Kim
Lân đã tâm sự khi viết tác phẩm này, phải đến tận khi tất cả niềm tin của ba con người
nghèo khổ trong ngôi nhà lụp xụp, tăm tối kia gần như lụi tắt thì cũng là lúc bà cụ Tứ
thắp lên ánh sáng ngọn đèn dầu. Mẹ kêu con thắp đèn lên “cho sáng sủa” hay chính
tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con…Bà dành lời cho
bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về
sau này”, bà say sưa bàn với các con những dự định cho tương lai… Để ý ta sẽ thấy
chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả.
Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm
ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà
chẳng còn sống được mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời mình
trong sự chăm lo vun vén cho con. Bởi những ước muốn, hi vọng đâu chỉ dành cho
tuổi trẻ – nó trở nên đậm sâu, nồng thắm hơn trong tấm lòng của những người mẹ
nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà lão lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước
mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi
mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời tâm tình ấy làm ta xúc
động, thấm thía bao điều…
Niềm tin của bà mẹ ấy đã chuyển hoá thành niềm vui. Bà vui trong công việc “sửa
sang nhà cửa vườn tược”. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, “cái
mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó
trong ngày đầu tiên gia đình đón chào một nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, bà “xăm
xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giãy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn”. Bởi bà
hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời các con
mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con.
Buổi sáng hôm nay, bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng “bữa
cơm ngày đói thật thảm hại” lại chỉ là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè
khoán” đắng chát, nhưng bà vẫn cố tạo ra không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên,
làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con. Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo
đến tàn bạo, đầy đọa mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau
này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con… Người mẹ già ấy
vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái
chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của
người lao động. Nhưng xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai,
con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui
vẻ khi bà “lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói” lên nhà, tươi cười đon đả múc
cho các con rồi mời mọc: “cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem”.
Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món
mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán” ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt
tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn con được no đủ, hạnh
phúc trong một việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó
thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát. Dường như bà có ý xua tan đi
không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương. Có một chi tiết trong thế
tương phản mà Kim Lân đã miêu tả trong tác phẩm này để ta hiểu hết được tấm lòng
sâu kín của người mẹ. Bát cháo cám là tâm điểm thu hút ánh nhìn của ba nhân vật
trong tác phẩm. Mỗi nhân vật đón nhận theo một cách khác nhau. Từ đó lóe sáng lên
tư tưởng chủ đạo nhà văn gửi gắm. Thị nhìn nồi cháo cám mà hai mắt thị tối sầm lại.
Còn Tràng thì chum ngay mặt lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Còn bà
mẹ già vẫn khen ngon đáo để – ăn một cách ngon lành. Hai con người trẻ khỏe, mà
còn không muốn nuốt mà bà mẹ già gần đất xa trời lại ăn ngon lành. Phải chăng đó là
một việc làm vượt trên cả một tình yêu thương, mà chiều sâu của nó là nghị lực sống
của bà mẹ nghèo, đang cố bùng cháy sáng dù chỉ là trong khoảnh khắc để nhen lên
niềm tin, hi vọng cho những đứa con thân yêu của mình để chúng có đủ sức mạnh
vượt qua những khó khăn đang ngập đầy trước mắt. Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão,
tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa một bể bi thương, khi mà màu
sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó. “Bà không dám để con dâu nhìn
thấy bà khóc”. Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong để hi vọng mong
manh còn đủ sức soi đường con bước. Những giọt nước mắt lại rơi, giọt nước mắt đầy
ám ảnh…Có thể, người đàn bà ấy chẳng còn sống, còn gần các con được lâu nữa.
Nhưng bà sống trọn một đời vì các con, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự chăm
lo, vun vén cho con, mơ ước cho con. Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã
để trái tim đập cùng một nhịp đập với trái tim người mẹ nông dân. Viết về bà cụ Tứ,
nhà văn thực sự đã trở thành “người nhân đạo đến tận xương tuỷ” – (Sê khốp).
Kim Lân đã sử dụng điểm nhìn trần thuật, nhà văn đã nương theo những suy nghĩ,
điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện, khiến cho người đọc có cái nhìn chân thực,
khách quan hơn. Cùng với đó, việc dùng lời kể nửa trực tiếp, nhà văn đã nhìn bằng cái
tâm trạng mang dấu ấn tính cách riêng của nhân vật, cụ thể là bà cụ Tứ, đó cũng là sự
thấu hiểu, niềm tin tưởng và yêu thương con người. Nhịp câu văn chậm rãi, lắng đọng,
tràn đầy cảm xúc, ngôn ngữ bình dị, gần gũi với đời sống nông thôn. Cốt truyện mà
Kim Lân đem đến cho chúng ta thực sự bất ngờ, hấp dẫn bởi sự nối tiếp mạch chặt chẽ.
Với sự thấu hiểu, đồng cảm. Kim Lân đã dựng lên một người mẹ điển hình cho hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam – thương con, vị tha, nhân hậu. Qua đó, tác giả khẳng
định tình cảm thiết tha, trân trọng những tấm lòng người mẹ, chính điều này đã tạo
nên trang văn chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Mặt khác, tác giả còn khẳng
định, đề cao khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc gia đình.
Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo
khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Một người mẹ hết lòng yêu thương con, hi
sinh tất cả vì con. Nhà văn không cố ý xây dựng bà cụ Tứ thành một nhân vật điển
hình nhưng bằng tài năng, bằng vốn sống, bằng tình cảm thiết tha, trìu mến đối với
tấm lòng người mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao
giờ hết. Chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cái bóng
tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ? . Nhân vật cũng góp phần thể hiện rõ cái
nhìn đầy nhân ái của nhà văn về con người: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”
Ánh sáng ấy làm câu chuyện trở nên thấm thía, cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ
nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của một truyện ngắn hiện thực – nhân bản.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi - Mẫu 3
Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại
tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện
thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc
về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh
hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những
giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác
phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận
con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác
phẩm của mình, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn
trong tâm hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết
luôn cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một
cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử đong đầy.
Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính là nhân vật bà cụ
Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện được những vẻ đẹp tiềm
ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những
gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-
1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn “nhà” rách nát trong
xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng
in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết
đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng
“húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
Nhìn vào cảnh ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của
bà, khi mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố
sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được hưởng
cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống chọi với cơn đói khủng khiếp.
Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt về
chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá.
Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông qua cách miêu tả
diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại
càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc
sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt, Tràng lấy
vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa, không đèn, không có
mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi
vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa
vây khắp xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người
con dâu mới cưới, thoạt tiên bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người
già cả, cùng với sự kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà
có biết nhau nhiêu cớ sự thắc mắc. Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra
hoang mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu
đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe, chia sẻ,
cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra
bao nhiêu là cớ sự”, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn
ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của người mẹ thương
con tha thiết. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, đến cưới một tấm vợ
cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa cảnh đói kém, cái chết đang rình rập
khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và người đàn bà xa lạ. Càng nghĩ bà cụ Tứ càng
thấy xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm,
có chuyện lạ nào, sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra
khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà
nay mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp nhận
mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai. Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã đến tuổi lấy
vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà cũng bằng lòng, bà
chỉ trăn trở mãi một mối lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này
không”. Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng hiện rõ, bà không trách con trai tự
ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ
có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát
khủng khiếp này, để mà xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con
trai mình thiếu thốn đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán
được tương lai phía trước. Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con
trai, bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi tân
hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc quan“Người
ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình
mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng
may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Rồi
nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người
dâu mới về nhà chồng. Đồng thời nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc
hôn nhân mới bằng những lời của cha ông rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai
khó ba đời?. Đồng thời bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu
khổ đang bộn bề trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt
đẹp phía trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau
thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu, bao dung.
Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện lên là
một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những số
phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh tượng con trai dẫn về
một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề
tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im lặng nghe con trai kể chuyện rồi
thầm quan sát người đàn bà. Sau khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp
nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị “Người
ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình
mới có vợ được”. Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường
cùng, bị cái đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của
Tràng. Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp
người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng
hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà không một đồng
sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn cho thị bởi lẽ cũng may
có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy thân
thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống
cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới. Rồi khi
nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội nghiệp cho một kiếp
đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại càng khổ cực hơn, có lẽ
rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà mấy mươi năm trước. Nghĩ thế bà
lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về
chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó
của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để
thị đỡ tủi thân trước cảnh theo không về làm dâu nhà người. Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự
“cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày
lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa
của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng dù ít học, nghèo
khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng cảm, yêu thương con
người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình người, xua tan đi cái lạnh lẽo của
nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài kia.
Không chỉ ấn tượng ở tình mẫu tử sâu sắc, lòng bao dung, thấu hiểu, bà cụ Tứ còn bật
lên với vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống, vào một tương lai
tốt đẹp phía trước, dù đang ở trong cảnh tượng khốn khổ, kinh hoàng nhất của nạn đói
năm 1945. Cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cũng chẳng thể sống thêm mấy mươi
năm nữa, thế nhưng trong lòng bà lúc nào cũng ngập tràn niềm tin về một tương lai
sáng sủa, về chuyện một ngày nạn đói qua đi, gia đình bà sẽ lại có những ngày sống
không phải lo bữa đói bữa no, cuộc sống sẽ đỡ bấp bênh vất vả hơn. Đồng thời cụ
cũng gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời
thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Rồi trong bữa
cơm sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, bà cụ luôn nói đến những chuyện vui vẻ,
gợi cho các con những dự định tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng,
chuyện làm ăn. Những lời nói đầy ắp hy vọng, niềm tin vào một tương lai khấm khá
hơn khiến bữa cơm sáng chỉ “có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với
cháo”, dù khắc khổ, đạm bạc nhưng cũng thật vui vẻ và ấm áp. Trong bữa cơm sáng,
bà cụ Tứ còn chiêu đãi các con bằng nồi chè khoán nấu từ cám đắng ngắt và nghẹn bứ
nơi cổ họng, nó không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ già nghèo khổ yêu thương
con sâu sắc, mà còn bộc lộ ý tứ sâu xa của bà cụ về cuộc sống nhiều khó khăn sao này.
Bà hy vọng rằng các con mình sao này dù gặp nhiều khó khăn, vất vả hơn nữa, cũng
phải cố gắng mà vượt qua, cũng giống như ngày hôm nay họ cố nuốt xuống miếng
cháo cám đắng nghét, khó ăn, để bắt đầu cuộc sống mới vậy. Có thể nói rằng dù già cả
nhất, nhưng cụ Tứ lại chính là người có sức sống và niềm tin mãnh liệt nhất, trở thành
người truyền cảm hứng, gieo vào lòng Tràng và thị những hy vọng, những khao khát
vượt qua số phận, xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hướng tới một tương lai
tươi sáng, không còn sợ cảnh đói rách hành hạ.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm phản ánh rõ nét tính kinh hoàng,
thảm hại của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng bên cạnh
những cái tàn tạ, ghê gớm của cảnh đói rét, hiện thực tối tăm, Kim Lân cũng đồng thời
thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc khi thông qua hiện thực để làm bật lên vẻ đẹp
của con người trong cảnh bần hàn, khốn khổ. Bà cụ Tứ giữa cái đói nghèo, tủi phận,
giữa cảnh con trai mang về một người vợ nhặt, bà đã hiện lên với hình ảnh một người
mẹ thấu hiểu và yêu thương con sâu sắc, một người đàn bà biết cảm thông, chia sẻ và
bao dung với những kiếp người khốn khổ như thị, và cuối cùng là hình ảnh của một
con người có niềm tin, sức sống mãnh liệt, là người gieo rắc vào thế hệ sau những tư
tưởng tốt đẹp, tạo lập cho các con hy vọng vào cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh để
tiến tới tương lai tươi sáng hơn.
Phân tích bà cụ Tứ siêu hay - Mẫu 4
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối, với nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả kĩ cái hiện thực tàn khốc của nạn đói
lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xơ xác vì
đói khát của những người nghèo khổ. Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi
vọng vào tương lai tươi đẹp. Trong "Vợ nhặt" xuất hiện ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ
và người vợ nhặt, thì bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng đã gây được nhiều thiện cảm đối với
người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh rất đáng trân trọng của bà.
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở
thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân
thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận
bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa
con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ
con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có
nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính
cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là
"tiếng người húng hắng ho", rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa
đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu
chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi
gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn
mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng
ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ đi vào,
thấy thái độ khác thường của Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật chạy ra đón
mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó là biểu hiện
của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong nhà. Khi
đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên "đứng sững lại" - một biểu
hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là "sự ngạc nhiên hơn". Điều đó chứng tỏ sự ngạc
nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước.
Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc
của bà cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: "Quái, sao lại
có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ ?" Một loạt các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu
trả lời cho thỏa đáng. Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi
cho cặp mắt của mình, không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn
vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần
nữa, vẫn chưa nhận ra người nào" nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên
không hiểu của chính mình. Khi người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U
đã về ạ", thì kể cả tiếng chào ấy - một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra.
Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định và một câu hỏi nữa đặt ra: "Ô hay, thế là thế
nào nhỉ ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống giường". Mãi đến khi Tràng vừa giới
thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi" rồi "chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau...
Chẳng qua nó cũng là cái số cả" thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão
"cúi đầu nín lặng". Cái tư thế "cúi đầu nín lặng" của bà cụ Tứ hàm chứa biết bao suy
nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có thể nói thành lời. Dường
như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ
tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc xuất hiện cả con
người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ giúp bà hiểu ra là con
trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo mà Tràng
phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến cho
con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ ra rất
"xót thương cho số kiếp đứa con mình". Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới
chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình
thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại
vừa nhân hậu biết bao !.
Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.
Còn mình thì...". Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn
khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa
người ta với con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm
nổi bật không phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn
hàm chứa sự trách móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó
cũng chính là sự biểu hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện
của lòng nhân ái à lòng thương con rất tha thiết.
Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: "Biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Vừa tủi phận
mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng
nước mắt". Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi
lòng vốn đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ
lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là
những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.
Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có
chung một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người "vợ nhặt" chờ đợi người mẹ già nua
lên tiếng. Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão "khẽ
thở dài" vì bà muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm
thời bứt ra khỏi tâm trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt,
để "đăm đăm nhìn người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt".
Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả
tấm lòng. Vì thế bà lão nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Trong suy nghĩ đó của người
mẹ hướng tới hai đối tượng "người ta" và "con mình". "Người ta" trở thành người
mang ơn và "con mình" là người chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề
coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người
đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt,
bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho
con...". Bà đã phó thác, trông chờ số phận vào sự may rủi: "May ra mà qua khỏi được
cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt
chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được". Hoàn cảnh thật bi đáp
khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp
nhận "nàng dâu mới" tự lúc nào. Sau khi "khẽ dặng hắng một tiếng", bà lão "nhẹ
nhàng" nói với "nàng dâu mới": "Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng...". Một sự chấp nhận tự nguyện của người mẹ trong tâm trạng vui
mừng. Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chất phác, chân tình biết
bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho người vợ nhặt đáng
thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng "thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi".
Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa
lạ bỗng dưng trở thành "con dâu" của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này
một lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như
những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi,
người mẹ thật tội nghiệp !. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến
cho bà phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói...
Khi đã nhận "nàng dâu mới" thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình:
"Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may
mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi
con cái chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là
"nhà ta thì nghèo". Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con "Vợ chồng chúng
mày liệu mà bảo nhau làm ăn". Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình
bằng một câu nói rất quen thuộc trong dân gian: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?". Lời
động viên đó thể hiện niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng.
Hơn nữa, bà lão còn gieo cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên
đáng quý, giúp cho các con bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh
bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão "đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai
con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm
ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài".
Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân phận của bà. Bởi vậy, trong kí
ức của bà lão "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực
khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả đã hiện về như một cuốn phim dài bất tận, như
một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm trạng lo lắng lại một lần
nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: "Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời
chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...". Mặc dù lo lắng nhưng bà vẫn cố
gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: "Con ngồi xuống đây. Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân". Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ và
"con dâu" và cũng đã an ủi người "vợ nhặt" ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện
tình thương, sự chấp nhận "nàng dâu mới" của bà. Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng
thương xót của bà cụ Tứ với người con dâu mới: "Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy
thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bà lão tiếp tục tâm sự với người
vợ nhặt bằng những lời thân mật: "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy,
nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao
chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá...". Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và
hiểu người. Bà hiểu rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ
tiên, ông bà, sau mời làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao
dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt,
tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận. Nói
đến đây thì bà cụ "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng".
Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt
nước mắt của bà là biểu hiện của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo.
Nó rất đáng quý hơn bao những vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.
Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng,
xót xa, buồn tủi, thế nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn
ngập một niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ: "bà nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cai mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên".
Niềm vui còn được thể hiện qua hành động của bà: "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà
cửa" với ý nghĩ "thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác
đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia
thất. Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu
tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có "rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo"
nhưng bà "toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này". Câu chuyện
người mẹ già kể cho các con vào bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ
là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng trong câu chuyện của bà không còn có quá
khứ mà chỉ có tương lai. Câu chuyện của bà thật giản dị ! Đó là chuyện mua gà, nuôi
gà, có đàn gà con mà người mẹ nói với Tràng: "Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh
đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem...". Chính câu chuyện vui của
bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong
bữa ăn càng lúc càng trở nên nghèo nàn khiến cho "câu chuyện trong bữa ăn đang đà
vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết
nhẵn". Thế nhưng, bà lão lại "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói
bốc lên nghi ngút" và bà lão khen "chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Dường như bà lão
cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn khổ bằng thái độ tươi
tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn thức lo âu. Bà lão
"đãi" nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là "cháo khoán", nấu bằng cám, khen "ngon
đáo để" và so sánh "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Qua đó, bà động
viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua "tao đoạn" ngặt
nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ bởi tình
thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người
mẹ nhưng bà lão "ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của
tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ
nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời
oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám
ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong
cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.
Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên
của nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của nhà văn
Nguyên Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà
tha hương cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà
hàng chài không tên trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
là người mẹ phải chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu
tình thương, lòng bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho
hạnh phúc của con. Và bà cụ Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.
Qua truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm
động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả
đi sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói,
ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có
vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người
nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời
thấm đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin
vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc
trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le
lói trong bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm
cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ
Tứ đã đọng lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 5
Kim Lân là một trong những nhà văn chuyên viết về người nông dân. Những câu
chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như hình ảnh của chính anh. “Vợ nhặt” là
tác phẩm của ông lấy bối cảnh những năm đói kém 1945, câu chuyện đầy thương cảm
về những kiếp người nghèo khổ đùm bọc nhau trong hoàn cảnh “người chết như ngả
rạ”. Và sáng ngời trong cảnh đói khổ ấy là tình người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ
Tứ – người mẹ già nghèo khổ với những cảm xúc, tâm trạng phức tạp khi chứng kiến
đứa con trai độc nhất “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ Nhặt là anh chàng tên Tràng, sống ở xóm trọ. Giữa
những năm tháng đói khát, anh kéo xe thồ thuê kiếm sống và một lần, anh bắt gặp một
người phụ nữ nghèo ngồi bên vệ đường để “chờ nhặt hạt rơi vãi”, chị đẩy cùng anh xe
bò kéo sau vài câu đùa vu vơ. Lần thứ hai anh gặp lại cô là khi cô đói đến mức “gầy
quá” và anh mời cô ăn bánh. Chỉ với bốn bát bánh, cô chấp nhận theo anh về làm vợ.
Có thể nói, tình huống truyện mà Kim Lân dựng lên là vô cùng độc đáo và “có một
không hai” trong nền văn học Việt Nam. Qua đó, ta chợt chạnh lòng trước sự mong
manh, nghèo khó của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là niềm xúc động mãnh
liệt trước tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những người dân nghèo giữa đói
khát. Trong bức tranh ấm áp tình người ta còn bắt gặp hình ảnh người mẹ già với tấm
lòng hết lòng yêu thương con và người, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn gọn của tác giả. Đó là
một bà già, nghèo khó, cư dân trong xóm. Dáng đi của bà rất “luộm thuộm”, chậm
chạp và “vừa đi vừa lẩm bẩm điều gì đó trong miệng”. Bà xuất hiện với dáng vẻ của
một người phụ nữ đầy vất vả và đau khổ. Bà có một cậu con trai nhưng chưa bao giờ
nghĩ đến chuyện lấy anh, vì nhà nghèo quá, đói quá, ai nỡ gả vào một ngôi nhà chỉ là
“nhà hoang đứng co ro” để ăn tiêu không đủ? Vậy mà giữa lúc đói kém khốc liệt nhất,
Tràng lại đem về một “người vợ”, người phụ nữ mà Tràng “nhặt được” khi đi làm
thuê. Ở cái thời buổi đến cái thân cũng không lo nổi như thế này, khi Tràng lấy vợ, bà
cụ sẽ phản ứng ra sao? Bà sẽ chấp nhận làm dâu “chưa cưới” hay trách con trai đã
“qua mặt”, “lấy lại nợ đời”?
Khi thấy cậu con trai “dũng cảm” đón từ đầu ngõ, phản ứng đầu tiên của bà là bất ngờ.
Một sự “bất ngờ” dâng lên trong lòng bà cụ, bà không hiểu sao hôm nay con trai mình
lại có thái độ lạ lùng như vậy! Và sự ngạc nhiên của bà càng tột độ khi nhìn vào trong
nhà, thấy một người phụ nữ khác đang “đứng đầu giường con bà” và “chào bà bằng u”.
Bà lão “ngừng lại”, vẻ lo lắng dường như làm đôi mắt già “nhòe”, bà “chớp” mắt, cố
“nhìn kỹ” người đàn bà. Sự ngạc nhiên và bối rối bao trùm lấy bà lão tội nghiệp, bà vô
cùng ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì cho đến khi con trai lên tiếng.
Khi con trai giải thích mọi chuyện, bà bỗng “cúi đầu im lặng”. Trong lòng mẹ là gì?
Kim Lân đã khéo léo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già ấy, khéo léo để người đọc
thấy được những đổi thay đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ ấy. Bà cúi đầu im
lặng, nhưng trong lòng chợt hiểu, “bà già hiểu rồi”. Bà hiểu rằng con trai bà giờ đã có
gia đình, có người khác bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa lúc túng quẫn nhất của cuộc đời thì sao?
Có lẽ, người phụ nữ đáng thương ấy đã phải khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt
nước mắt lần này lại khác. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ “giọt nước
mắt lưng tròng”. Giọt nước mắt ấy “vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của
mẹ”. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn
đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bao nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà thương
tiếc cho số phận đáng thương của mình cả đời. “Ôi chao, người ta cưới gả con cái là
khi trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự im lặng trong dòng suy nghĩ của bà là sự
tủi thân. Cả đời bà vất vả mà không làm được gì cho con, thấy thương con vì không lo
được lấy chồng. Đến nay, khi các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại “ngậm ngùi nhìn người phụ nữ ấy”, bà chợt thấy
thương người phụ nữ này. Người đàn bà tội nghiệp đáng thương ấy đã phải đi đến
“bước khó khăn, đói khổ này mới bám lấy con mình”. Bà thông cảm cho cô ấy, thông
cảm cho sự bất đắc dĩ của cô ấy, trái tim Bà ấy “đầy thương hại” cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ thế thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già ấy. Đó là tấm
lòng của một người phụ nữ hết mực thương con và thương những người đồng cảnh
ngộ như mình. Bà cụ Tứ không chỉ thông cảm mà còn thấu hiểu nỗi lòng của người
phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu nhà mình. Sau cùng, bà cảm
thấy sung sướng, hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà
mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì hai đứa có duyên mà sống với nhau thì cũng vui”.
Và bà cũng chỉ mong “làm được mấy mâm cũng được” để mừng con dâu mới vào nhà,
nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong “con bà hạnh phúc”. Đó là tấm lòng
của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với niềm vui có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn đến tột cùng. Bởi Tràng
và Thị đến với nhau trong hoàn cảnh “kẻ chết như ngả rạ”, những đứa con còn sống “xanh như xám”.
Họ đến với nhau là hạnh phúc, nhưng cũng là “nhận nợ đời”. Từ khi biết họ lấy nhau,
bà cụ rưng rưng nước mắt tự hỏi: “Không biết có nuôi được nhau qua cơn đói này
không?”, những năm tháng ấy tưởng chừng như là một niềm vui tuyệt vời, cũng xen
lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu:
“bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau
liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước không?”.
Tâm trạng bà cụ Tứ thay đổi khi biết Tràng “nhặt thị” về làm vợ. Nó chuyển từ
khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên đến thương cảm, từ hạnh phúc
đến lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng yêu thương con của một
người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người
phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng. với con dâu mới
trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà lão
vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà thay đổi không chỉ trong buổi tối hôm đó mà cả sáng hôm sau khi cô
trở thành con dâu của bà. Nếu như trước đây, gương mặt bà “đìu hiu, ảm đạm” thì
hôm nay, gương mặt bà “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “sáng rỡ hơn hẳn”. Phải
chăng một tia hy vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm,
hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có “mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo”
nhưng cả gia đình ba người “ăn rất ngon”. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng
trong lòng mỗi người lại tràn ngập niềm vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà
Tứ trước kia ủ rũ như vậy, bây giờ sắc mặt rất xa lạ. Bà kể “hết chuyện vui, tính
chuyện vui tính sau”. Đó là trái tim lạc quan, yêu đời, ham sống của người mẹ già
muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đủ đầy hơn.
Bà cụ Tứ là nhân vật tuy chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng lại để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng mỗi chúng ta. Qua từng diễn biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm
lòng của người mẹ già trong đói khát vẫn yêu thương con, luôn truyền cho con một
niềm lạc quan sống, niềm tin yêu vào cuộc sống. Và ta còn bắt gặp hình ảnh người
phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái sẵn sàng chia sẻ “nguồn sống” ít ỏi
của mình với người khác trong giai đoạn đói khổ nhất của cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã diễn vô cùng thành công khi miêu tả diễn biến tâm lí của bà
cụ Tứ. Từng giai đoạn chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ ấy được nhà văn miêu tả
rất chân thực và hợp lí. Dường như tác giả đã đặt mình vào nhân vật ấy để cảm nhận
được những rung động sâu sắc nhất trong lòng người mẹ ấy!
Vợ Nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc khi phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn đáng
quý của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Nạn đói khủng khiếp đã
vắt kiệt cuộc sống của con người nhưng đâu đó bên trong những con người như cụ Tứ,
Tràng, người vợ nhặt vẫn còn một vẻ đẹp tiềm ẩn đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của
tình yêu, của sức sống mãnh liệt.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 6
Vợ nhặt là tác phẩm hoàn hảo của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt của dân chúng
ta trong nạn đói năm 1945. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “xóm ngụ cư”
được viết ngay sau cách mạng tháng tám nhưng dang dở. Sau lúc hòa bình lập lại
(1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. với tác
phẩm vợ nhặt, Kim Lân đã rất thành công trong việc đi sâu phân tách diễn biến tâm lí
nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ được giới thiệu là 1 người mẹ nghèo khổ, sống cộng 1 đứa con trai
chịu rộng rãi thiệt thòi, cảnh ngộ của mẹ con bà thật đáng thương nhất là trong cảnh
đói năm 1945. mẫu đói đã kéo tới xóm ngụ cư và vào đến tận trong nhà bà. loại nạn
đói được tác giả bộc lộ, trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào
lên từng hồi khẩn thiết. Dưới đất bên các gốc đa gốc gạo xù xì, bóng các người đói
chuyển động dật dờ như những bóng ma. ko khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và
mùi gây của xác người, đa số tạo nên 1 bầu ko khí ảm đạm tóc tang và thê lương. loại
đói, loại chết len lách vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm tới từng người, cõi
âm hòa mang cõi dương, cuộc sống mấp mé bên bờ vực của chiếc chết. Giữa bối cảnh
tối sầm lại vì đói khát đó thì 1 việc hệ trọng nhất của 1 đời người lại diễn ra 1 cách
thức chóng vánh vội vàng, ấy là việc anh cu Tràng có vợ.
Con trai bà, anh cu Tràng được biết tới là 1 người xấu xí, đói nghèo, lại là dân cư ngụ,
sống trong tình cảnh đó chưa bao giờ anh nghĩ là mình sẽ lấy vợ và lấy được vợ.
Nhưng, cũng trong nạn đói tàn khốc đấy câu hò của anh như xua tan mệt mỏi, có cảm
giác vui vui. có chỉ vài ba câu đề cập tầm phơ mà Thị sẵn sàng theo không anh về làm
vợ. Tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng làm cho cả xóm cư ngụ ngỡ ngàng, còn bà
cụ Tứ thì khôn cùng sửng sốt. Bà cụ kinh ngạc vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư
lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong.
Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm mồm ăn. khi bà cụ đi làm cho về muộn, thấy người
đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng sửng sốt hơn khi được người
đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “ “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà sửng sốt đến mức không còn tin được vào mắt và
tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự nhiên bà lão thấy mắt mình
nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người nữ giới lẫn nữa, vẫn chưa nhìn thấy người nào.
Bà lão quay sang nhìn còn tỏ ý không hiểu”. lúc đã hiểu ra, bà lại xót thương cho số
kiếp của con trai mình, bà liên tưởng đến người chồng quá cố, tới đứa con gái đã tắt
hơi, lòng bà nặng trĩu tủi buồn, xót xa.
Bà cụ Tứ mừng cho con trong khoảng này yên bề gia thất, tủi thân làm cho mẹ không
lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa khi người chết đói “như ngả rạ" lại mang người theo
con trai bà về làm cho vợ. cái tủi, mẫu buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo
quẫn bách. Biết lấy gì để cúng tiên sư, đế trình làng khi con đã với vợ. Bà cụ Tứ khóc
vì mừng con với vợ, khóc vì thương con dâu không biết khiến sao vượt qua nổi cạnh
tranh này. Bà cụ xót xa thương con dâu, thương con trai, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn
lời không nhắc được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng rã ròng”. bao nhiêu lo âu bộn bề trong lòng.
Trong mẫu mừng, loại tủi, chiếc lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. một
niềm vui khổ thân không sao chứa cánh lên được, cứ bị mẫu buồn, cái lo níu kéo
xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm con, cho dâu vui. Bà cố nhắc toàn chuyện
vui, nào là chuyện vợ chồng dạy dỗ nhau khiến ăn, chuyện mai sau, chuyện con dòng,
nhà cửa. Bà tin vào học thuyết nhân sinh “người nào giàu ba họ, ai khó ba đời”, các
lời kể của bà giữa hiện thực đói khát thê thảm ấy là bí quyết để lấn áp bóng đêm bao trùm.
Qua việc khắc họa hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn thật tinh tế nhận ra được nét
tâm lí thân thuộc của người cao tuổi. Trong bế tắc, trong tuyến đường cùng họ thường
kể đến tương lai, tới các điều rẻ đẹp, do đó khi ánh đèn trong nhà bà được thắp lên thì
bà cụ Tứ đã lau nước mắt, bà tin vào một cuộc sống rẻ đẹp hơn lâu dài sẽ đến với con
trai bà, gia đình bà và cả xóm cư ngụ.
Nhân vật bà cụ Tứ đã đem đến 1 luồng gió mới cho tác phẩm, khi nhắc tới bà người
đọc sẽ không thể quên 1 người mẹ ân cần, chu đáo, luôn hình dung các điều rẻ đẹp
cho con mình, một người luôn hướng tới 1 cuộc sống hạnh phúc, rẻ đẹp hơn sẽ đến ở 1 mai sau không xa.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - Mẫu 7
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác
phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tảo tần,
chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân
vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân
vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.
Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng
khọng, đôi mắt ghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để
cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo
đeo bám suốt cả cuộc đời.
Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm:
trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho
thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.
Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ
bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp
phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà.
Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có
người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà
không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.
Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim
yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu
người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời
điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo
khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng
ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo
lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”.
Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu
thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ
nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình
và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông,
yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu
tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ
những người có số phận bất hạnh, éo le.
Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói những điều vui vẻ, hạnh
phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự
chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói
ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi
vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không
nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.
Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt
nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô
vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của
mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó
là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những
hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của
người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói
bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua
lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin
vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không
thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để
vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo
cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy
cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát
cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa
trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào
cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước
sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách
bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là
điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của
mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi
vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu
bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 8
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện
đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất
phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của
ôngTác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945
đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng
đến tương lai của những người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà
văn khắc hoạ rất sinh động, tinh tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu
thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết
sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn
xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn
được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước
Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá
trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Tác phẩm đã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do
thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người năm đói
"khuôn mặt hốc hác u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng
những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Trong không gian của thế
giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với
"mùi gây của xác người". Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mảng tối của bức tranh
hiện thực buồn đau là mảng sáng của tình người, của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của
mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay
quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về
cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thể hiện sâu sắc
cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ:
con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng
của người già từng trải và nhân hậu. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước
một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là
một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt
những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người
đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng
u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự
ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh
đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là
nỗi niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung
làm sao: "... chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?".
Trong chữ "chúng nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong
chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả
giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt.
Bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ
đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo
lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá..." Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm
động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo cám. Hãy nghe
người mẹ nói: "chè đây - Bà lão múc ra một bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ".
Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh
thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.
Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống
cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim
Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội
nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực,
nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt
vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân
vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan
qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm
lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 9
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ
- mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu
sắc hơn. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt,
Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng
Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy.
Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành
người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người
mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ
này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không
kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp
lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc.
Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi
“phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong
nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở
đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nhỉ ? Sao lại chào
mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại
dẫn không về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa
“ai oán vừa sót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình.
“Chao ôi, người ta đựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn
mình thì..”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân
hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm
được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng "nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm
trong suy nghĩ, không thực hiện được.
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng
tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực
nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này
không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ
chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế
nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người
từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót; “...Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá...” “ bà nghẹn lời không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu,
người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là
mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong.
Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã
thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám
cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả
lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người
mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách
nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình
có thể, dẫu chỉ là lời nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc
này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước
mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con
dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với
các con những dự định cho tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi
phận nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi
qua ihì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển
hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà
cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo
xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của
người già: "...chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo
cho hết được? ”tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ.
Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của
người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi
lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả
sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc
đời cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của
con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh
tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc
biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân
thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời -
những trang đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho
tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động,
hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con
rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về
những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho
sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã
cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa
vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà
lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với
con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt
từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ.
Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả...
Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động
“xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho
đôi trẻ, nào mua đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là
người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe
khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa
hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống
vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy,
những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm
hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm
cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu
thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa
nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều...
Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong
miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui
vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười
múc cho con mà bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái
nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng
thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố
gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh
ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái
niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng
trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con
dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng
bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự
nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái lim người mẹ nông dân nghèo...
Qua "Vợ nhặt", Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận
đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết
mình vì con - người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp
thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những
người thân yêu của họ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 10
Viết về nạn đói năm 1945 nhưng truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ tập
trung vào miêu tả cuộc sống ngột ngạt hay cái đói thương tâm mà qua đó để đi sâu vào
tâm hồn và những phẩm chất tốt đẹp của con người cùng chung bước lầm than. Vẻ
đẹp nhân văn, nhân đạo ấy được tác giả xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ –
mẹ của anh Tràng – trước tình huống anh Tràng bất ngờ có vợ.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, bà cụ Tứ không phải xuất hiện này từ đầu truyện mà
phải đến giữa truyện thì bà cụ mới có mặt. Trước tình huống con trai mình có vợ, tâm
trạng của người mẹ nghèo đan xen bao nỗi cảm xúc khó diễn thành lời.
Trước hết, khi về đến nhà, chưa kịp nói gì thì đã thấy có gì đó khác lạ khi anh con trai
hôm nay vui vẻ lạ thường. Không những thế bà còn thấy có một người đàn bà ngồi ở
đầu giường con mình và chào mình bằng u.
Mặc dù nghe thấy nhưng bà lão chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra. “Bà lão hấp háy
cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ
người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý
không hiểu”. Bà cụ ngạc nhiên và ngờ ngợ bởi lẽ, bà không thể tin con trai mình lại
lấy được vợ giữa cái cảnh đói khát thế này vì nuôi thân còn chẳng xong thì ai còn
thèm lấy con bà – một thằng trai nghèo xơ nghèo xác, xấu xí lại là dân ngụ cư kia chứ.
Nhưng khi Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”. “Nhà tôi nó mới về làm bạn với
tôi đấy u ạ” thì bà lão bắt đầu hiểu ra. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự”, vừa mừng vừa tủi vừa “xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà
cụ mừng vì con mình những tưởng không ai thèm lấy thế mà nay đã có người chịu về
làm vợ. Bà thấy tủi thân vì biết rằng “người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được”.
Bà xót thương cho số kiếp đứa con trai vì nghèo túng mà bà không thể lo vợ cho con
và ngay cả khi con cưới vợ cũng không có gì để cúng bái tổ tiên, để thông báo với bà
con lối xóm là con mình đã có vợ. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng
nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!…”. Bà vừa mừng vừa
thương bèn nói với nàng dâu: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân”. Chỉ với đôi lời giản dị mà chúng ta thấy ở đây tấm lòng người mẹ bao dung và nhân hậu biết bao.
Nếu anh cu Tràng vô tư và khoái chí khi có vợ thì lòng người mẹ lại lo nghĩ nhiều hơn.
Bà cụ lo lắng vì nhà hai mẹ con vốn đã nghèo khó, nay lại thêm miệng ăn thì “biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Bà lão nghĩ
đến chồng và đứa con gái út, nghĩ lại cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của bà mà không
khỏi xót xa: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ
trước kia không?”. Nỗi lo của bà là nỗi lo của một người mẹ thương con từng trải,
hiểu đời và hiểu về cái sự nghèo của mình. Tuy nhiên, mặc dù lo lắng tủi hờn đan xen
nhưng bà vẫn là một người mẹ nhân hậu, nhen nhóm những niềm tin, hy vọng về một
tương lai tốt đẹp cho các con.
Gạt đi những nỗi lo lắng, người mẹ nghèo cố gắng để làm cho con trai, con dâu yên
lòng. Bà nói nhiều về chuyện vui, chuyện tương lai sau này. Bà nói với hai vợ chồng
trẻ: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may
mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con
cái chúng mày về sau”. Mặc dù thực tại hãy còn nghèo đó, nhưng người mẹ nghèo vẫn
luôn ao ước về một tương lai sáng sủa hơn cho các con và cho chính mình: “Khi nào
có tiền ta mua lấy đôi gà. […] chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Không
những thế, bà còn tính đến chuyện sửa sang nhà cửa. “Bà lão xăm xắn thu dọn quét
tước nhà cửa”. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Trong bữa cơm sáng, bà đon đả lo chu tất, mặc bữa cơm ấy chỉ có cháo loãng, lùm rau
chuối thái rối và món “chè khoán” đắng chát. Thế nhưng bà vẫn cố gắng tạo nên
không khí vui vẻ để động viên các con. Bà nói những chuyện vui, chuyện sung sướng
về sau để các con đỡ phần nào tủi hổ, để có thêm niềm tin vào cuộc sống mà cố gắng
làm ăn cho khấm khá hơn. Và mặc dù bà biết rất rõ thực tại đang bên bờ vực của cái
đói, cái chết nhưng “bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Một lần nữa, tấm
lòng người mẹ đầy nhân hậu, chịu đựng và hy sinh lại ngời sáng. Bà như muốn ngậm
đắng nuốt cay tất cả tủi nhục ở đời này để giữ cho các con niềm tin vào cuộc sống. Có
thể người mẹ già ấy chẳng còn sống được bao lâu nữa nhưng bà vẫn luôn nghĩ đến sự
sống, nghĩ đến ngày sắp tới nhất định sẽ tốt đẹp hơn.
Nhân vật bà cụ Tứ có thể xem là hình tượng chung của những người mẹ Việt Nam
nghèo khổ, từng trải và hiểu biết: người mẹ hết lòng yêu thương con, cảm thông cho
những số phận cùng cảnh ngộ và không ngừng hy vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc về sau.
Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng đan xen trước tình huống
con trai “nhặt được vợ”, nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ
nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành
cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu hơn về tấm lòng của người mẹ và
cũng chính điều này khiến cho hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn
đối với độc giả chúng ta. Và có lẽ người mẹ già ấy lại chính là tia sáng xua đi cái tối
tăm bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 11
Viết về nỗi thống khổ của nhân dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1945, có lẽ “Vợ
nhặt” của Kim Lân là một trong số những tác phẩm gây ấn tượng thâm thúy khi khắc
họa chân thực và xúc động cảnh lầm than, cơ cực của con người. Thế nhưng, điều ý
nghĩa hơn hết là thông qua việc miêu tả sự ngang trái, éo le của hoàn cảnh sống, Kim
Lân đã làm toát lên những vẻ đẹp đáng trân trọng của con người. Riêng với việc xây
dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn đã làm hiện lên ở người mẹ nghèo ấy lòng nhân ái và
tình yêu thương dành cho con người. Trong tác phẩm, bà được đặt vào trong tình
huống trớ trêu với những diễn biến tâm trạng phức tạp. Nhưng những nét tâm lí ấy lại
là một biểu hiện chân thực cho tấm lòng nhân hậu của bà.
Kim Lân mang tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài (1920 – 2007), quê ở TP Bắc Ninh.
Ông là người dân có tính tự lập ngay từ nhỏ lúc biết làm thuê để trang trải cho cuộc
sống gia đình vốn khó khăn của mình. Chính vì vậy, ông có cơ hội được làm qua
nhiều nghề và được sống gắn bó với những người lao động.
Không chỉ vậy, Kim Lân còn là một người đặc biệt quan trọng quan tâm đến đời sống
của người nông dân với nếp sống và sinh hoạt dân dã. Dù cuộc sống của họ phải lo
toan bộn bề và đối diện với vô vàn sự lầm than, cơ cực thế nhưng ở họ vẫn toát lên
những vẻ đẹp tâm hồn rất đáng để trân trọng. Kim Lân nhận ra được việc đó và
chuyển tải nó vào trong những sáng tác của mình.
“Vợ nhặt” của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí” vào năm 1962. Đây là tác
phẩm Kim Lân viết trong giai đoạn diễn ra nạn đói khủng khiếp vào năm 1945 và
nhân dân ta phải chịu cảnh sống khổ sở, cơ cực vô cùng. “Vợ nhặt” vốn có tiền thân là
tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, nhưng khi Kim Lân còn đang viết dở dang thì lại bị mất
bản thảo. Sau thời điểm hòa bình lập lại vào năm 1954, Kim Lân đã dựa vào ý tưởng
và tình tiết ban đầu để viết nên tác phẩm này.
Là nhân vật xuất hiện sau cùng trong tác phẩm, bà cụ Tứ cũng là nhân vật được tác giả
đặt vào trong 1 tình huống ngang trái của cuộc đời cùng với thị và Tràng. Tình huống
đặc biệt quan trọng ấy đó chính là việc con trai của bà – nhân vật Tràng – một chàng
trai thô kệch từ ngôn ngữ đến dáng hình, một chàng trai vốn xuất thân là dân ngụ cư
nghèo khổ thế nhưng vẫn lấy được vợ – nhân vật Thị. Chính vì thế, một người làm mẹ
như bà sao không khỏi có những băn khoăn, trăn trở của riêng mình trước cảnh ngộ
của bà và con. Những trăn trở băn khoăn ấy xuất hiện ngay chính trong diễn biến tâm lí của bà…
Khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, ta thấy ngay từ khi nhìn thấy Thị, dù
không biết thị là người vợ mà con trai nhặt được, bà cụ Tứ đã có những biểu hiện tâm
trạng của một người mẹ nặng nỗi lo toan. Xuất hiện trên trang viết của nhà văn Nam
Cao trong cái dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm thiên bẩm toán gì trong miệng”, với việc “lọng
khọng” và tiếng ho “húng hắng”, trong hoàn cảnh cái đói khắc nghiệt, có lẽ bà cụ Tứ
đang lo nỗi lo cơm áo gạo tiền.
Dù đã bước qua tuổi thuộc cái dốc bên kia cuộc đời nhưng dường như bà chưa bao giờ
hết lo thế nên nỗi khổ tâm bà mang mới cắt hình rõ rệt trên cái dáng người “lọng
khọng” ấy. Cái lo cũng xuất hiện ngay từ lúc bà gặp người phụ nữ xa lạ trong chính
ngôi nhà đất của mình.
Ban đầu bà đã cảm thấy sự khác thường khi Tràng vui mừng và thổ lộ sự sốt sắng lúc
đón mẹ về. Bà “nhấp nháy” nhìn Tràng đầy thắc mắc nhưng rồi đã theo anh vào trong
nhà với tâm trạng “phấp phỏng” lo âu. Điều bà thắc mắc về biểu hiện khác lạ của anh
Tràng được hé mở khi bà thấy thị, bà “đứng sững lại”, “ngạc nhiên” và băn khoăn:
“Quái, sao lại sở hữu người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ?”. Bà còn hoang mang khi
thị chào mình bằng u. Đến lần thứ hai thị chào “U đã về đấy ạ!”, nỗi băn khoăn ấy của
bà vẫn không hề nguôi bớt.
Có phải chính vì sự ngang trái mà hoàn cảnh gieo rắc trong trang đời mà việc con cần
lập gia đình, bà vô tình không nhớ tới. Làm thế nào có thể trách bà được khi mỗi bữa
cơm để sở hữu thể sống từng ngày, bà còn phải tính sao cho vừa vặn? Làm thế nào có
thể trách bà được khi hôm nay còn nặng nề chuyện đói no chứ nói gì đến chuyện xây dựng gia đình cho con?
Bên cạnh đó, người đọc cũng nhận thấy khi được Tràng giải thích rõ sự tình: “Nhà tôi
nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! […] Chẳng qua nó cũng là cái số cả”, lúc này thì
bà mới vỡ lẽ mọi điều. Bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu nỗi buồn tủi, nghẹn ngào hóa
thành cái “nín lặng”: “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ còn hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán lại vừa xót thương cho số kiếp người con mình”.
Bà vẫn biết chuyện con cháu lập mái ấm là lẽ thường ở đời: “Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, rồi những mong sinh con đẻ cái
mở mặt sau này” nhưng sao với gia cảnh của mình lại khó khăn đến thế: “Còn mình
thì…”. Biết bao nhiêu cảm xúc, nỗi xót xa vỡ ra, bà lão dường như không thể kìm nén
được nên “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai làn nước mắt” cùng với nỗi lo
lắng khôn nguôi: “biết rằng chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này sẽ không”.
Bà có nỗi lo ấy cũng là điều đơn giản hơn nhiều hiểu vì trong thời đại phải lo cho
được miếng ăn thế nào để không khỏi chết đói đã là chuyện khó khăn huống hồ chi là
xây dựng tổ ấm. Liệu rằng người con trai xấu số và người đàn bà cũng xấu số không
kém kia có cùng nhau vượt qua được những ngày tháng khổ sở này hay chỉ trong nay
mai sẽ đứt gánh đơn giản hơn nhiều dàng như chính cái cách họ đến với nhau.
Lo là lo thế nhưng bà cụ Tứ vẫn xúc động vì con bà cuối cùng cũng có thể có ngày lấy
được vợ như người ta và mủi lòng thương người phụ nữ xa lạ: “Người ta có gặp bước
khó khăn, đói khổ này thì người ta mới lấy đến con mình”. Thế nên, bà xem đó là ý
trời và phó thác cho cuộc đời đã run rủi cho con bà nên duyên nên số với thị: “Thôi thì
bổn phận bà là mẹ, mà bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra thì qua khỏi được
cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có thể có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông
giời bắt chết cũng phải chịu chứ giờ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Bà lão day dứt vì chưa làm tròn bổn phận của một người mẹ với con nhưng mặt khác
cũng hàm ân khi người phụ nữ kia đã hỗ trợ con bà có hi vọng về một mái ấm. Câu
nói nhẹ nhàng với thị cũng đó chính là cách thể hiện sự đón chào của bà với nàng dâu
mới: “Ừ, thôi thì những con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”.
Tiếng “mừng lòng” nghe sao đỗi thật thương, thật quý. Quý sao cho tấm lòng rộng
lượng đã đồng ý cho một người phụ nữ xấu số về làm dâu trong một gia đình có gia
cảnh cũng rất khó nghèo của mẹ con bà.
Và cũng thương sao cho một trái tim dạt dào tình thương con, xót xa nhìn người con
tội nghiệp có cơ hội được vun đắp mái ấm dù chỉ bằng sự nhặt nhạnh, chắp ghép
không chủ định. Bà nghĩ: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy” nhưng biết
con làm rõ gia cảnh khốn khó của mình, bà chỉ từ cách khuyên con và động viên con:
“Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá”.
Bà gieo vào lòng con niềm tin: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
nhưng cũng sụt sùi thương xót để “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Chính những
biểu hiện đó nơi bà đã hỗ trợ người đọc có thể cảm nhận được một tấm lòng nhân hậu
mông mênh và tình yêu thương của người phụ nữ nhân hậu, tình thương ấy bà giành
cho người con trai rứt ruột sinh thành và cũng giành cho khắp cơ thể phụ nữ cơ hàn, khốn cùng.
Không chỉ có thế, khi phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, ta cũng nhận thấy hôm
sau cái ngày Tràng có vợ, đặc biệt quan trọng là trong bữa cơm ngày đói, những biểu
hiện trong tâm trạng của bà cụ Tứ khiến người đọc lại càng mến phục bà hơn.
Có nàng dâu mới, tâm trạng của bà như cũng được thay mới với việc “nhẹ nhõm, tươi
tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà cùng thị
“lúi húi giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở” rồi lại “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà
cửa”. Cử chỉ nhanh nhẹn, linh hoạt ấy đã thay thế hoàn toàn cho cái sự “lọng khọng”,
“húng hắng” thường trực nơi bà. Trong cảnh cực khổ, bà lại tin việc “thu xếp nhà cửa
cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói lại càng khiến ta cảm động hơn nữa. Mặc dù “giữa cái
mẹt rách nát có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” có lẽ
hiếm hoi lắm, bà cụ Tứ mới nói đến chuyện tương lai đầy hứa hẹn và vui vẻ như vậy:
“Khi nào có tiền thì ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu khu nhà bếp kia sẽ
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại thì chả mấy mà có đàn gà cho mà xem”.
Trong hiện thực đói nghèo thảm hại phải ăn cháo cám thay cơm, bà vẫn thấy vui lòng:
“Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”, đến khi tiếng trống thúc thuế nổi lên, bà cũng
không muốn nhìn thấy sự buồn tủi, lo lắng nên mới “ngoảnh mặt vội ra ngoài” để mà
khóc. Bà đó chính là người thắp lên nguồn sống mới cho mọi người trong nhà để xua
tan những đau khổ, chết chóc đang bủa giăng, chực chờ cướp đi sinh mạng của gia đình mình.
Bà hỗ trợ cho không khí gia đình mình trở nên nhẹ nhàng, có niềm tin và hi vọng hơn
về một ngày có thể vùng thoát khỏi không gian sống tối mờ, lay lắt, lẫn lộn cả sự sống
và cái chết. Đó đó chính là ý thức vươn lên của một người ở cái tuổi xế chiều và cũng
là biểu hiện của một tình yêu thương con vô bờ bến. Bà nhận định rằng mình không
làm tròn bổn phận với con nhưng cái cách bà giúp các con tin tưởng hơn về một tương
lai mới đó chính là minh chứng chân thật nhất cho việc hết lòng vì các con của một người mẹ.
Từ diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ cũng như thông qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân
thổ lộ tấm lòng trân trọng, nâng niu khi đối chiếu với những con người sống mấp mé
bên bờ vực của cái chết. Bằng phương pháp xây dựng tình huống và việc khai thác,
miêu tả tâm lí nhân vật, Kim Lân đã hỗ trợ người đọc cảm nhận được ở những người
dân sống kiếp cơ cực, khốn cùng những vẻ đẹp vô cùng quý giá.
Có thể thấy rằng, đằng sau cái phức tạp trong diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ đó chính là
một tình yêu thương thâm thúy của một người mẹ hiền từ với Tràng, một người phụ
nữ bao dung với thị. Chính tình yêu thương ấy của những người dân như bà là động
lực để thị, Tràng và những người dân cùng cảnh ngộ có thể đơn giản hơn nhiều dàng
vượt qua sự dồn đuổi của cái đói, cái chết vô cùng đáng sợ kia.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 12
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm hay của văn học Việt Nam với đề tài cuộc sống
người lao động trước Cách mạng. Xuất hiện trong truyện là ba nhân vật với những cơ
cực, tủi hờn khác nhau, nhưng có lẽ đáng thương hơn cả vẫn là bà cụ Tứ. Trong truyện,
nhà văn Kim Lân đã dừng lại miêu tả khá sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật này khi
bất ngờ đón nhận tin vui của cậu con trai: Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ có
qua được cơn đói khát này không!
Nếu được đọc Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ ít nhiều thấm thía cuộc sống cơ cực
của những người dân lao động. Bần cùng và bị bức bách đến mức tha hoá về nhân
phẩm là bi kịch lớn nhất mà chính họ phải chịu đựng. Nhưng cũng có những con
người trong cơ nhục vẫn bản lĩnh hay nói chính xác hơn là liều lĩnh chấp nhận thêm
những khốn khổ, vì một lẽ rất đơn giản: tình yêu, tình người. Đó là ai? Là chị Dậu, là mẹ con anh cu Tràng.
Nếu như người dân Nhật không bao giờ cho phép mình quên sự thảm khốc khi Mĩ
ném hai quả bom nguyên tử xuống và Nagasaki thì người Việt Nam lại không thể
quên năm 1945 bởi nạn đói chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến giờ, người ta
vẫn nhắc về nạn đói năm đó như nỗi kinh hoàng nhất. Trong Vợ nhặt, cái đói, cái chết
xuất hiện như một nhân vật có mặt khắp nơi. Người sống xanh xám như những bóng
ma và người chết như ngả rạ. Cõi sống lại như cõi chết, lúc nào cũng vẩn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Cố âm thanh đấy, nhưng không còn là
tiếng cười đùa ríu ran của bầy trẻ mà là tiếng quạ cứ gào lên từng hồi thê thiết nghe
thảm não. Ấy vậy mà khi tất cả mọi người đang quay quắt trong cái đói, đang từng giờ
cưỡng lại thần Chết thì anh cu Tràng lại làm một việc động trời lấy vợ. Nhưng mọi sự
đều có nguồn cơn của nó. Hàng xóm láng giềng không hiểu có thể cho anh cu Tràng
gàn dở, chỉ có bà cụ Tứ – người dứt ruột đẻ ra anh, người mà cuộc đời đã trải qua bao
cay đắng là thấm thía hết cơ sự.
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà là những việc trọng đại của mỗi con người, cần có sự tham
mưu của cha mẹ, của bề trên. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại được thông báo một
cách đột ngột, khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên khôn tả. Ban đầu chỉ là sự thắc mắc khi
thằng con trai sốt sắng săn đón khác mọi ngày: Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn
Tràng, chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu
chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng hai
chữ phấp phỏng để diễn tả sự lo lắng và nhẫn nại chờ đợi của bà lão. Hành động đứng
sững lại đưa nhân vật tới đỉnh điểm của sự ngạc nhiên. Ngòi bút nhà văn không đứng
ngoài quan sát mà nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật, thấu suốt nỗi băn khoăn đang nảy
theo những câu hỏi trong đầu bà lão: Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u? Không phải con cái Đục mà Ai thế nhỉ? Bốn câu hỏi âm thầm liên tiếp
bật lên trong suy nghĩ của bà cụ Tứ. Chính bà cụ không trả lời được nhưng cũng
không ai trả lời hộ bà. Mọi thắc mắc chỉ xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà
trong nhà- Không ngạc nhiên sao được khi ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con nay lại
có người thứ ba. Không ngạc nhiên sao được khi giả thuyết con cái Đục – đứa con gái
duy nhất đã không còn nữa? Thế mà vẫn có người gọi bà cụ bằng u. Sự điềm tĩnh vốn
có ở người già đã giúp bà cụ Tứ không phát hoảng lên. Nhưng đáng thương hơn bà cụ
lại tưởng mình nhầm lẫn: Bà cụ hấp háy cặp mắt cho đỡ cay. Rốt cuộc, nỗi băn khoăn
của bà cụ Tứ vẫn không được giải bày: Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Điều
này để lí giải bởi trước sự việc của Tràng, bà cụ Tứ hoàn toàn bị động. Mọi việc đang
đến với bà là sự đã rồi mà bà là người không hay biết điều gì cả.
Khi Tràng vẫn cố tình trì hoãn bí mật của mình, mời mẹ vào nhà ngồi chình chẽn, bà
cụ lập cập bước vào nhà. Đó là sự run rẩy của tuổi già hay là sự thấp thỏm, lo sợ
phỏng đoán những điều bất trắc có thể xảy đến? Với người mẹ nghèo khổ này, còn có
điều gì khủng khiếp hơn sẽ đến nữa đây? Hai chữ lập cập của Kim Lân làm dậy lên
trong lòng người đọc sự thương cảm sâu sắc. Biết trước sự việc rồi nhưng độc giả vẫn
hồi hộp chờ đợi phản ứng của bà cụ, vẫn nín thở xem bà cụ sẽ nói gì, làm gì?
Nhân vật của chúng ta vẫn không vỡ lẽ ra mọi chuyện khi cô dâu mới cất tiếng chào
lần thứ hai. Và dường như sốt ruột trước sự chậm hiểu của bà cụ, nhà văn còn để cho
Tràng chú thích: Kìa nhà tôi nó chào u. Vậy mà bà cụ Tứ vẫn không thể hiểu được sự
thể câu chuyện. Làm sao bà cụ hiểu được khi trong thâm tâm, chính bà cùng không tin
con trai mình có thể lấy vợ. Anh cu Tràng vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm sao
lấy nổi vợ? Với lại trong cái giai đoạn này, có ai còn nghĩ đến chuyện cưới xin được?
Nỗi băn khoăn của bà cụ chỉ hết khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua
nó cũng là cái số cả. Và thế là bà lão cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là nín
lặng – tức là im lặng, nín nhịn vì không thể nói được điều gì. Bà cụ Tứ đã hiểu hết
mọi chuyện. Kim Lân tiếp tục đồng cảm với những suy tư của bà để thấu hiểu hơn bao
giờ hết những tủi hờn, xót xa trong lòng bà cụ: Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu
ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Ai oán vì
sao? Xót thương vì sao? Bao cơ sự ấy là gì? Bà thấm thía lắm chứ. Những thổn thức
trong lòng bà cụ chỉ Kim Lân mới hiểu, cảm thông và giải tỏa cho bạn đọc hiểu được.
Thì ra suy nghĩ của bà cụ già không hề giản dị như chúng ta nghĩ. Cái nghèo đói
không làm bà cụ đi dãi chấp nhận cuộc sống buông tuồng. Bà cụ đang đau nỗi đau của
người mẹ không thể lo nổi cho hạnh phúc của con mình. Lời văn: Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ
cái mở mặt sau này. Còn mình thì là lời tự trách, là tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào của
người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà
cụ Tứ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực.
Đó là những giọt nước mắt khóc cho chính sự khốn khó của mình. Nhưng đó cùng là
những giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ cho nhân cách của
con người không sa xuống bờ vực của sự tha hoá. Người mẹ nghèo cũng chỉ còn
những giọt nước mắt ấy làm chứng cho tình yêu tha thiết đối với các con.
Thương đến cháy lòng, khổ đến cùng cực nên bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống
của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không? Băn khoăn ấy không phải không có cơ sở. Cả xóm ngụ cư, lớn
hơn là cả nước đang đảo điên trong nạn đói, giữ được mạng sống cho chính mình đã
khó, đằng này, anh cu Tràng lại còn đèo bòng. Nỗi lo lắng của bà cụ Tứ là nỗi lo của
người mẹ có trách nhiệm với con cái. Ở tuổi gần đất xa trời, bà có quyền vô lo vô nghĩ
đến những điều đó lắm chứ. Nếu không thương con, nếu không có trách nhiệm với
cuộc sống của các con, bà cụ đã chẳng nhọc lòng, khổ sở như vậy.
Trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở nửa sau của câu chuyện. Với những tình tiết
đã xảy ra phía trước, người đọc phỏng đoán bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với bộ dạng cay
nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng bất ngờ
trước thái độ của mẹ mình. Sự nhã nhặn trong cách cư xử, đặc biệt là chuỗi diễn biến
tâm trạng nhân vật khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật bà cụ Tứ. Trước mắt
chúng ta là một người mẹ hết lòng thương con, là một bà cụ nghèo khó nhưng phúc
hậu rất mực. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng bà cụ đã được Kim Lân ghi lại
một cách chân thật, xúc động.
Kim Lân là một trong những nhà văn có khả năng am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc.
Dưới ngòi bút của ông, những nông nổi sâu kín trong lòng người mẹ già được thể hiện
chân thực, tinh tế, xúc động và ám ảnh. Nếu không có sự yêu thương, cảm thông, chia
sẻ, nhà văn không thể thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn
văn ngắn như thế. Hậu thuẫn cho tấm lòng nhân đạo chắc chắn còn là bản lĩnh nghệ
thuật của người cầm bút. Hình ảnh bà cụ Tứ cùng với hình ảnh chị Dậu, hình ảnh
người vợ cam chịu, tảo tần trong sáng tác của Nam Cao đã làm nên sự bất tử cho hình
tượng người phụ nữ Việt Nam.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 13
Người mẹ Việt Nam luôn là một nguồn cảm hứng sáng tạo của văn chương. Không
một thể loại nào là không có các tác phẩm viết về mẹ. Trong các tác phẩm của nhà văn
của Kim Lân, người đọc chắc có lẽ không thể không bị ấn tượng bởi nhân vật bà cụ
Tứ. Bà là một người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương con người và có niềm tin vào tương lai.
Bà cụ Tứ là mẹ của anh cu Tràng. Trong tác phẩm, bà xuất hiện trước người đọc trong
bóng hoàng hôn tê tái, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào một cái
bóng đi vào ngõ. Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại. Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa
một người đàn bà về nhà làm vợ vào giữa ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình
rập gõ cửa từng nhà. Viết về bà cụ Tứ nhà văn đi sâu vào phân tích tâm lý và tấm lòng
nhân ái đáng quí đáng trọng của bà đối với các con.
Cũng như mọi người trong xóm ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và không thể hiểu
nổi điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như một đứa trẻ vồn vã
khác thường. Tâm trạng bà cụ Tứ trở nên phấp phỏng, có cái gì đấy bất thường đang
chờ đợi bà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn
ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ: "Quái sao lại có người đàn bà
nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia?
Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe
Tràng phân trần cắt nghĩa, bà cụ mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực,
xót thương lẫn vui mừng. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Trong lòng bà đầy những ám ảnh
của một dĩ vãng nặng trĩu những đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến
cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ôi, người
ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ
cái nở mặt sau này. Còn mình thì…" Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai
hàng nước mắt. Nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự
Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà xót thương người
đàn bà lạ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con gái xa lạ
bỗng trở thành con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.." Nghĩ thế bà vui trong
lòng, cử chỉ của bà dịu dàng âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" xưng hô "u"
một cách chân tình: "Thôi thì các con phải duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Với bổn phận làm mẹ, bà ao ước có được "dăm ba mâm" trước cúng tổ tiên sau mời
làng xóm. Có thể nói bà là người suy nghĩ trước sau song cái khó bó cái khôn, ao ước
giản dị ấy không thể thực hiện vì quá nghèo.
Thương con, bà thương dâu. Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi "Nhà
ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời
cho khá. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày
về sau". Bà lại động viên an ủi " cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi.
Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá".
Sáng hôm sau, con trai đã có vợ. Gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau bà
cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa." Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi
tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bữa cơm đãi
nàng dâu thật thảm hại. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một
đĩa muối ăn với cháo". Bà đãi nàng dâu mới món "chè khoán" cháo cám. Nhưng bà
toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, bà dặn con trai. Mấy hôm nữa mua ít
nứa về ngăn cho khỏi trống, có tiền nuôi mấy con gà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà
đem lại cho cá con niềm tin cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, tiếng
quạ kêu từng hồi thê thiết. Không khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói
trong bức tranh xã hội sáng hôm ấy, bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người.
Người mẹ không ao ước cho mình mà luôn sống vì con, cho con, cho lớp con cháu mai sau.
Nhân vật bà cụ Tứ tưởng như không thể có được nhất là trong hoàn cảnh gia đình bà,
sự tăm tối của xã hội. Ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ niềm tin hi
vọng vào tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà được tác giả diễn
tả tinh tế qua cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lý nhân vật, góp phần
khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 14
Những người mẹ luôn là người đem lại tình thương yêu lớn nhất, tình yêu bao la ấy có
thể vượt qua những khó khăn, những thiếu thốn vật chất để mang lại một cuộc sống an
lành hạnh phúc cho nhau. Trong nền văn học Việt nam biết bao nhiêu nhà văn xây
dựng được hình tượng người mẹ như thế. nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng
người mẹ đầy đức hi sinh là người đàn bà hàng chài thì Kim lân lại xây dựng thành
công nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt. ngoài những phẩm chất của bà thì
nhà văn đi vào miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật này. Để từ đó chúng ta càng thấy
được những hi sinh, những nỗi niềm thương con vô bờ bến của bà.
Cụ Tứ là một người đã có tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chồng
bà sống với con trai tên là Tràng. Hai mẹ con bà xuất hiện trong nền cảnh của nạn đói
năm 1945. Có thể nói chính hoàn cảnh khó khăn ấy càng làm nổi bật lên diễn biến tâm
lý và phẩm chất của bà. Bà vẫn còn phải ra ngoài kiếm đồng rau cái muối, vẫn biết
bao nhiêu nắng mưa, gánh nặng đổ lên đầu và trong buổi chiều hôm ấy bà bất ngờ
trước hành động của con trai mình. Diễn biến tâm lý cũng bắt đầu từ đó.
Cụ về đến đầu cổng cái ho thúng thắng của tuổi già cất lên, cụ thấy bất ngờ khi Tràng
tỏ ra vui mừng đến thế. Sau câu nói cất lên “U đã về rồi đấy à” cùng với tâm trạng và
hành động của Tràng linh cảm của một bà mẹ như giúp bà nhận ra rằng có một điều gì
đó bất bình thường. Chính vì thế cụ Tứ lo lắng lắm và cứ thế tâm lý của cụ càng ngày
càng diễn biến đến tầm cao hơn. Từ lo lắng bất thường cụ ngạc nhiên khi thấy sao lại
có người đàn bà nào ngồi đầu giường thằng con trai mình thế kia. Những câu hỏi liên
tiếp được cất lên cho thấy tâm trạng bối rối của người mẹ. bà chưa biết là ai nhưng
linh cảm cho bà thấy một điều bất thường và cuối cùng thì nó đã đến.
Bước chân của cụ Tứ bước vào đến nhà cũng là tâm lý đạt tới đỉnh điểm. Từ chỗ ngạc
nhiên khi người đàn bà ấy lại gọi bà bằng “u” đến chỗ Tràng nói “kìa nhà con nó chào
u đấy”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được cụ Tứ đang mắt tròn mắt dẹt nhìn người
đàn bà rồi lại nhìn con mình mà không hiểu. Và tai bà dường như không nghe thấy gì
nữa. Một cảm giác khó tả diễn ra trong người phụ nữ ấy. Thế rồi bà như vỡ lẽ ra mọi
chuyện khi Tràng nói thêm về tình cảnh này. Bà buồn bà giấu những giọt nước mắt
của mình mà chấp nhận. Tại sao vậy đáng ra nhà có hỉ thì phải vui mới đúng chứ thế
mà ở đây bà lại khóc. Không phải bà không thích có con dâu nhưng trong hoàn cảnh
miếng ăn còn chưa lo được thì lấy nhau về lại chỉ khổ thêm. Vì thế bà buồn bà thương
con trai mình rồi nhìn người đàn bà vân vê tà áo đã rách bợt cũng thấy thương cô ấy.
Vậy nên bà nhắm mắt mà chấp nhận “Thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau
thì u cũng mừng lòng”. Có thể nói sau cái gật đầu kia là cả một nỗi lòng người mẹ, lo
lắng cho con với cuộc sống sau nay. Bà thì thế nào cũng được nhưng bà không muốn
con của bà thì bà muốn nó được sống cho qua cái tao đoạn này. Những cảnh tượng
khói mờ mịt bên ngoài như nói thay cho tâm hồn của người mẹ ấy.
Khi bà đã vơi đi nỗi lòng ấy bà với trách nhiệm của người mẹ bà như khơi sáng cho
con mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai. Bà nói rằng không ai giàu ba họ không
ai khó ba đời cả vì thế chỉ cần qua cái tao đoạn này thì chính họ yên bề gia thất. Bà lấp
đi trong chính mình cái thực tại đen tối để rồi cùng con cái mình nghĩ về những chuyện tương lai.
Buổi sáng hôm sau với bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới. bà dậy sớm cùng con dâu
sửa soạn lại căn nhà quét dọn sạch sẽ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến. Và ta cũng
cảm thấy được những nét tâm trạng vui vẻ của bà khi thấy con mình hạnh phúc. Bữa
cơm ấy bà là người nói nhiều nhất dường như bà không thể nào dấu đi niềm vui trong
lòng mình. Bà nói với Tràng về việc chỗ kia sẽ làm một cái chuồng gà nuôi hai con gà
để mỗi ngày nó đẻ trứng ra ăn. Niêu cháo đơn sơ ấy chỉ vẻn vẹn có nồi cháo hoa thế
nhưng mọi người ăn rất ngon cũng như bà đang rất vui. Hết cháo bà quyết định mang
nồi “chè” đãi các con. Thật ra thì đó là cám thế nhưng bà không muốn các con đói và
bà cũng muốn níu giữ cái không khí vui vẻ hạnh phúc ấy. Biết rằng Tràng và vợ thấy
chát ở trong lòng nên bà an ủi rằng nhiều người còn không có cám mà ăn. Vậy là
người mẹ ấy với những phẩm chất của mình đã đem đến cho các con những niềm yêu
thương niềm tin vào tương lai.
Như vậy có thể nói bà cụ Tứ đã diễn ra những cung bậc cảm xúc từ cao đến thấp từ
buồn đến hạnh phúc vui tươi. Cuộc sống dẫu có vất vả đói nghèo cái chết tử thần thì
lúc nào cũng cận kề thế nhưng bà vẫn cưu mang lấy người đàn bà kia, yêu thương con
trai và hướng cho họ cái nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 15
“Vợ nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được nhà văn Kim Lân viết ngay
sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau
này, dựa vào một phần cốt truyện cũ của “Xóm ngụ cư”, nhà văn Kim Lân đã bổ sung
và cho ra đời truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm lấy bối cảnh nạn đói hoành hành tại
nước ta năm 1945 khiến 2 triệu người dân chết đói. Trong truyện ngắn, bên cạnh nhân
vật Tràng, người vợ nhặt, nhân vật bà cụ Tứ được xây dựng rất thành công bằng nghệ
thuật miêu tả tâm lý tinh tế, qua đó ta có thể thấy rõ tấm lòng, đức hy sinh của một
người mẹ nông dân trước Cách mạng.
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, một thanh niên có ngoại hình thô kệch nhà nghèo phải ở
trong xóm ngụ cư, đã lớn tuổi mà chưa lấy được vợ nhưng đặc biệt tốt bụng, được mọi
người yêu mến. Giữa lúc nạn đói đang hoành hành, khắp nơi người chết đói như ngả
rạ, vì chiêu đãi không toan tính một cô nàng bốn bát bánh, được người ta theo về,
Tràng có vợ. Việc anh Tràng dẫn một người phụ nữ về nhà không chỉ khiến cả xóm
ngụ cư ngạc nhiên mà chính người mẹ Tràng – bà cụ Tứ vô cùng sửng sốt: “Bà cụ Tứ
phấp phỏng bước theo Tràng vào nhà. Đến giữa sân bà đứng sững lại, bà càng ngạc
nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại đứng ngay đầu
giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái
Đục kia mà. Ai thế nhỉ?”.
Tràng vốn xấu trai, ế vợ vậy mà tự dưng dẫn ngay một cô vợ về giữa lúc đói kém,
điều này khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, hàng loạt câu hỏi được đặt ra trong tâm trí của bà.
Bà không tin vào mắt mình, vào tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn
vì tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”.
Từ sự sửng sốt, bất ngờ, ngạc nhiên vì có một người phụ nữ theo con trai mình về làm
vợ, nhận mình làm mẹ, khi được Tràng giải thích, bà cụ Tứ hiểu ra đầu đuôi câu
chuyện, tâm trạng bà cụ Tứ trở lên vô cùng phức tạp. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa
thương, vừa tủi. Bà mừng vì con trai mình đã có một người vợ, yên bề gia thất. Nhưng
bà lão cũng lo lắng không biết liệu vợ chồng Tràng có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát.
Với trách nhiệm của một người mẹ, bà lại thấy tủi: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái để mở
mặt sau này. Còn mình thì… trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống 2 dòng nước
mắt”. Thương con trai, bà lão cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo ấy vừa ai oán
vừa xót xa cho số kiếp con trai mình, rồi bà nghĩ đến ông lão, đến cô con gái út, đến
cuộc đời bà, bà trăn trở cho vợ chồng Tràng, lấy nhau lúc này, liệu cuộc đời có hơn bố mẹ ngày trước?
Sở dĩ bà cụ Tứ có những tâm trạng phức tạp như trên là do xuất phát từ tấm lòng của
một người mẹ hết mực thương con, hổ thẹn vì không làm tròn bổn phận, trách nhiệm
với con cái. Nhưng trong cái buồn, cái tủi, cái lo lắng ấy của bà cụ Tứ, ta vẫn thấy sự
lạc quan, niềm vui le lói, một niềm vui tội nghiệp. Bà vui trong ý nghĩ tốt đẹp về
tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá (…) ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Trong
bữa ăn sáng với con trai và con dâu, bà nói toàn chuyện vui sung sướng về sau. Bà vui
trong công việc sửa sang vườn tược nhà cửa, bà lão dọn cỏ dại, quét tước nhà cửa,
“cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà vui vì nhà còn có bữa cơm sáng
có nồi “chè khoán” nấu bằng cháo cám để ăn trong khi nhiều nhà cũng không có.
Những niềm vui nhỏ bé, người mẹ ấy cố thắp lên sưởi ấm lòng con, tiếp cho con sự
lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Những niềm vui nhỏ ấy rất mong manh nhưng vô cùng đáng trân trọng.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện gần về cuối tác phẩm
nhưng được khắc họa đậm nét, thành công thông qua nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm
lý nhân vật. Ngôn ngữ nhà văn thể hiện chọn lọc, tinh tế, giàu hình ảnh, hành động
phát triển phù hợp với diễn biến tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ là đại diện tiêu biểu cho
hình ảnh người mẹ nông dân Việt Nam nghèo khổ nhưng giàu lòng thương con, giàu
đức hy sinh, vị tha. Nhân vật này tô đậm giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, một
nhân vật không thể thiếu tạo nên sự thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 16
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim
Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về
cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân
chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân
viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân
tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ
nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con
người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít
gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng
của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng
quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những
người lao động nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng
cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ", nói như
người miền Trung và miền Nam là "lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại
có ý nghĩa nhân ái của một tấm lòng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn
sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ
cho tương lai, anh vẫn không nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng
vừa lo lắng bâng quơ và sung sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm...
Nhân vật thứ hai của câu chuyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến
nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật
đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ
khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ "đứng sững lại" hết sức ngạc nhiên,
"thế là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng
khi hiểu ra cớ sự, "bà lão cúi đầu nín lặng", bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa
con mình và cho thân phận của mình. "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối
xóm. "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai
người ta chấp nhặt chi cái lúc này chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi
khổ tâm đau xót ấy cô đọng lại, biến thành những "dòng nước mắt chảy xuống ròng
ròng" thật tội nghiệp. Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ
(phải rước dâu vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám
cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội.
Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám cưới là một bữa "chè cám".
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế
nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng thở phào
một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách
mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao
người ta chịu lấy con mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi
trường xã hội phong kiến khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà
"nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực
khổ như mình "lòng đầy thương xót". Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi
người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: "Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân". Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy
ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ".
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì
bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động
viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu
mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện
tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy
mà có ngay đàn gà cho mà xem". Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của
bà mẹ dường như cũng được đổi khác, bà "cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thương, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh
phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được
một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ
nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo
khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện
ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc.
Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ
tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân
ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù
nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê
phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối
tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc
sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm "lá
cờ đỏ bay phấp phới" thể hiện niềm tin đó.
Phân tích bà cụ Tứ - Mẫu 17
Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng
ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của
nhà văn. Vợ nhặt - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản
năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ
cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp
thuộc. Bối cảnh của truyện là trận đói kinh khủng năm 1945. Nhà văn kể về chuyện
anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như rạ. Trong ba nhân
vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ anh cu Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm
lặng ... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm
nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró
trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những cái bụi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là
những "niêu bát, sống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo
khổ "hung hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng khọng đi vào ngõ". Bà cụ
ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con
mình. Bà lão "đứng sững lại ", càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại
chào mình bằng u? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhi?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt
mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão
"băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng
giới thiệu người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn
bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm
xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay
đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy vừa ai oán, vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn ủi. Tiếng than, tiếng
thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những
tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời
đầy cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì..."
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không!". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con
gái chết theo. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có
tật vừa đi vừa lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống
độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ già càng thấy buồn, lo vô
hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ ngay đến cái may của gia đình mình:
Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con
mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui
xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới.
Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi xưng hô một
cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà
vui mừng từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng
mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ
thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "cốt làm sao cho chúng mày
hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...''.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ
chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già
lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng
lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "rồi ra may mà ông trời cho khá...
biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau..."
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu
tình nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rồi
và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất
vui. Trong bữa bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng này. Bà gọi nồi cháo
cám "đắng chát" là "chè khoán", rồi rít khen ngon đáo để,ít nhiều tự hào, an ủi động
viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta
khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy!".
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của
Kim Lân khi khắc họa tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng
mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: "hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung
hoành ngay lối đi đã được hốt sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm như tổ đĩa vẫn vắt
khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra phơi...". Nhà cửa, sân ngõ được quét
dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu "lúi húi" giẫy cỏ. Cuộc đời của bà,
của con bà, gia đình bà bắt đầu đổi thay. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người
thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng hà "không dám để con dâu
nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá
kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói
chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ
chồng Tràng đi tới để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi
vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã
có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa"
Cuộc đời của mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất
Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới
cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt này.
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 18
Đoạn trích Vợ nhặt của Kim Lân đã thành đề tài bàn luận không chỉ của tác giả mà
còn của nhiều độc giả đón đọc. Thành công của tác phẩm không dừng lại ở việc khắc
họa hiện thực xã hội đói nghèo và thiếu thốn, người chết như ngả rạ, khắp nơi bao
trùm bởi không khí tang thương mà còn là vẽ ra những mảnh đời, những câu chuyện
bình dị nhưng vô cùng ý nghĩa. Bên cạnh Tràng - nhân vật chính của câu chuyện, còn
có chị vợ và bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Tuy xuất hiện ít hơn nhưng nhân vật bà cụ Tứ
để lại nhiều ấn tượng và sự thương cảm trong lòng người đọc.
Qua miêu tả của Kim Lân, bà cụ Tứ là một bà cụ tuổi đã già, những cử chỉ của bà
chứng tỏ bà là người bắt đầu bước sang tuổi già yếu, mắt kèm nhèm, vì hoàn cảnh đói
nghèo thiếu thốn cho nên bà có khuôn mặt bủng beo, u ám, bước đi chậm rãi. Những
hành động của bà không còn nhanh nhẹn mà chậm rãi và từ từ, như sợ mình không thể
làm được mọi thứ một cách nhanh gọn như thời còn trẻ. Nhưng dáng vẻ đó của bà cụ
Tứ thay đổi khi bà lần đầu nhìn thấy Tràng - đứa con trai tội nghiệp, vì đói nghèo, khổ
ải mà không lấy được vợ, không gây dựng được hạnh phúc gia đình. Như lời bà nói thì
đến cái thân mình còn lo chưa nổi nữa là lo đèo bòng. Nhưng số kiếp, duyên số đã vồ
lấy nhau thì có muốn tránh cũng không được, mắt bà cụ hấp háy như thể xác minh lại
điều mình thấy đã đúng chưa hay chỉ là do tuổi già. Người phụ nữ ngồi trên giường,
tay vin vào áo, vừa e thẹn rồi lại cất tiếng chào u.
Bà cụ Tứ dù sống trong kiếp sống nghèo khổ nhưng không thể phủ nhận rằng, ở bà
vẫn tồn tại một nỗi niềm và tình yêu thương vô bờ bến mà bà đã dành cho con của
mình. Từ bây giờ đứa con dâu kia cũng trở thành con một nhà. Hoàn cảnh thiếu thốn
nhưng không có gì là không làm được. Từ hai bàn tay có thể làm được nhiều điều hơn
nữa, không chỉ dừng lại ở việc, lôi nhau về, rồi cuối cùng chịu số phận kiếp nạn đói
nghèo mãi được. Bà rơi nước mắt vừa mừng vừa tủi cho bọn chúng - đứa con trai và
con dâu tội nghiệp của bà. Khóc vì cuối cùng con trai bà cũng lấy được vợ, nhưng
khóc vì tương lai đói nghèo, cái đói còn đeo đuổi những con người này tới bao giờ. Bà
rồi mai này già yếu bà không lo, nhưng còn những đứa con, không biết cái đói sẽ
khiến bà đi tới đâu về đâu.
Dù sống trong hoàn cảnh nào nhưng bà cụ Tứ vẫn lạc quan niềm tin yêu vào cuộc đời,
và tương lai của hai đứa con của bà. Niềm vui nho nhỏ của một người mẹ già yếu
chính là thấy những đứa con của mình no ấm hạnh phúc. Bạn muốn thay đổi diện mạo
cuộc sống, muốn mọi thứ trở nên sạch sẽ và tinh tươm, không còn tù mù như trước
nữa. Dặn dò những đứa con của mình, bà cũng mong muốn chúng bắt đầu cuộc sống
và bước sang một trang mới. cuộc sống của dâu mới không được danh chính ngôn
thuận cưới về, không có mâm bàn mời bà con lối xóm, nhưng chắc chắn một điều rằng,
từ nay trở đi bạn có thêm một đứa con. Sáng sớm tinh mơ mọi thứ được dọn dẹp sạch
sẽ, bụi quang rậm cũng được phát bỏ. Một chi tiết được tác giả gây dựng khiến độc
giả vừa ngậm ngùi thương xót chính là hình ảnh mà bà cụ Tứ lễ mễ bưng một nồi nghi
ngút. Bữa cơm đón dâu mới theo lời bà cụ nói là “chè“ nhưng thực chất chỉ là cám.
Miếng cám đến mặn chát và đắng ngắt khiến cho cô con dâu nghẹn ứ, mặt xám lại,
không ai nói với ai một lời. Nhưng thông qua lời nói của bà, cách bà gọi đây là chè
khiến cho cuộc sống nghèo khổ bớt nhạt nhẽo.
Tóm lại, bà cụ Tứ tuy xuất hiện ít trong đoạn trích nhưng những gì bà để lại khiến bản
thân chúng ta phải suy ngẫm. Đó là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu và đức hi
sinh. Cuộc đời bà như thế nào cũng được nhưng còn con của bà, chúng phải thay đổi
và cuộc sống của chúng sẽ tốt lên. Bà cụ Tứ còn gieo vào những người con của mình
một niềm tin yêu, lạc quan vào cuộc sống và về tương lai sau này.
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 19
Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi
Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt’
Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc
Đói quắt quay nhưng tha thiết con người.
Chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng cũng đủ để gợi lên trong chúng ta thật nhiều suy nghĩ
về truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân - cây bút chuyên hướng ngòi bút
truyện ngắn của mình về cuộc sống và người dân quê. Và để rồi, khi đọc truyện ngắn
“Vợ nhặt”, người đọc sẽ đồng cảm với số phận, cảnh ngộ và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn
của người nông dân trong nạn đói năm 1945 và một trong số đó chính là nhân vật bà cụ Tứ.
Chắc hẳn, khi đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” điều đầu tiên khiến người đọc tiếp xúc với
bà cụ Tứ đó chính là ở dáng người lọng khọng với tiếng “húng hắng ho”, “vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà sống cùng người con trai là người dân của xóm
ngụ cư, sống cùng nhau trong một căn nhà tồi tàn, “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Nhưng có lẽ, điều để lại ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc về bà cụ Tứ không phải ở ngoại hình nhân vật, ở hoàn cảnh sống của
bà mà ở chính những diễn biến tâm trạng, những cung bậc cảm xúc của bà.
Chắc hẳn, những ai đã đọc truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân sẽ không thể nào quên
được bối cảnh khủng khiếp của nạn đói năm 1945 - người chết nằm ngổn ngang khắp
lều chợ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối, âm thanh của tiếng quạ kêu, của tiếng người
khóc hờ trong đêm và hình ảnh của những người sống dắt díu nhau, xanh xám, trông
như những bóng ma. Ấy vậy mà, giữa cái bối cảnh thê lương, u ám, tối tăm ấy, Tràng
- một người dân xóm ngụ cư xấu xí lại nhặt được vợ. Và buổi chiều hôm ấy, khi bà cụ
Tứ về đến nhà thì bỗng thấy người đàn bà lạ xuất hiện trong ngôi nhà của mình và
Tràng - con trai bà giới thiệu rằng thị là vợ Tràng, là con dâu của bà. Chính sự kiện
này là yếu tố ngoại cảnh tác động và làm nảy sinh những diễn biến tâm lí, những cung
bậc cảm xúc phức tạp của bà cụ Tứ.
Đầu tiên đó chính là sự ngạc nhiên, “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Có lẽ, sự
ngạc nhiên đã được thể hiện một cách chân thực và rõ nét qua hàng loạt câu hỏi liên
tiếp của bà cụ Tứ trong một đoạn văn rất ngắn “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở
trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?
Sao lại chào mình bằng u?… Ai thế nhỉ?” Những câu hỏi ấy của bà cụ Tứ không phải
để kiếm tìm một câu trả lời mà hơn hết nó dùng để thể hiện sự ngạc nhiên đến tột cùng
của bà cụ Tứ. Sự ngạc nhiên ấy của bà không phải vì bà thực sự không hiểu chuyện gì
đang xảy ra mà bởi tất cả mọi thứ đến quá nhanh, quá đột ngột, việc Tràng có vợ đối
với bà là một điều xa vời với bà nên khiến bà không thể tin nổi đấy là sự thật.
Từ sự ngạc nhiên, “tỏ ý không hiểu ấy” bà cụ Tứ dần hiểu và “lòng người mẹ nghèo
khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”. Lòng người mẹ ấy “vừa ai oán, vừa xót
thương cho số kiếp đứa con trai mình”. Nỗi lòng người mẹ ấy thật đáng thương biết
bao “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên, làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt mày sau này. Còn mình thì…”. Một câu văn
được bỏ lửng giữa chừng nhưng đã mở ra trong lòng người đọc biết bao nỗi niềm, bao
cơ sự, bao nỗi ngổn ngang, rối bời trong lòng người mẹ ấy. Có lẽ, bà đang tự trách
chính bản thân mình vì đã không lo nổi cho con có cuộc sống như bao người. Và rồi,
bà khóc “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cái cơn đói khát này không”. Những giọt
nước mắt trên gương mặt khắc khổ ấy của bà cụ Tứ là giọt nước mắt của lòng thương
con, lo lắng cho con và cả sự tủi thân vì bà không làm trong trách nhiệm, bổn phận
của một người mẹ nhưng đồng thời, đó còn là giọt nước mắt, là tiếng khóc của niềm
vui, của sự hạnh phúc khi con trai bà đã có vợ.
Đồng thời, đằng sau giọt nước mắt của cả niềm vui và nỗi buồn trộn lẫn vào nhau ấy,
bà cụ Tứ mở lòng, vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới với tấm lòng yêu thương, cảm
thông. Bà nói với “nàng dâu mới” bằng cái giọng nhẹ nhàng “Thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Với bà cụ Tứ, cuộc hôn nhân của
Tràng và thị cũng đẹp đẽ, cũng đáng trân trọng như những cuộc hôn nhân khác bởi lẽ
cuộc hôn nhân nào cũng bắt nguồn từ cái duyên, cái phận với nhau. Dường như, ở đây,
bà cụ Tứ không chọn điểm nhìn của người mẹ chồng dành cho nàng dâu mà bà lựa
chọn điểm nhìn của những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung số phận để
thấu hiểu, để cảm thông. Chính những điều đó đã cho chúng ta thấy, bà cụ Tứ không
chỉ là người yêu thương con, luôn dành cho con tình yêu thương vô bờ bến mà bà còn
có tình người, lòng yêu thương với những người nghèo khổ.
Đặc biệt, tâm trạng bà cụ Tứ đã có nhiều thay đổi, vui vẻ và rạng rỡ hơn trong buổi
sáng hôm sau – “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Giờ đây, niềm hạnh phúc, vui sướng và phấn
khởi của bà cụ Tứ đã hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ, u ám, buồn bã thường ngày
của bà. Đặc biệt, niềm vui sướng, hạnh phúc ấy của bà còn được thể hiện rõ nét trong
bữa cơm sớm. Mặc dù, bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có “độc một lùm rau
chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng dường như cả nhà đều ăn rất ngon
lành và vui vẻ. Thêm vào đó, trong bữa cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện
sung sướng về sau này”. Tất cả những điều đấy phải chăng đều xuất phát từ niềm vui,
niềm hạnh phúc không xiết ở trong bà và bà cụ Tứ đã gieo vào lòng con lòng lạc quan,
yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Có thể nói, tâm lí nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả một cách hợp lí, phù
hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật: từ ngạc nhiên, không hiểu tới hiểu và hiểu
ra bao cơ sự. Đồng thời, từ tâm lí nhân vật bà cụ Tứ chứng tỏ Kim Lân là nhà văn rất
am hiểu về tâm lí nhân vật, dường như, ông đã nhập mình vào nhân vật để cảm nhận
và nói hộ những sắc thái tình cảm, những diễn biến tâm lí phức tạp và đầy suy tư, trăn
trở trong sâu thẳm lòng mình của nhân vật.
Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ đã được nhà văn Kim Lân xây dựng thành công. Nhân vật
bà cụ Tứ đã góp phần thể hiện chiều sâu nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, đó chính là
sự phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nông dân nghèo khổ
nhưng giàu lòng thương con, giàu tình thương người, giàu đức hi sinh và sự vị tha
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, nhân vật bà cụ Tứ đã in đậm dấu ấn
nhân vật trong sáng tác của nhà văn Kim Lân - nhân vật của ông dù sống trong hoàn
cảnh túng khó, nghèo khổ vẫn luôn lạc quan, yêu đời và tin vào một ngày mai tươi sáng.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 20
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Đi sâu khai thác những
mảng tối của cuộc sống, Kim Lân phát hiện ra những điểm sáng trong tình người.
Trong đói khổ cùng cực, người ta còn sẵn lòng chia sẻ cho nhau. Hình tượng bà cụ Tứ,
một người mẹ nghèo khó nhưng có tấm lòng khoan dung và rộng lượng, thật đáng trân trọng.
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ
– mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu
sắc hơn . Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt,
Kim Lân muốn khắc họa số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng
Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận
khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường
như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc
của một người mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi
thế nhân vật phụ này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không
kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp
lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió
Cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo
hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường
của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở
đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già
nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không
phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được
giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoăn mãi
khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con
mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho
con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”.
Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm
cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm
ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy
nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta
có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới
có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người
đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khái này không?”.
Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng
mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai
giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải –
vừa lo lắng, vừa thương xót; “…Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này,
u thương quá…” “ bà nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con
dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và
nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân
hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần
trong “Một đám cưới” của Nam Cao.
Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp sự “không có
nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân
nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người
làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là
lời nói…Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít.
Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất
cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau –
“toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai…
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi
phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi
qua thì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiển
hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà
cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo
xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của
người già: “…chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo
cho hết được?” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ.
Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của
người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi
lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả
sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc
đời cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của
con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh
tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc
biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân
thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời –
những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho
tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động,
hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con
rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về
những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho
sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã
cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa
vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa
lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với
con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt
từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ.
Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt
dào như biển cả… Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành
trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào
ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà…
Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều
hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó
là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ
nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa
đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng
đâu chỉ dành cho tuổi trẻ – nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của
những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám
cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những
không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính
ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều… Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc,
khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”.
Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi
cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đã tươi cười múa cho con mà bảo: “Cám đây
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi,
nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao?
Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh
bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ
đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… Tội nghiệp thay niềm vui
của bà lão – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn
còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn… “Bà không
dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước
mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này.
Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái
tim người mẹ nông dân nghèo…
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo
trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu
thương và hết mình vì con – người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau hình tượng
bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần… những người sống
tận lòng cho những người thân yêu của họ.
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 21
Kim Lân với phong cách viết giản dị, gần gũi với đời sống của nhân dân nên ông được
xem là nhà văn của làng quê Việt Nam. Những sáng tác của ông luôn chạm vào trái
tim người đọc cảm xúc ấm áp, thân quen nhất. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời giữa bối
cảnh đất nước ta đang lầm than, nạn đói hoành hành. Tác giả đã khắc họa thành công
nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ khắc khổ nhưng tràn đầy tình yêu thương.
Bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm, bà chỉ xuất hiện khi anh cu Tràng
dẫn vợ vừa nhặt được về nhà. Có lẽ khoảnh khắc này người đọc sẽ bắt đầu nhận ra
được người mẹ nghèo này có thái độ, tình cảm như thế nào dành cho con.
Bà cụ Tứ hiện lên là người đàn bà khắc khổ, nghèo đói với cái dáng “lòng khòng”,
“khập khiễng bước từ ngoài cổng bước vào”. Với một loạt từ dùng để chỉ hình dáng
và cử chỉ của bà như “nhấp nháy mắt”, “lập khập bước đi”, “lề mề” đã gợi lên trong
lòng người đọc hình ảnh người mẹ già không còn khỏe mạnh và tinh anh nữa. Giữa
xóm ngụ cư nghèo đói, giữa sự tan tác, hoang sơ của cảnh vật và con người, hình ảnh
người mẹ này hiện lên khiến người đọc không khỏi xót xa.
Mặc dù bà chỉ xuất hiện khi Tràng dẫn vợ về nhà nhưng lại ám ảnh đến người đọc khi
đã gấp trang sách lại. Vì Kim Lân đã để cho bà xuất hiện với những nét tính cách và
tình cảm yêu thương, cảm thông, chịu thương chịu khó hết mực. Bà là một người mẹ vĩ đại và tuyệt vời.
Khi thấy một người đàn bà lạ xuất hiện trong nhà mình, tâm trạng của bà thất thường,
không yên và luôn tự hỏi là ai. Khi biết được sự tình, bà cũng không lớn tiếng, cũng
không xua đuổi. Bà chỉ lặng lẽ như chính cuộc đời của mình như vậy. Bà thương con
mình, thương cho người đàn bà lạ kia. Một tình thương sâu thẳm và bao la. Bà chỉ lo
“không biết chúng nó có sống nổi qua ngày không”. Nỗi lòng của người mẹ nặng trĩu
âu lo khi cái nghèo dồn dập và cái tình người thì vẫn còn đong đầy. Thấy con lấy vợ,
bà cũng mừng, nhưng bà lại tủi vì “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ này mới lấy
con mình, con mình mới có vợ được". Một sự nghiệt ngã đến đau lòng khiến bà càng
yêu thương con tha thiết hơn, và thương thêm người đàn bà lạ nghèo khổ, tiêu điều kia.
Bà cụ Tứ còn là một người rất hiểu chuyện, không hề than vãn bất cứ điều gì. Bà chỉ
nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai
khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cứ đeo bám nhưng bà vẫn
động viên, an ủi hai vợ chồng trẻ. Đó là điều mà không phải người mẹ nào cũng có thể
can đảm nghĩ, can đảm động viên con như thế. Chính tấm lòng này của người mẹ
khiến cho Tràng và người vợ mới thêm nhẹ lòng, không bị ràng buộc và khó khăn quá
nhiều. Khi đó chúng ta mới thấy được tình người le lói giữa cảnh đời u tối như thế này
thật đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bà là một người mẹ tuyệt vời, dù cuộc đời này
không được tốt đẹp như bà vẫn mong.
Hình ảnh bà cụ Tứ “xăm xăm trong vườn” vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu
Tràng lấy vợ khiến người đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường
ngày nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở nên thông thoáng,
nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà cũng đang vun vén và xây đắp cho
hạnh phúc của con mình. Đặc biệt hình ảnh “nồi cháo cám" xuất hiện ở bữa cơm đầu
tiên Tràng dẫn vợ về không những khiến vợ chồng Tràng nghẹn ứ ở cổ mà còn khiến
người đọc không thể cầm nổi nước mắt. Hóa ra trong cái nghèo đói rình rập như vậy,
chỉ một bát cháo “đắng chát” cũng đủ nhen nhóm lòng người như vậy. Thực sự đây là
hình ảnh mang tính chất nghệ thuật và có sức ám ảnh lớn. Cũng giống như “bát cháo
hành” trong truyện Chí Phèo thì “nồi cháo cám" trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đều là
những hình ảnh neo giữ thật sâu trong tâm trí người đọc.
Tâm trạng và nụ cười niềm nở của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã tràn
niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ. Bà còn bảo “Cháo cám đấy. Ngon đáo để.
Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”. Sự vui vẻ của người mẹ nghèo làm
bừng sáng lên không khí tăm tối những ngày qua. Thực sự chỉ tấm lòng của những
người mẹ mới có thể khiến cho con cái yên lòng. Anh cu Tràng và thị thực sự là
những người hạnh phúc, dù đói nghèo vẫn còn dai dẳng.
Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ bằng những chi tiết rất đời
thường nhưng lại khiến cho người đọc có một sự nhìn nhận khác về người nông dân
trong hoàn cảnh đất nước đói kém. Bà là người khiến nhiều người khác khâm phục và ngưỡng mộ.
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ - Mẫu 22
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn
Kim Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa
những hình ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên
niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ. Trong tác phẩm,
cả ba nhân vật Tràng, Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm
riêng, song sau tất thảy trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân
trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được
nhà văn diễn tả rất thành công.
Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở
xóm Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu
xí, thô kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc
sống thiếu thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con
mình sẽ có vợ dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào,
hoàn cảnh của gia đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy
một người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng
ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết
mẹ chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi
nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai
của bà thốt ra, bà vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà
vẫn đang ngồi nơi đầu giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận
ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã có vợ,
một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa
hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.
Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ
biết “cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà
nhớ về người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã
qua đời, bà càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ,
bà biết con trai mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng
thì ít mà lắng lo thì nhiều. Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một
ngày ấm êm, cũng chẳng có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao
khi người chết vì đói thì nhiều, mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà
thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai lại lấy vợ lúc này. Rồi bà khóc vì thương con,
thương cô con dâu mới , hai đứa rồi sẽ ra sao, có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa
đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với
nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”.
Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành cho con, những lời
dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can của người mẹ
khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ
chảy xuống ròng ròng”.
Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con
mình đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc
nhỏ bé mà anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù
biết phía trước còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. Bà dặn
con phải sống yêu thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn.
Trong lời dặn dò ấy, chứa chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại
bình yên: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì
con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ
trước nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một
sự yêu quý và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong
niềm vui để con đỡ tủi phận mà an lòng. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn
lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một
nồi cháo cám, dù là một món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động
viên con. Đu nghèo khó đến thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm
nhận được không khí gia đình đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.
Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ,
người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con
vô bờ bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm
vạn mối lo toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu
vào từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi
bút ấy, ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo
lắng, cùng khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân
lam lũ một tình yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 23
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp
năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả
chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của
những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng
điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con
đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao
không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái
nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu
vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi
Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một
người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà
cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá
nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng
khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng
hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã
về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”.
Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi
vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình
“Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết
trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng
sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà
nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu
hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt
cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông
gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người
đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không
hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên
cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho
người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết chóc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng
có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.
Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra,
đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà
thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi
không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho
người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ.
Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến
người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy
những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng
người đọc đến như vậy.
Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là
tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng
giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con.
Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta
nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng
dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?
Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến
đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới”
của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.
Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm
ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu cố gắng. Chi tiết này đã cho
thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn
kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ
Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nồi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực
sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá
trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi
sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết
cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ
cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở
cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ
khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người
đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu
thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một
con người, một nhân cách.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 24
Là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, những trang viết của nhà văn Kim Lân luôn
hướng về cuộc sống và người dân quê với cuộc sống nghèo khổ thiếu thốn mà lạc
quan, yêu đời, và truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm như thế.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã khắc họa thành công những hình tượng nhân vật độc đáo
để từ đó, người đọc có thể cảm nhận hết cuộc sống, số phận con người trong nạn đói
ấy và nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Nhân vật bà cụ Tứ tuy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm như nhân vật Tràng hay
nhân vật người vợ nhặt song nhân vật bà cụ Tứ vẫn để lại nhiều ấn tượng trong lòng
người đọc. Ngoại hình của nhân vật bà cụ Tứ hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân thật
nghèo khổ, lam lũ, cơ cực bằng hàng loạt các chi tiết, hình ảnh độc đáo. Đó là cái
“dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán”.
Nhưng có lẽ, ở nhân vật bà cụ Tứ, người ta ấn tượng với bà nhiều hơn cả chính là ở
diễn biến tâm trạng, những dòng cảm xúc vui buồn lẫn lộn của bà trước sự kiện Tràng
- con trai mình có vợ. Khi trở về nhà, nhìn thấy Tràng cùng người vợ nhặt của mình ở
nhà, trong lòng bà cụ Tứ hiện lên một nỗi ngạc nhiên đến khôn cùng, hàng loạt câu
hỏi cứ thế gọi nhau hiện về trong bà “sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà mình thế
kia? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào
mình bằng u?” Có lẽ, bà cụ Tứ không hiểu, không biết người đàn bà kia là ai không
phải vì bà không hiểu mà bởi bà lão ngạc nhiên, không ngờ và không dám tin rằng con
trai mình lại có vợ trong những ngày nạn đói diễn ra khủng khiếp như thế. Và rồi, bà
lão hiểu và bà hiểu ra bao nhiêu điều khác nữa. Bà đã tin rằng Tràng đã có vợ và
không ai khác người phụ nữ kia chính là con dâu của bà, để rồi trong lòng người mẹ
ấy hiện lên bao nỗi niềm xót thương. Đó là sự ai oán, xót thương cho con, cho thị và
cho cả chính bà “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Rồi
bà lão khóc, bà khóc vì thương con, vì lo cho con và vì bà chưa làm tròn trách nhiệm
của một người mẹ nhưng có lẽ đó còn là những giọt nước mắt của niềm vui, niềm
hạnh phúc khi con trai bà có vợ. Qua những dòng cảm xúc đan xen vui buồn của bà cụ
Tứ người đọc sẽ không chỉ cảm nhận được tình cảm của bà với con mà hơn thế nữa
người ta còn nhận thấy bà là một người giàu tình người, bà đã mở lòng đón nhận nàng
dâu mới “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.” Như
vậy, ở nhân vật bà cụ Tứ với những nỗi niềm cảm xúc khác nhau đã cho chúng ta thấy
bà không chỉ là một người mẹ giàu lòng yêu thương con mà còn là một người giàu
tình thương, sự che chở với những người cùng cảnh ngộ.
Nếu như lúc thấy Tràng cùng người vợ nhặt ở nhà mình, bà cụ Tứ vừa buồn vừa vui
thì trong buổi sáng ngày hôm sau - khi có nàng dâu mới, trong ngôi nhà của mẹ con
Tràng và trong lòng bà cụ Tứ ngập tràn một niềm vui to lớn. Nếu những ngày trước,
gương mặt bà cụ Tứ đầy vẻ khắc khổ thì giờ đây, gương mặt ấy rạng rỡ hẳn lên, nó
“nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường”. Gương mặt ấy của bà đã toát lên bao niềm
vui mừng, phấn khởi và hạnh phúc. Trong bữa cơm sớm hôm ấy, dù thật thiếu thốn
nhưng bà nói toàn “chuyện vui, chuyện sung sướng” về sau. Những câu chuyện ấy
cùng với niềm vui, niềm tin đang len lỏi trong tâm trí bà như đã thắp sáng lên trong
lòng Tràng và người vợ nhặt niềm lạc quan, yêu đời và có lẽ đó chính là động lực, là
niềm tin vào tươi lai tươi sáng hơn của gia đình Tràng. Đồng thời, qua đó cũng thể
hiện vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ - dẫu bên vực thẳm con người ta vẫn luôn yêu đời
và tin vào tương lai tươi sáng.
Tóm lại, với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo cùng ngôn ngữ tự nhiên, nhà
văn Kim Lân qua truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ -
một người mẹ giàu lòng yêu thương con, một người phụ nữ giàu tình người, sẵn sàng
yêu thương, đùm bọc những người cùng cảnh ngộ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 25
Kim Lân là một trong những cây bút chuyên viết về những người nông dân. Những
câu chuyện của ông luôn giản dị, chất phác như chính hình ảnh của ông vậy. “Vợ
nhặt” là một tác phẩm được ông lấy bối cảnh vào những năm nạn đói 1945, truyện
chứa chan niềm thương cảm về những kiếp người nghèo khổ bám víu lấy nhau giữa
khung cảnh “người chết như ngả rạ”. Và sáng bừng trong khung cảnh đói khát ấy là
tình yêu thương của những con người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ - người mẹ
già nghèo khổ cùng với những cảm xúc, những tâm trạng phức tạp khi chứng kiến đứa
con trai duy nhất của mình “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ nhặt là một chàng trai tên Tràng, sống tại một xóm
ngụ cư. Giữa những năm tháng đói khát, hắn đi kéo xe thóc thuê để kiếm sống và
trong một lần, hắn bắt gặp một người đàn bà nghèo khổ ngồi bên đường để “chờ nhặt
hạt rơi vãi”, người đàn bà ấy đã cùng hắn đẩy xe bò thóc sau vài câu nói đùa vu vơ.
Lần thứ hai hắn gặp lại thị là khi thị đã đói đến mức “gầy sọp hẳn đi” và hắn đã mời
thị ăn bánh đúc. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đã chấp nhận theo hắn về nhà và làm vợ hắn.
Có thể nói tình huống truyện mà Kim Lân dựng lên vô cùng độc đáo, “có một không
hai” trong văn học Việt Nam. Qua đó ta chợt xót xa về sự mong manh, tội nghiệp của
con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là sự xúc động mạnh mẽ trước tình yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau của những con người nghèo khổ giữa cái đói khát. Trong
bức tranh ấm áp của tình người, ta còn bắt gặp hình ảnh của một người mẹ già với tấm
lòng yêu thương con, thương người hết mực, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ - mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn ngủi của tác giả. Đó là
một bà cụ già nua, nghèo khổ, là dân xóm ngụ cư. Cái dáng đi của bà “lọng khọng”,
chậm chạp, lại “vừa đi vừa lẩm bẩn tính toán gì trong miệng”. Bà hiện lên với một
dáng vẻ của một người đàn bà đầy lam lũ và khổ cực. Bà có một đứa con trai, nhưng
chưa từng nghĩ tới việc dựng vợ cho hắn, bởi nhà bà nghèo quá, đói quá, ai lại chịu gả
vào một ngôi nhà chỉ là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró”, đến ăn còn không đủ? Ấy
vậy mà giữa lúc nạn đói hoành hành dữ dội nhất, Tràng lại dẫn về một cô “vợ”, một
người đàn bà Tràng “nhặt” được lúc đi làm. Vào lúc mà mình còn chẳng lo nổi cho
thân mình như thế này, thì việc Tràng lấy vợ, phản ứng của bà cụ ra sao đây? Liệu bà
có chấp nhận nàng dâu “không cưới hỏi” ấy hay lại trách con trai bà “đèo bòng”,
“rước cái của nợ đời về”?
Khi thấy đứa con trai “đon đả” đón mình từ ngoài ngõ, phản ứng đầu tiên của bà là sự
ngạc nhiên. Một sự “phấp phỏng” dâng lên trong lòng bà cụ, bà không hiểu tại sao
hôm nay con trai bà lại có thái độ khác lạ như thế! Và sự ngạc nhiên của bà càng lên
đến tột độ khi nhìn vào trong nhà và bắt gặp một người đàn bà khác đang “đứng ngay
đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Bà lão “đứng sững lại”, niềm
băn khoăn dường như khiến đôi mắt già nua của bà “nhoè” đi, bà “hấp háy” đôi mắt,
cố “nhìn kỹ” người đàn bà ấy. Sự ngạc nhiên và băn khoăn bao trùm lấy người đàn bà
già nghèo khổ, bà ngạc nhiên tột độ, chưa hiểu gì cho đến khi đứa con trai lên tiếng.
Đến khi đứa con trai giải thích mọi chuyện thì bà chợt “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng
người mẹ ấy đang nghĩ những gì? Kim Lân đã khéo léo dẫn dắt tâm trạng của người
mẹ già ấy, khéo léo để người đọc nhìn thấy những biến chuyển đang cuộn trào trong
lòng người phụ nữ ấy. Bà cúi đầu lặng thinh, nhưng trong lòng bà thì chợt hiểu ra, “bà
lão hiểu rồi”. Bà hiểu rằng đứa con trai mình nay đã tự thành gia lập thất, đã có thêm
một người mà bầu bạn cùng mình, thế nhưng, nó lại lấy nhau giữa lúc đói kém nhất
đời thì sẽ ra sao đây?
Có lẽ, người phụ nữ nghèo khổ ấy cả đời đã phải rơi nước mắt nhiều lần, ấy vậy
nhưng lần này đây, giọt nước mắt ấy lại khác biệt. Nó là tình thương, nó là sự xót xa
cho Tràng, từ “kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. Giọt nước mắt
ấy “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình”. Thế nhưng, bà cũng
hiểu rằng, nhà mình nghèo, Tràng lại xấu xí, nay nó có được người bầu bạn thì thật
hạnh phúc biết bao! Bà vừa thương nhưng cũng vừa mừng cho Tràng.
Bà cụ thương con bao nhiêu thì bà lại càng thương chính mình bấy nhiều. Bà xót
thương cho số phận nghèo khổ cả cuộc đời của mình “Chao ôi,người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt
sau này. Còn mình thì….” Cái lặng thinh trong dòng suy nghĩ của bà là nỗi thương
thân tủi phận. Cả cuộc đời bà vất vả, ấy vậy mà chẳng thể làm gì được cho con cái, bà
thấy có lỗi với con vì chẳng thể lo lắng chuyện dựng vợ gả chồng cho nó. Đến giờ này,
khi con bà có vợ, bà vừa vui mừng vừa tủi phận biết bao “chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”!
Thương con, thương mình, rồi “đăm đăm nhìn người đàn bà”, bà chợt thấy thương cho
người phụ nữ này. Người đàn bà nghèo khốn khổ ấy phải tới “bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình”. Bà cảm thông cho thị, cảm thông cho sự bất đắc
dĩ của thị, lòng bà “đầy thương xót” cho người đàn bà trước mặt. Và bà cũng cảm
thương cho cả sự vui sướng đầy ngờ nghệch của Tràng.
Chỉ thế thôi, nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già ấy. Đó là tấm
lòng của một người phụ nữ hết thảy thương yêu con cái và yêu thương cả những người
khác có cùng cảnh ngộ với mình nữa. Bà cụ Tứ không chỉ cảm thông mà còn thấu
hiểu những nỗi lòng của người đàn bà nghèo đói kia, thấu hiểu để chấp nhận thị trở
thành con dâu của bà. Sau tất cả, bà thấy mừng, thấy hạnh phúc vì đứa con xấu xí của
mình nay đã có người bầu bạn, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Và bà cũng mong “có ra làm được dăm
ba mâm thì phải đấy” để mừng con dâu mới trong nhà, thế nhưng giờ đây, giữa lúc đói
khát này, bà chỉ mong “cốt làm sao chúng mày hoà thuận là y mừng rồi”. Đó là tấm
lòng của một người mẹ, tấm lòng của một người phụ nữ giàu lòng thương người!
Thế nhưng song hành cùng niềm vui có thêm dâu mới lại là một nỗi lo lắng, một niềm
thương xót đến tột cùng. Bởi Tràng và thị đến với nhau giữa hoàn cảnh “người chết
như ngả rạ”, những người con sống thì “xanh xám như những bóng ma”. Họ đến với
nhau là niềm hạnh phúc, nhưng cũng là “rước cái của nợ đời về”. Từ khi biết chúng nó
lấy nhau, bà cụ Tứ đã rưng rưng tự hỏi “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không?”. Cơn đói khát của những năm tháng đó, khiến cho một
niềm vui tưởng chừng như tuyệt vời, cũng bị chen lẫn vào những tiếng thở dài, chen
lẫn vào bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu than: “bà lão nghĩ đến cuộc đời
cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu
có hơn bố mẹ trước kia không?”
Những diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi biết Tràng “nhặt” được vợ thật phức tạp.
Nó biến chuyển trong từng thời khắc, từ sự ngạc nhiên, băn khoăn, tới sự thương cảm,
từ sự hạnh phúc tới nỗi lo lắng vô bờ. Thế nhưng, ta vẫn có thể thấy được tấm lòng
của một người mẹ yêu thương con, tấm lòng cảm thông, thấu hiểu của người đàn bà
từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự trân trọng của người mẹ chồng với
người con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia sớt cái ăn,
là chia sớt sự sống, thế nhưng, bà cụ vẫn vui lòng chấp nhận. Bà cụ Tứ quả thật là một
người phụ nữ giàu đức hi sinh và giàu lòng thương người!
Tâm trạng bà cụ Tứ không chỉ có những chuyển biến vào buổi tối hôm đó mà còn cả
sáng hôm sau khi thị trở thành con dâu bà. Nếu như trước đây, khuôn mặt của bà
“bủng beo, u ám” thì hôm nay, gương mặt ấy lại “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường”, “rạng rỡ hẳn lên”. Phải chăng một niềm hi vọng sống mới đã nhen nhóm
trong lòng người đàn bà già cả ấy? Một sự phần khỏi, hạnh phúc, một niềm tin tràn
đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo”, thế nhưng, gia đình ba người lại “ăn rất ngon lành”. Bữa cơm
mừng dâu mới thảm hại làm sao, thế nhưng trong lòng mỗi người lại tràn ngập những
niềm vui sướng mới, tràn ngập một niềm tin vào cuộc sống. Bà cụ Tứ thường ngày
khuôn mặt u ám, bủng beo nay lại trở nên khác lạ. Bà kể “toàn những chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng về sau này”. Đó là tấm lòng lạc quan, yêu đời, khao khát sống của
một người mẹ già muốn truyền lại cho những đứa con của mình niềm tin về một cuộc
sống mới, hạnh phúc hơn, no ấm hơn.
Bà cụ Tứ là một nhân vật chỉ xuất hiện rất ít trong tác phẩm, nhưng lại để lại trong
lòng chúng ta những ấn tượng thật sâu sắc. Qua từng chuyển biến tâm trạng của bà, ta
thấy được tấm lòng của một người mẹ già trong đói khát vẫn luôn yêu thương con cái,
luôn truyền cho con một niềm lạc quan sống, niềm tin về cuộc đời. Và ta cũng thấy
được hình ảnh của một người phụ nữ nông thôn nghèo khổ, giàu lòng nhân ái, sẵn
sàng chia sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình cho người khác trong giai đoạn đói khát nhất cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã thể hiện cực kỳ thành công khi miêu tả diễn biến tâm lý của
bà cụ Tứ. Từng giai đoạn biến chuyển tâm lý phức tạp của người đàn bà già nua ấy
được nhà văn miêu tả hết sức chân thực, hết sức hợp lý. Dường như, ông đã đặt mình
vào trong nhân vật ấy để mà cảm nhận được những rung động sâu thẳm nhất trong lòng người mẹ ấy!
Vợ nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc khi đã phản ánh được số phận và vẻ đẹp tình
người đáng quý của những những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Nạn
đói khủng khiếp đã vắt kiệt sự sống của con người nhưng ở đâu đó bên trong những
con người như bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn tiềm ẩn những vẻ đẹp thật đáng
trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình thương, của sức sống mạnh mẽ.
Phân tích bà cụ Tứ sáng hôm sau - Mẫu 26
Nếu Nguyễn Tuân là văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái lạ; Nguyên Ngọc là nhà văn của
cái hùng, cái cao cả thì Kim Lân chỉ đơn giản là người “một lòng đi về với đất, với
người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”. Một trong những nhân
vật thể hiện rất rõ cái nhìn đôn hậu, thấu hiểu và yêu thương của Kim Lân dành cho
người nông dân chính là nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”. Trong tác
phẩm, nhân vật đã rất nhiều sự thay đổi từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau.
Tác phẩm được Kim Lân viết văn 1962, tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Mang
theo ý thức sâu sắc về nghề cầm bút, Kim Lân luôn trăn trở: “Viết về cái đói, người ta
thường hướng đến sự khốn cùng bi thảm, về cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn
khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết, con người vẫn luôn hướng về sự
sống và sống cho ra người. Đó cũng chính là điều làm nên giá trị sâu sắc của tác
phẩm”. Đó chính là tiền đề để tác giả có thể tạo lên một tác phẩm: “nâng giấc cho
những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường
(…) để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh vực” (Nguyễn Minh
Châu). Một trong những nhân vật tạo nên giá trị của “Vợ nhặt” chính là bà cụ Tứ.
Đó là một người mẹ nghèo trở nên bất lực khi không lo nổi chuyện cưới xin cho con.
Nên khi tình huống mở ra: Tràng nhặt vợ trong bối cảnh nạn đói thảm hại, bà hoàn
toàn bất ngờ và bị động. Nhưng qua đó lại thể hiện chân thực và sâu sắc nhất hình ảnh
người mẹ nông dân này.
Trong buổi tối hôm trước, khi bước vào nhà, bà cụ Tứ còn cảm thấy ngạc nhiên trước
sự xuất hiện của người đàn bà lạ mặt. Sự ngạc nhiên hiện ra trong một loạt những câu
hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong đấy nhỉ?”, “Sao lại chào mình bằng
u?” Sự ngạc nhiên còn khiến bà không tin vào mắt mình: bà “hấp háy cặp mắt cho đỡ
nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoè đi thì phải”. Hiểu ra cơ sự thì lòng người
mẹ nghèo đan xen những cảm xúc trái chiều. Bà vừa mừng lại vừa tủi. Mừng vì con
trai cuối cùng đã lấy được vỡ, nỗi day dứt của một người mẹ không thể lo được
chuyện quan trọng nhất đời cho con nhưng lại tủi trước hoàn cảnh con lấy được vợ:
“Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những
mong sinh con đẻ cái nở mày nở mặt sau này. Còn mình thì...” Nỗi tủi hờn được giấu
trong dấu (...) không cất được thành lời. Trong người mẹ ấy, vừa có sự yêu thương lại
xen lẫn với nỗi xót xa. Bà xót thương cho đứa con trai mình nhờ đói khát mà lấy được
vợ, nhờ đói khát mà có cơ hội chạm vào hạnh phúc. Nhưng bà cũng xót xa cho người
con dâu, vì đói khát mà theo không con trai mình. Trong suy nghĩ của bà không hề có
một chút khinh khi mà trái lại, tình thương còn thấm đượm trong mỗi câu chữ: “Ừ,
thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai chữ “mừng
lòng” đã trả lại danh dự cho người vợ nhặt. Bà cụ Tứ không phải chấp nhận mà đón
nhận con dâu với tất cả yêu thương trân trọng. Đối với bà, việc Tràng có vợ không
phải là sự nhặt vu vơ mà là duyên kiếp, như đối với tất cả lứa đôi nào. Ở đây, ta thấy
toát lên vẻ đẹp của lòng nhân hậu, sự bao dung và vị tha. Ở người mẹ ấy còn xen lẫn
những âu lo và hi vọng. Bằng sự từng trải của người mẹ, bà cụ Tứ nhận thấy bóng tối
của đói khát, chết chóc đang bủa vây các con mình nên nỗi lo trĩu nặng bật ra thành
những câu hỏi: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”, “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, đời của chúng nó liệu có hơn bố mẹ nó trước
kia không?”. Nhưng nỗi tủi hờn là lo lắng ấy lại được nén trong lòng. Bà cụ Tứ vẫn cố
gắng hướng các con tới tương lai bằng những lời động viên an ủi: “Ai giàu ba họ, ai
khó ba đời”. Đó là hình ảnh người mẹ từng trải, thấu hiểu lẽ đời và giàu khát vọng.
Qua những suy nghĩ, lời nói, cử chỉ và cách ứng xử với con dâu, con trai ta đều cảm
nhận được tình cảm ấm áp, sự nhân hậu, thấu hiểu của người mẹ nông dân, người phụ nữ Việt Nam.
Sang buổi sáng hôm sau, bà cụ Tứ đã có sự thay đổi lớn. Gương mặt “bủng beo, ám”
thường ngày bỗng “rạng rỡ hẳn lên”, trở nên “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn thường
ngày”. Ngôn ngữ và hành động cũng được tác giả chú ý miêu tả. Bà cụ lúi húi giẫy
những búi cỏ rồi bàn bạc với các con về việc gia đình, chuyện trò vui vẻ với con trai,
lễ mễ bưng nồi chè khoán mà đon đả múc vào bát. Người mẹ nghèo với tấm lòng
thơm thảo đang cố gắng chăm lo, vun vén cho các con. Tâm trạng của người mẹ đối
với cái thảm hại của bữa ăn ngày đói, với cái đắng chát của vị cháo cám lại ánh lên
niềm hi vọng, niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Có thể nói, qua tâm trạng của bà
cụ Tứ, ta cảm nhận được rằng: trong vực thẳm đói khát những người dân lao động
nghèo khổ vẫn giữ gìn ngọn lửa của niềm tin để nhen nhóm lên hi vọng và tin yêu
cuộc sống. Đặc biệt, những chồi xanh của hi vọng, sự sống lại được nảy mầm từ đói
khát, từ chính cuộc đời những con người tưởng như đã cạn kiệt sinh lực sống.
Như vậy, từ tối hôm trước đến sáng hôm sau, tâm trạng nhân vật từ những cảm xúc
đan xen lẫn lộn, từ nỗi tủi hờn đã ánh lên niềm vui, từ nỗi âu lo nay đã chuyển thành
hi vọng. Ngay cả đặc điểm của thời gian: chiều tối đến sáng, không gian: u ám của cái
chết bủa vây đến sáng hôm sau tươi sáng cũng đã thể hiện sự biến đổi tích cực này.
Đó chính là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui – một trong
những khung hướng tất yếu của văn học cách mạng Việt Nam.
Tái hiện nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã thể hiện sự tài tình trong ngòi bút kể chuyện.
Tác giả đã phối hợp điểm nhìn bên trong và bên ngoài: buổi tối hôm, nhà văn đặt điểm
nhìn vào bên trong nhân vật để tái hiện các nét tâm trạng vừa đan xen lại chuyển hóa
vào nhau để tạo nên những dòng chảy tâm tư chân thực, sống động với ngôn ngữ nửa
trực tiếp cho phép người đọc thâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật. Đến buổi sáng
hôm sau, nhà văn lại xuất phát từ điểm nhìn bên ngoài để miêu tả diện mạo, hành
động, thể hiện sức sống, niềm tin được nhân vật khơi mở và thắm lên trong ngôi nhà
của mình. Về mặt ngôn ngữ, Kim Lân đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn thứ ngôn
ngữ nông dân giản dị, thuần hậu để dựng lên những đoạn độc thoại, đối thoại sinh
động, khiến người đọc có cảm giác như nhân vật như đi thẳng từ cuộc đời vào trang
viết. Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo và éo le, từ đó tính cách và tâm lí được thể
hiện một cách tự nhiên.
“Vợ nhặt” đã khiến nhà văn Nguyễn Khải thốt lên: “Tôi không tin Nguyễn Tuân có
thể viết “Chữ người tử tù” cũng như Kim Lân có thể viết “Vợ nhặt”. Đó là thần viết,
thần mượn tay người để viết”. Điều đó chắc chắn được làm nên không chỉ bởi ngòi
bút kể chuyện tài hoa mà còn là một tâm hồn luôn “một lòng đi về với đất, với người,
với thuần hậu nguyên thủy”, một cái nhìn đôn hậu, hóm hỉnh và đầy thấu hiểu với người nông dân.
Bởi những “áng văn chân thực và giản dị về con người “ (Hemingway) ấy, mà Kim
Lân văn dù viết rất ít nhưng “lại được khâm phục rất nhiều”.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 27
Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể
hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc
của những người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung
xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng - người đã “nhặt” vợ.
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam
khác. Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc
Tràng, con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như
chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song
từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bởi
trong lòng người mẹ ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn,
niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người, nhưng
anh Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng
tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong
miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi với vào
trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao
bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi
với vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần
lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm
hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.
Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết
trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng
sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà
nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đưng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu
hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt
cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông
gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người
đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải
ngồi lên giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái
người đàn bà lạ ấy tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai.
Hoá ra, bà không điếc, bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn
chưa hiểu vì sao lại thế. Đến khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ!
Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột quá! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy.
Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp của đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là
lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con
mình thì… Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này không?
Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ . Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở
dài rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị
và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có được vợ… Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của
mình. Bà là mẹ, bà đã chẳng lo được gì cho con… May ra mà qua được cái tao đoạn
này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà la cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ
dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: một khi các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.
Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi
anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá…
Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra
sông. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết
theo gió thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ
đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ
chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?
Những câu hỏi lại bám lấy trong đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót
thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà
mình nghèo quá. Chắc cuũngchả ai người ta chấp nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận
là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày lấy nhau thì bà thương quá.
Ôi biết bao là buồn, vui, cay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập
trong lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc
mà nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son
biết bà đang buồn. Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt
ngẩng lên. Bà chủ động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây
giờ đắt gớm lên mà ạ. Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm.
Bà đem cả cái tâm trạng ngổn ngang sang chiếc giường cũ kỹ!
Anh cu Tràng khi mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như
người từ trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ “biết điều”, dậy sớm hơn, quét lại sân.
Chỉ có bà lão, chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít
nứa về đan cái phên ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy. Khi anh
cu Tràng thức dậy, xung quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều
được quét sạch sẽ gọn gàng… Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi
húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.
Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng
nay, lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và
rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng
Tràng, hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì
cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều
lạ là hôm nay, bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn
chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền
mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem.
Vì thế chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp đến thế. Khi niêu cháo
lõng bõng, mỗi người được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào
miệng, đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi
cười, đon đả nói, gọi là “chè khoán” và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn
đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.
Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những
cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay
vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy
là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà
sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc.
Mà đó lại là những giọt nứoc mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của
mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi
vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu
bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 28
Vợ nhặt là một tác phẩm ưu tú của Kim Lân và cũng là một thành tựu xuất sắc của nền
văn học Việt Nam đã viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Song câu chuyện ấy của Kim Lân không bị bụi thời gian phủ
mờ, làm khuất lấp mà ngược lại cho đến bây giờ Vợ nhặt vẫn như một viên ngọc sáng
lung linh. Thành công của Kim Lân trong thiên truyện không chỉ là việc chọn được
một tình huống lạ, độc đáo mà còn là xây dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – một hình ảnh
chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945.
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ờ phần gần cuối truyện. Nhà văn Kim Lân
không có ý định đưa bà cụ Tứ làm nhân vật chính, miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ như một
hình tượng điển hình. Nhưng thiếu nhân vật này thì Vợ nhặt chắc sẽ không còn hấp
dẫn hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác. Bà cụ Tứ đã giữ cho truyện Vợ nhặt có chiều
sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết Vợ nhặt với tình huống anh
Tràng “nhặt” được vợ, nhà văn Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khát khao hướng tới hạnh phúc của họ.
Còn xây dựng nhân vật bà lão, Kim Lân dường như muốn hướng người đọc nhìn việc
Tràng lấy vợ ở một khía cạnh khác, một góc độ khác. Càng đi sâu vào tác phẩm, càng
ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước
Cách mạng. Có thể điều này nằm ngoài chủ ý của tác giả song sự kính trọng người mẹ
của đứa con, nỗi khổ cực đè nặng lên đôi vai bà cụ suốt cả cuộc đời làm nên sức sống
lâu bền của nhân vật bà cụ Tứ.
Ai đó đã từng nói: “sống với nhân vật tựa như được sống với thế giới tâm hồn còn thật
hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ nhiều lúc ta có cảm giác như bà
đang “hấp háy cặp mắt”, chầm chậm bước ra từ căn nhà dúm dó, tồi tàn của mình mà
đi vào trang truyện, chứ không phải do dùng công xây dựng của tác giả. Bà cụ Tứ
bước vào tác phẩm với cái dáng vẻ: “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính
toán gì trong miệng”. Chao ôi! biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến! Ta gặp lại
dáng hình gầy gò còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà Việt Nam quen
thuộc. Nhà văn sử dụng từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Nó vừa
cho thấy sự lẩm cẩm, chậm chạp của bà lão lại vừa mang theo đó nỗi “phấp phỏng”
trước sự đón tiếp khác thường của cậu con trai. Bà bước vào trong nhà, đến giữa sân,
khi thấy một người phụ nữ đang ngồi ở đầu giường của con mình, bà lão rất sững sờ,
đứng lại và càng ngạc nhiên hơn. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra ngay trong đầu óc già
nua của bà: “Quái lạ sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường của thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? không
phải con cái Đục mà – Ai thế nhỉ?” Bà làm sao mà ngờ được, giữa những tháng ngày
đói kém, thóc gạo không có nổi để ăn vậy mà con bà đã dẫn không về một người vợ.
Bà lão cúi đầu nín lặng, băn khoăn mãi và bây giờ “bà lão hiểu rồi”. “Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp
con mình”. Khi biết con mình đã có vợ là một sự thật, bà cụ Tứ rất mừng. Mừng thế là
từ nay Tràng đã có vợ. Cái điều mà cụ một đời mơ ước như một cái gì vô cùng khó
khăn xa vời ấy bỗng nhiên đã đến một cách bất ngờ và giản dị. Nhưng đằng sau những
điều mừng vui ấy là nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn tủi của một người mẹ đã không tự
mình lo liệu được chuyện lấy vợ cho con. Đó là cái tủi đã để cho con mình phải lấy vợ
theo cách thức như vậy; không cưới xin, không dạm hỏi, không một nghi thức nào vẫn
thường được tôn trọng trong những dịp thiêng liêng của đời người như thế ở nông
thôn ta ngày xưa. Cái tủi ấy là cái tủi của một người mẹ nghèo. Càng xót xa, tủi phận
mình, bà cụ Tứ càng thương con trai, “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm ra, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt sau này. Còn mình
thì…” Đọc những dòng này ta như có cảm giác trái tim người mẹ trong cái thân hình
còm cõi ấy đang rung lên một nỗi đau đớn, xót xa, ai oán, tủi cực. Việc trọng đại nhất
của cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm thì phải” nhưng “nhà mình nghèo quá”
nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ và không thực hiện được. Từ chỗ thương con trai,
tủi phận mình rồi bà lại thương con dâu: “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này
người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ…” Vừa mừng, vừa tủi
lại vừa lo lắng trước sự kiện con trai bà lấy vợ, bà cụ lo một nỗi lo rất chính đáng của
con người đã nếm trải cả một đời cực nhọc đớn đau “biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Trong trận đói khủng khiếp vô cùng ấy, chỉ khoảng một năm mà “từ Quảng Trị ra đến
Bắc kỳ có hơn hai triệu người chết đói”, Tràng lại đi dẫn không một người phụ nữ về
nhà. Ngay đến bản thân mình cũng đang bị cái đói rình rập, đe doạ, không biết cái
chết rồi sẽ đến lúc nào, “cứ mỗi sáng lại thấy vài xác người chết còng queo vì đói bên
một vài lều chợ”. Ấy vậy mà bây giờ Tràng lại có thêm một miệng ăn. Có cô gái ấy thì
viễn cảnh bị chết đói sẽ đến với họ nhanh hơn. Bằng kinh nghiệm, vốn sống và sự
từng trải, bà lão hiểu rằng cô gái kia chỉ tìm đến con bà vì miếng ăn mà thôi. Một
người mà chỉ ngồi mơm mớm ở mép giường, tay ôm khư cái thúng thì rõ là mang
dáng vẻ của một người ăn nhờ ở đậu chứ chẳng hề có ý định sống trọn đời, trọn kiếp
nơi đây. Biết vậy song bà không hề tỏ ra sẽ đuổi người phụ nữ kia đi mà ngược lại bà
còn thương xót thị bởi sự đồng cảm giữa những người phụ nữ với nhau. Bà cụ thương
cho số phận con người chấp nhận đánh mất cả nhân phẩm vì miếng ăn, chấp nhận làm
tấm thân cỏ rác ngay giữa đường giữa chợ để người ta nhặt về nhà như nhặt thứ gì đó
vậy. Bà “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…Hai chữ “mừng lòng” ấy chứa đựng biết bao nhiêu
là thân thương, trìu mến và cảm thông. Chỉ một câu nói ấy thôi đã đủ để trút đi gánh
nặng đang đè lên đôi vai con trai bà. Nén nỗi lo lắng trong lòng, bà cụ khuyên răn con
bằng những lời lẽ thấm đẫm ân tình: “Nhà ta thì nghèo con ạ, vợ chồng chúng mày
liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu
ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà nói với con dâu
những lời của một con người từng trải, vừa lo lắng vừa thương xót: “năm nay thì đói
to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Đến đây bà cụ không nói được
nữa bỗng trở nên nghẹn ngào, hai dòng nước mắt của người mẹ già nua cứ ròng ròng
chảy xuống. Đó là những dòng nước mắt của một bà mẹ nông dân nghèo đã chịu
nhiều cực khổ, đớn đau. Những giọt nước mắt ấy càng cho thấy bà cụ Tứ có một tấm
lòng thật nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương tha thiết và cảm thông cho những
người cùng cảnh ngộ. Ngửi thấy mùi đốt đống rấm đâu đây để xua đi mùi tử khí, bà cụ
lại chợt nhớ đến ông lão, nhớ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ ở phía
trước mà lo: “không biết vợ chồng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ
trước kia không?. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện thật nhuần nhuyễn
trong từng biến thái tâm lý tinh tế, phong phú của người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự
thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống, có sự am hiểu nông thôn và người
nông dân nghèo sâu sắc thì ông mới có được những trang văn diễn tả tâm trạng con
người sâu sắc, chân thực và đầy cảm động đến như thế.
Dõi theo từng câu nói của bà cụ Tứ, thì người đọc không khỏi ứa nước mắt vì cảm
động trước tấm lòng vị tha cao cả của một người mẹ Việt Nam. Song điều đáng nói ở
đây là trong muôn vàn những đau khổ, khó khăn của cuộc đời, bà cụ vẫn tràn đầy tinh
thần lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai. Trong cái đói bà
cụ vẫn không mất hết hy vọng, một người già nua đã “gần đất xa trời” nhưng bà lại
toàn nói về những chuyện tốt đẹp. Niềm vui có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm
tin ở cuộc sống vẫn làm cho người mẹ dường như nhanh nhảu hơn “cái mặt bủng beo
u ám của bà cũng rạng rỡ hẳn lên”. Bà dự định sẽ mua phên để ngăn thành từng buồng
cho đôi trẻ, trong bữa ăn ngày hôm sau, bà cụ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện
sung sướng: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà rồi chẳng mấy chốc sẽ có cả một đàn
gà cho mà xem…”. Những lời ấy không phải được thốt ra từ những người trẻ tuổi hơn
như Tràng, vợ Tràng mà đó là lời của một bà lão đã cận kề cái chết, sự sống và cái
chết đối với bà chỉ còn là một ranh giới rất mỏng manh. Bà cụ tựa hồ như một cái đê
chắn sóng, xua đi những u buồn, những mệt nhọc và phiền muộn cùng những lo âu để
truyền cho con mình niềm tin vào một cuộc sống ngày mai hạnh phúc. Cho dù bữa
cơm ngày đói thật thảm hại: Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với
một nồi cháo nước lõng bõng và một nồi “chè khoán” đắng chát. Nhưng bà cụ vẫn
không quên đem lại một chút không khí vui tươi, phấn chấn cho gia đình: ” cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà không có cám mà ăn
đấy”. Câu nói có xen chút tự hào của bà lão vang lên mà sao lòng người đọc lại cảm
thấy xót xa, nghẹn đắng đến thế. Chao ôi, cám là thứ người ta bỏ đi, chỉ dành cho súc
vật ăn vậy mà những con người đáng thương ấy đã phải ăn. Ấy thế mà gia đình Tràng
như vậy là đã sung sướng lắm, có nhiều nhà còn đói rách hơn họ nhiều lần.
Câu nói và những cử chỉ đầy trìu mến, yêu thương đã phần nào khiến cho món cháo
cám bớt đi vị đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ họng. Bà mẹ nghèo ấy chẳng có của cải vật
chất gì quý giá để cho đôi vợ chồng mới. Nhưng có một thứ bà dành cho các con còn
đáng trân trọng, nâng niu gấp ngàn lần thứ khác: đó là tình yêu thương, sự chở che
chăm sóc rất chân thành của một người mẹ. Chính tình yêu thương của bà cụ Tứ và
của Tràng nữa đã đem đến cho người đàn bà vợ nhặt một sự thay đổi lớn lao. Sớm ấy
thị cũng xăm xăm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng, chuẩn bị bữa cơm để
cả nhà cùng ăn. Thế là thị đã thực sự tìm thấy một tổ ấm gia đình, một mái nhà không
chỉ bảo vệ thị trước những sương giá của cuộc đời đầy khổ ải mà hơn hết đó là tình
yêu thương quý mến giữa con người với con người. Thị đã tìm được mảnh đất mà thị
nhất định sẽ sống trọn đời trọn kiếp nơi đây. Và chính ngôi nhà bé nhỏ, xiêu vẹo này
thị sẽ được hưởng không khí gia đình ấm cúng, hưởng tình yêu và hạnh phúc. Thị cảm
nhận được vai trò của mình trong cái gia đình này và tự thấy mình phải có trách nhiệm đối với nó.
Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ còn là những trang văn mà đã trở thành
những trang đời thấm đẫm biết bao giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng một nỗi
lo cho tương lai và niềm lạc quan trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng
thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến những diễn biến tâm
lý khá phức tạp mà còn rung động trước tâm tình tha thiết của lòng người mẹ. Những
giọt nước mắt trong suốt chảy ra từ đôi mắt đã đục mờ, những giọt nước mắt lấp lánh
tấm lòng vị tha cao cả, những giọt nước mắt mặn mà của muối đất, của trái tim yêu
thương dạt dào như biển cả đã trở thành điểm sáng rực rỡ của toàn bộ tác phẩm. Giọt
nước mắt chảy ngược vào trong đã biến thành niềm vui, thành hành động, thành
những mơ ước khát khao một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Cho dù không có dụng tâm xây dựng điển hình người mẹ Việt Nam trong nạn đói
khủng khiếp song hình ảnh bà cụ Tứ đã là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân
trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Dẫu rằng những mơ ước về tương lai
hạnh phúc bé nhỏ, giản đơn của bà lão chưa cất lên được trước không khí u ám, ảm
đạm vẩn mùi tử khí song đó vẫn là điểm sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Quả thật
nhân vật bà cụ Tứ đã đem lại chiều sâu nhân đạo sâu sắc cho thiên truyện Vợ nhặt.