Văn mẫu lớp 11: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Dàn ý phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Dàn ý số 1
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn hiện thực lớn, nhà báo kháng chiến, một
trong những nhà văn tiêu biểu nhất có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc
hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ
20.
Chí Phèo là một trong những tác phẩm có giá trị hiện thực cao giúp cho người
đọc có cái nhìn khái quát hơn về một hiện tượng xã hội ở vùng nông thôn Việt
Nam trước năm 1945.
- Giới thiệu bi kịch bị ctuyệt quyền làm người của Chí Phèo: Bằng ngòi bút hiện
thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí
Phèo.
b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được Nam Cao viết năm 1941 dựa trên cơ sở người thật,
việc thật làng Đại Hoàng, ông đã cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh
động về hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột
ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.
- Giá trị nội dung: Truyện đã khái quát một hiện tượng hội nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy tình trạng
lưu manh hóa.
* Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?
- Bi kịch sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng, ước,
mong muốn con người.
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm
một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí
Phèo.
* Luận điểm 1: Bi kịch thể hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện
- “Hn vừa đi vừa chi. ” - > sxut hin tnhiên.
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi
là người bình thường
=> Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không
ai coi hắn như một con người.
* Luận điểm 2: Bi kịch bị khước từ quyền làm người ngay từ khi sinh ra
- Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người:
Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
Không cha, không m, không nhà, không ca, không mt tc đt cm dùi
Tuổi thơ sống trong bất hạnh
Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội đã bóp chết ước mơ lương thiện ấy
=> Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường, ngay từ
khi mới sinh ra đã bị chối bỏ.
* Luận điểm 3: Bi kịch tha hóa sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
Vì Bá Kiến ghen vi vợ hắn.
Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”
- Hậu quả của nhng ngày ở tù:
nh dng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì cơng cơng
đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” - > Chí Phèo đánh mt nhân
nh.
Nhân tính: du côn, du đãng, trin miên trong cơn say, đp đu, chi bi, phá
phách và làm công ccho Bá Kiến - > Chí Phèo đã đánh mt nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù - > Chí mắc mưu, trở thành
tay sai cho Bá Kiến.
=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông
dân bị đè nén đến cùng cực.
* Luận điểm 4: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo - > đnh kiến ca xã hội.
- Din biến tâm trng ca Chí Phèo:
c đu: Chí ngc nhiên trưc thái độ của Thị Nở
Sau Chí hiu ra mi vic: Tuyt vng, Chí uống rưu rồi xách dao đến nhà Bá
Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành đng đâm chết Bá Kiến và tự sát ca Chí:
Đâm chết Bá Kiến là hành đng ly máu ra thù của ngưi nông dân thc tnh
về quyn sng.
i chết ca Chí Phèo là cái chết ca con ngưi trong bi kch đau đn trên
ngưng ca trở về cuc sng làm ngưi.
=> Chí Phèo tiêu biểu cho số phận người nông dân trong hội bị chèn ép, đẩy
vào bước đường cùng.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng nhân vật điển hình vừa sống động, vừa có cá tính độc đáo
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ
- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính
- Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên
- Giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.
c) Kết bài
- Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện
thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này
- Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của Chí Phèo
II. Thân bài
1. Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?
- Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm
một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí
Phèo
2. Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện
- “Hn vừa đi vừa chi..”.: sxut hin tnhiên
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi
là người bình thường
Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai
coi hắn như một con người
3. Bi kịch bị khước từ “quyền làm người” ngay từ khi sinh ra
- Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người :
Không cha, không m, không nhà, không ca, không mt tc đt cm dúi cũng
không có
Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
Tuổi thơ sống trong bất hạnh
Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy
Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường ngay từ
khi mới sinh ra đã bị chối bỏ
4. Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
Vì Bá Kiến ghen vi vợ hắn.
Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”
- Hậu quả của nhng ngày ở tù:
nh dng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng
đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” Chí Phèo đánh mt nhân
nh.
Nhân tính: du côn, du đãng, trin miên trong cơn say, đp đu, chi bi, phá
phách và làm công ccho Bá Kiến Chí Phèo đã đánh mt nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù Chí mắc mưu, trở thành
tay sai cho Bá Kiến
Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông
dân bị đè nén đến cùng cực
5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → đnh kiến ca xã hội .
- Din biến tâm trng ca Chí Phèo:
c đu: Chí ngc nhiên trưc thái độ của Thị Nở
Sau Chí hiu ra mi vic: Tuyt vng, Chí uống rưu rồi xách dao đên nhà Bá
Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành đng đâm chết Bá Kiến và tự sát ca Chí:
Đâm chết Bá Kiến là hành đng ly máu ra thù của ngưi nông dân thc tnh
về quyn sng.
i chết ca Chí Phèo là cái chết ca con ngưi trong bi kch đau đn trên
ngưng ca trở về cuc sng làm người
Chí Phèo tiêu biểu cho số phận người nông dân trong hội bị chèn ép, đẩy
vào bước đường cùng
- Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị
cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
- Khẳng định đây là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ
III. Kết bài
- Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.
Bi kch bị cự tuyt quyn làm ngưi ca Chí Phèo
Nhân vt Chí Phèo trong truyn ngn cùng tên ca Nam Cao kit tác ca dòng văn
học hin thc Vit Nam. Chí Phèo đi din cho nhng ngưi nông dân cùng cc b
đẩy đến đáy cùng ca xã hi. Nhng ng cuc đi Chí schìm trong đêm ti nhưng
sau khi gp thNở Chí đã hi sinh kiếp sng làm ngưi. tuy nhiên éo le thay bi đnh
kiến ca bà cô thcũng là ca toàn xã hi đã gây bi kch bị cự tuyt làm ni cho Chí
tht đau đn, xót xa đlại cho độc ginhiu ám nh bi tiếng kêu “Ai cho tao lương
thin? Làm thế nào cho mt đưc nhng mnh chai trên mt này?”
Nam Cao tht tài tình khi đã khc ha đưc tâm phc tp ca nhân vt khi bthị Nở từ
chi vi nhng din biến tinh vi nht bng đc thoi bên trong, hành đng bên ngoài
li klời bình ca tác gi…, đây đon văn ca đnh cao cho scởi nút tht câu
chuyn cũng là nút tht trong cuc đi nhân vt đcho hn mt li thoát tt yếu cho bi
kịch bị cự tuyt làm ngưi.
Năm ngày bên ththt bình yên hnh phúc ng rng cuc đi Chí đưc hoàn lương
từ giây phút y nhưng thlại mt ngưi đàn dhơi, ngn ngơ đem câu chuyn
tình ca mình xin ý kiến mt ngưi mang trong mình nhng đnh kiến hi
không tt v Chí. già vn chưa chng thy thhi thì bt i ng đùa
nhưng khi biết tt csự tht li hong ht cm thy nhc cho ông cha nhà bà,
chua xót, ut c cho bn thân đã dùng nhng li lcay đc xa xói vào mt th. “Bà
gào lên như con mẹ dại”, “Có ly thì ly ai ch, đàn ông chết hết cả rồi hay sao, mà li
đâm đu ly mt thng không cha không m. Ai li ly mt thng chmt ngh
đi rch mt ăn v”. Thnổi gin đùng đùng sang nhà nhân ngãi chút tt thy nhng li
lẽ cay đc y vào mt hn ri “ngoay ngoáy cái mông đít đi ra v”. Vy con đưng
hoàn lương ca Chí va đưc mđã nhanh chóng đóng sm li bi đnh kiến
hội tàn bo không cho Chí cơ hi đtrở lại làm ngưi lương thin, chân chính.
Chí đau đn tht vng khi bthNở chi t. Hn cngi ngn ngưi, ngn mt
không nói gì. Điu đó cho thy Chí đã hiu vthói đi cnh ngcủa mình. Hn
ngi thy mùi cháo hành đây mt chi tiết đc đáo đưc lp li bi đó vtình
thương ít i Chí đang rt cn. Ti sao li chxut hin “Thoáng mt cái” trong
lúc này như đtrêu ngươi, chc tc Chí. Hn mun níu gihương vy, níu gitình
ngưi còn sót li chchút ít nên khi thquay đi thì “Hn sng st đng lên gi
lại… hn đui theo thị nm ly tay” nhưng li b“Thgạt ra, lại giúi thêm cho mt cái.
Hắn lăn khoèo xung sân” nlực níu giđến cui cùng cho con đưng hoàn lương
bởi chthmới thmở đưng cho hn, thcu ni cho hn đt chân lên nhp
cầu hi vng nhưng mt ln na hn li bhắn hi, rung b phũ phàng, ngưi đàn
cho hn tình thương hnh phúc, đt trn nim tin hi vng nay cũng “rưn cái
môi vĩ đi ném vào mt hn bao li chi mng”. Như thế Chí Phèo tht srơi vào
bi kch tinh thn đau đn, hn đã bxã hi ctuyt quyn làm ngưi.
Từ tận cùng ca ni đau sphn ut tuyt vng. Điu đó đưc thhin trong
suy nghĩ hành đng cui cùng ca nhân vt. Cũng như bao ln trưc “đã lăn ra thì
hắn phi kêu” phi ung, phi đp đu rch mt ăn vnhưng “tc quá, càng ung li
càng tnh ra. Tnh ra, chao ôi, bun!” hn không ngi thy mùi u sc sa nhưng li
“thoang thong thy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành tình ngưi ln thba đưc nhc
đến làm cho lương tri Chí tri dy mnh mđể rồi “hn ôm mt khóc rưng rc”. Đã
bao lâu ri hn mi đưc cchgit c mt ca con ngưi. Thi vng đến
tuyt vng, khi đu git nưc mt cm đng hnh phúc khi bưng bát cháo hành
trên tay kết thúc cũng git c mt đau khkhi bthNở bỏ rơi. Cuc đi tht
nhn tâm khi cho ngưi ta hy vng ri li ném vào trong tuyt vng, cuc đi cũng
tht tàn ác khi mđưng cho Chí hoàn lương làm ngưi tử tế rồi li biến Chí trthành
con qutàn ác nht ngay cả với chính mình.
Nỗi tuyt vng dâng đến đnh đim tt cùng ca căm ut vi hành động kết thúc “Hn
ra đi vi mt con dao tht lưng”. Cũng như mi ln hn va đi va chi da giết
“nó”. trong suy nghĩ ban đu ca Chí chính th“Hn phi tđến nhà con đĩ N
kia. Đđam chết cnhà nó, đâm chết cái con khm già nhà nó” nhưng không biết
điu hn li xông xông vào nhà cBá. ng như lúc này Chí không còn
một tên say u hn đang rt tnh táo, chkhi tnh táo tht smới thcảm
nhn đưc ni đau đến cùng hiu ti ác ca kthù đã hy hoi đi hn. Chí
Phèo đã “trn mt chtay” vào mt Bá Kiến vênh vênh cái mt kiêu ngo mà khng
định: “Tao đã bo tao không đòi tin” dõng dc đòi làm ngưi lương thin, đòi
lại bmặt ngưi đã bị vằm nát ca mình. Tiếng kêu thng thiết trưc khi giết Bá Kiến
tự kết liu đi mình đòi quyn làm ngưi, đòi đưc sng trlại ngay ckhi đang
khi đang thđon cui tác phm: “Ai cho tao lương thin? Làm thế nào cho mt
đưc nhng mnh chai trên mt này? Tao không thlàm ngưi lương thin na. Biết
không! Chn mt cách...biết không! Chcòn mt cách là…cái này biết không!” Li
nói ca Chí đanh thép đy căm ut phn n, tiếng thét lên tbi kch ca ni đau
hình nh hn giãy đành đch gia bao nhiêu máu tươi đlại ám nh cho ngưi đc
bởi điu đó thhin cho mt chân lí git nưc đã tràn ly, tc nưc thì vỡ bờ đó là điu
tất yếu.
Cái chết ca Chí Phèo hành đng minh chng cho skhng hong bế tắc, tuyt
vọng không li thoát, kết qucho shồi sinh thc tnh ca Chí, đó cũng
con đưng duy nht đ Chí đưc làm ngưi lương thin bi ch kết thúc đưc
nhng tháng ngày ca qudữ mới thbắt đu đsống đúng nghĩa cuc đi mình.
Chí chết vý thc nhân phm đã trvề, Chí không thchp nhn kiếp sng ca thú
hoang đành đóng cánh ca cuc đi này li đmra cuc sng mi kiếp làm ngưi
sau. Hoàn cnh ca Chí Phèo phn ánh mt hin thc mâu thun, xung đt gay gt ca
ngưi nông dân vi bn đa chng hào nông thôn Vit Nam trưc cách mng
tháng Tám. Cái chết ca Chí cnh cáo cho xã hi phong kiến na thuc đa nếu không
thay đi skhông biết còn bao nhiêu ngưi như Năm Th, Binh Chc, Chí Phèo
rồi còn nhng Chí Phèo còn bn sao ca CPhèo bchưa ra đi. Nam Cao cũng ch
ra mt chân khách quan trong hi Karl Marx tng nói: đâu áp bc,
đó có đu tranh”.
Nam Cao vi tm lòng ca nhà nhân đo ch nghĩa đã la cho Chí Phèo mt li thoát
cho con đưng hoàn lương hp nht. Chí Phèo không nhng đưc klại bng ngôn
ngcủa tác gicòn cngôn ng của các nhân vt khác như thNở, bà thhay
dân làng Vũ Đi. Nghthut khc ha tâm lí nhân vt đưc nhà văn tái bút thành công.
Qua bi kch bcự tuyt quyn làm ngưi ca Chí Nam Cao mun đt câu hi ln v
quyn sng và quyn làm ngưi: làm thế nào đcon ngưi sng đúng nghĩa làm ngưi
trong mt hi phi nhân tính chtoàn schà đp, la di bt công như thế? Câu
hỏi y vn còn là nhng suy trăn trtrong lòng đc gimà by lâu nay vn chưa có
câu trlời tha đáng. Liu rng mt kết thúc khác cho truyn ngn “Chí Phèo”
đưc không?
Như vy bi kch bị cự tuyt quyn làm ngưi ca Chí Phèo đưc Nam Cao thhin rt
sinh đng, cun hút đlại ngưi đi nhiu suy ngm. Cái chết ca Chí tiếng thét
đòi làm ngưi lương thin sám nh mãi trong lòng đc gibi Chí Phèo đi din
tiêu biu cho tng lp nông dân vi mâu thun giai cp trong lòng hi cũ, nhà văn
đã phn ánh scùng cc không li thoát ca hbng ngòi bút hin thc sc so s
cảm thông xót thương chân thành.
Bi kch bị cự tuyệt quyn làm ngưi ca Chí Phèo đt đim cao
Nam Cao là mt nhà văn hin thc ln có tư tưng nhân đo va sâu sc, mi m, va
độc đáo. Ông là nhà văn hin thc xut sc tràn đy tinh thn nhân đo, chuyên viết v
hai đtài: ngưi trí thc nghèo sng mòn mi, bế tắc trong hi ngưi nông
dân bbần cùng hóa, lưu manh hóa trưc Cách mng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo
1 kit tác trong văn xuôi VN hin đi ca nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941.
Truyn klại cuc đi ca mt ngưi dân cùng khn Chí Phèo. Chí Phèo là biu
hin sng đng ca bi kch sinh ra ngưi k đc làm ngưi. Câu chuyn nhiu
bi kch, nhưng đc bit, trong đó quá trình thc tnh hi sinh bi kch ctuyt ca
Chí Phèo trong tác phm mt trong nhng đon thhin sâu sc ý nghĩa nhân văn
và giá trnhân đo ca tác phm.
Chí Phèo, nguyên là mt đa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gch cũ khi va mi lt lòng,
vốn ngưi nông dân hin lành, lương thin nhưng đã bhi phong kiến bóc lt,
đè nén, áp bc trthành “con qudữ làng Đi”. Kiến đã đy Chí Phèo vào tù,
biến Chí tmột ngưi nông dân hin lành trthành mt thng lưu manh trthành
tay sai đc lc cho bn ng hào trong làng. Chí gn như sng trong thc, b
hội rung b, bp mt quyn làm ngưi, bp đi cnhân hình ln nhân tính. Và
cứ thế Chí Phèo say trin miên. Say đquên đi quyn làm ngưi, say đlàm nhng
vic ngưi ta giao cho hn làm, đt phá, p git, donạt… ca bao ngưi n
lương thin. Nhng cơn say ca hn tràn cơn này sang cơn khác, thành mt cơn dài,
mênh mông, hn ăn trong lúc say, thc dy hãy còn say… Chưa bao gihắn tnh,
có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, đnhcó hn ở đời.
Cứ ng Chí Phèo mãi mãi sng kiếp thú vt, ri sẽ kết thúc bng cách vùi xác ở một
bờ bụi nào đó. nhưng bng tài năng nht bng trái tim nhân đo ca mt nhà văn
lớn, Nam Cao đã đChí Phèo trvề sống kiếp ngưi mt cách tnhiên. Ông đã soi
rọi ánh sáng ca ty thương vào tn đáy tâm hn đen ti ca con qudữ làng Vũ Đi.
Trong mt đêm say, hn tình cgặp ThNở ngưi đàn dhơi xu xí, quá la
lỡ thì. Đêm hôm y, hăn nm vi nhau, schung đng ngu nhiên y, mang tính bn
năng ca ngưi đàn ông trong cơn say. Nhng phm cht ca ngưi nông dân lao
động tim ng sâu trong con ngưi hn bt cht đc khơi dy. Chút ty thương mc
mạc, tnhiên cng vi squan tâm chăm sóc gin dcủa ThNở đã đánh thc lương
tri, đánh thc bn cht lương thin vn trong con ngưi Chí. Chính nhcuc gp
gỡ đó, đã thc tnh phn ngưi trong Chí, giúp Chí ci bcái vqudđể sống li
làm ngưi, khao khát hoàn lương, lương thin.
Đon văn miêu ttâm trng Chí Phèo sau đêm gp ThNở chng tNam Cao xng
đáng bc thy v phân tích tâm nhân vt. Tnh u, Chí thy lòng cht bâng
khuâng ”mơ hbun”. Nhng ln trưc, mi khi tnh rưu, hn li ung, vì thế say kế
tiếp say. Còn ln này, Chí Phèo tnh u vi trng thái khác hn “ngưi thì bn rn,
chân tay không bun nhc; hay đói u, hn hơi rùng mình. Rut gan li nôn nao
lên mt tí. Hn su như nhng ngưi m s cơm”. Sau bao năm, ln đu tiên
trong cuc đi Chí tnh dy, cht nhn ra nơi căn lu m thp ánh nng ngoài kia
rực rbiết bao, nghe thy mi âm thanh ca cuc sng: tiếng chim hót ngoài kia vui
vẻ quá, tiếng anh thuyn chài mái chèo đui trên sông, tiếng lao xao ca ngưi
đi chbán vi vNhng âm thanh quen thuc y hôm nào chcó, nhưng hôm
nay Chí mi cm nhn nghe thy, hôm nay Chí đã hết say. Phi chăng, nhng
âm thanh y chính là tiếng gi náo nc, thiết tha, tiếng gi thôi thúc ca cuc sng đã
vang lên rn ràng trong tâm hn va đưc khơi dy ca Chí… Sau đó Chí tnh ng,
nhìn li cuc đi mình ctrong quá kh, hin ti tương lai. Hơn hết, cái ưc
bình dngày nào ”có mt gia đình nho nh, chng cuc mưn cày thuê, vdệt vi…”
bỗng dưng tr lại vi Chí. Chí đã tnh rưu và thc tnh vtình cm và nhn thc. Chí
thy hin ti ca mình tht đáng bun bi “hn đã ti cái dc bên kia ca cuc đi”.
Tương lai đi vi hn, còn đáng bun hơn, hn còn lo sbởi hn đã trông thy trưc
“tui già, đói rét và m đau” nht là “đc”. Sau nhng tháng ngày sng gn như
vô thc, Chí đã tnh táo và trin miên trong suy nghĩ và xúc đng. Như vy, vi str
lại ca trí nhn thc vchính mình, cùng nhng tình cm, cm xúc ca 1 con
ngưi, Chí đang thc tnh mt cách toàn din cvề nhn thc và ý thc và bt đu hi
sinh đtrvề với kiếp ngưi. Ngòi bút Nam Cao đây tht m áp, thhin tng biu
hin ca sthc tnh Chí Phèo. Ông tht srất yêu quý nhng ngưi lao đng chân
chính. hoàn cnh hbị đẩy vào con đưng ti li. Nhưng ngay ckhi bcuc
đời làm biến dng nhân hình làm méo nhân tính thì Nam Cao vn nhìn thy v
đẹp trong sáng luôn tim n trong con ngưi h. Hchỉ cần gp điu kin thun li thì
phn ngưi sẽ bừng dy mt cách mnh mẽ.
Đúng lúc y thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và
nếu như ThNở không qua, chc hn đã khóc đưc mt. Vic làm này ca thkhiến
hắn t”hết sc ngc nhiên” đến xúc đng ”thy mt mình như ươn ưt” bi mt l
hết sc đơn gin “ln đu tiên hn đưc ngưi ta cho…”, “đi hn chưa bao giđưc
săn sóc bi bàn tay đàn bà”. Hn còn cm nhn vhương vcháo hành, thơm
ngon lm. ThNở còn cm nhn thy hn rt hin. i ánh sáng ca ty, thNở bỗng
trthành 1 ngưi đàn duyên, cũng biết m yêu, biết e l, biết ”ngưng ngùng
thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vchng”. Bát cháo hành ca thNở làm hn suy
nghĩ nhiu. Trái tim ng chng như chai đá ca Chí Phèo đã dn dn sng dy. Cái
phn ngưi trong hn cũng hi sinh. Chí đã sng đúng vi con ngưi tht ca mình,
trlại nguyên hình ca anh canh đin ngày xưa. Hành đng chăm sóc đy tình cm
yêu thương y làm tâm trng Chí đi txúc đng đến ăn năn, hi tnh. Ty ca ThNở
đã mđưng cho Chí Phèo trlại làm ngưi: “Tri ơi! Hn thèm lương thin, hn
mun làm hòa vi mi ngưi biết bao.. Ththsống yên n vi hn thì sao ngưi
khác li không thđưc”. Cùng vi mong ưc đưc làm ngưi lương thin, Chí khao
khát hnh phúc mt mái m gia đình. hn nói “Gía cthế này mãi thì thích
nh?”. Lúc này ni tâm ca Chí đã bng tnh, lương tri ca hn đã tri dy thôi
thúc tình cm hn. Hn tht smun ”thế này” đó mun đưc ăn cháo hành, đưc
sống bên cnh thị Nở, đưc thquan tâm, chăm sóc, yêu thương và đưc làm nũng vi
th.. “Hay mình sang đây với tmột nhà cho vui” mt mái m gia đình vui v,
hạnh phúc, câu nói này ging như mt li cu hôn ca Chí vi thNở một li cu
hôn rt canh đin, cht phác, gin d. Hn mun sng như 1 con ngưi đúng nghĩa,
khao khát đc trlại vi cuc sng bình thưng, đưc làm hòa vi mi ngưi. ThNở
sẽ cây cu ni gia hn vi cuc đi. Chí Phèo bâng khuâng, háo hc nghĩ ti 1
tương lai tt đp. Chính tình ngưi ca ThNở đã thc tnh hi sinh tình ngưi trong
Chí Phèo, thế mới biết sc cm hóa ca tình thương kdiu biết nhưng nào! Phát
hin và miêu tquá trình thc tnh ca Chí Phèo mt thành công nghthut đc sc
của Nam Cao. Tác giđã khéo la chn nhng chi tiết rt chân thc th, miêu ttâm
nhân vt sc so hin nên ý nghĩa ca s hồi sinh skhng đnh sc sng ca
thin lương, ca lòng lương thin.
Nhưng, bi kch đau đn thay, cánh ca cuc đi va mthì cũng ngay lp tc
đóng sm li trưc mt Chí Phèo, rt cuc thì ngay chút tình thương yêu ca ThNở
không đủ mạnh để cứu hn. Li nói ca bà cô Thị Nở như mt gáo nưc lnh tt thng
vào mt Chí Phèo làm tt ngúm ngn la lòng va được nhen lên trong Chí. “Ai li
đâm đu đi ly mt thng không cha không mnhư cái thng CPhèo” đã trthành
định kiến khc nghit lp mt li vcủa Chí. Cũng như mi ngưi dân làng Đi
khác, bà đã quen coi Chí là 1 thng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Ri cTh
Nở, ngưi đàn hn đt trn lòng hi vng đó nghe li cũng” n cái môi
đi ném vào hn bao li chi mng”. Như thế, Chí Phèo tht s rơi vào 1 bi
kịch tinh thn đau đn. Đó chính bi kch ca mt con ngưi chết trên ngưng ca
trvề với cuc sng lương thin. Chút hnh phúc nh nhoi, mong ưc đưc trlại
cuc sng lương thin cui cùng vn không đến đưc vi Chí Phèo. tht khc
nghit, khi bn tính ngưi nơi Chí Phèo tri dy, cũng lúc Chí Phèo hiu rng mình
không còn trvề với lương thin đưc na. Đnh kiến hi thông qua thNở
không cho hn đt chân lên nhp cu hy vng. Nói xa hơn, cái hi thc dân na
phong kiến đó đã p đi ca Chí quyn làm ngưi vĩnh vin không trlại. đã
tiêu hủy và đã bgãy chiếc cu ni Chí vi cuc đi.
Chí Phèo 1 ln na bhắt hi, rung bphũ phàng. Chí Phèo li ung u trong ni
tuyt vng, đau đn tt cùng ”ôm mt khóc rưng rc”. Chí Phèo ung tht say, nhưng
lần này k như mi ln, càng say thì Chí lại càng tnh, càng tnh càng nhn ra bi kch
của cuc đi mình. Phn ut, tuyt vng Chí xách dao đi đnh đến nhà ThNở. Trong
ý đnh, Chí đnh đến nhà đâm chết con “khm già”, con “đĩ Nnhưng s thc tnh ý
thc vthân phn và bi kch đã đy chch hưng đi ca Chí dn Chí đến thng nhà
Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thm thía ti ác ca kđã p đi quyn làm ngưi ca
mình rng: kđã làm cho mình phi mang lt qu, kđã làm mình ra nông ni khn
cùng này chính Kiến. Anh càng thm thía ti ác kđã p đi quyn làm ngưi,
p đi cả bộ mặt linh hn ca mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vi tư cách là mt
lthc tnh, đòi quyn làm ngưi. Thng thiết thay tiếng kêu ca Chí Phèo cui
tác phm: ”Tao mun làm ngưi lương thin!… Ai cho tao lương thin? Làm thế nào
cho mt đưc nhng mnh vết chai trên mt này?… Tao không thlàm ngưi lương
thin na! Biết không! Chmt cách… biết không!” Đó nhng câu hi vút lên
đầy cay đng không li gii đáp. Câu hi cht cha ni đau đn đy phn ut ca
một con ngưi thm thía đưc ni đau khôn cùng ca bi kch nhân. Câu hi đánh
thng vào bmặt ca hi bt lương. Câu hi như ca vào tâm can ngưi đc v
một thân phn con ngưi đy đng cay trong xã hi cũ. Căm thù cao đkhông còn
lối thoát. Chí Phèo đã giết Kiến ri tsát, ly shủy dit đi mình đgii quyết s
bế tắc ca s phn. Chí đã chết khi cánh ca cuc đi đã đóng cht trưc mt anh
không cho anh tr lại. Đó sthc tnh vquyn sng, không chp nhn đc cuc
sống của 1 con qudữ na, anh mun hoàn lương hi đâu cho, bi cái khát
khao mãnh lit đưc làm ngưi đã b dp tt. Lương thin ngay trong mi con
ngưi di sn tinh thn ca mi ngưi. Ti sao phi đi đòi lương thin? À, thì ra C
đã bcái hi nhân tính y p mt. Khn nn thay cho Chí, ngay ccái quyn
đưc làm mt con ngưi cũng bhi ngưi ăn tht ngưi y bóp nát. Cái chết bi
thm ca Chí Phèo li tcáo mãnh lit cái xã hi nhân đo, hi thc dân na
phong kiến. Cái chết y cái chết ca con ngưi trong bi kch đau đn trưc ngưng
cửa vcuc làm ngưi, tiếng kêu cu vquyn làm ngưi, cũng tiếng gi ca
nhà văn: Hãy cu ly con ngưi! Hãy yêu thương con ngưi!
Với nhân vt Chí phèo, Nam Cao đã đt ra bi kch của ngưi nông dân trưc cách
mạng: đó bi kch con ngưi sinh ra ni không đưc làm ngưi. Điu này
th hin s cảm thông sâu sc ca Nam Cao vi khát vng lương thin trong con
ngưi sbế tắc ca nhng khát vng trong hin thc hi y. Tác phm mang ý
nghĩa triết lí sâu sc đưc thhin i hình thc nghthut vô cùng đc đáo. Tác gi
đã khéo la chn nhng chi tiết rt chân thc, miêu ttâm nhân vt, xây dng nhân
vật đin hình trong hoàn cnh đin hình cng vi ct truyn vi các tình tiết hp dn,
biến hóa bt ngờ.
Tác phm Chí Phèo thông qua quá trình thc tnh hi sinh và bi kch bcự tuyt quyn
làm ngưi ca nhân vt chính, nhà văn đã mang đến nhng giá trnhân văn cao đp.
Tác phm đã lên án, tcáo ti ác ca chế độ thc dân na phong kiến đã đàn áp
bóc lt nhân dân lao đng. Qua đó nhà văn đng cm vi nhng ni khđau, bđày
đọa sbế tắc ca nhng khát vng ca ngưi nông dân. Đng thi nhà văn cũng
kịp thi phát hin trân trng trưc vđẹp tâm hn ca nhân vật khao khát thay
đổi thc ti đmang đến mt cuc sng tt đp hơn.
Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngắn
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 1
Nếu như Thúy Kiều của Nguyễn Du gặp phải bị kịch đớn đau về tình yêu Hộ gặp
phải bi kịch éo le về nghệ thuật đương thời thì Chí Phèo của Nam Cao lại gặp một loại
bi kịch vô cùng lạ lùng. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo bước ra từng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao với một loạt những
khổ đau, những bất hạnh. cũng không phải tình Nam Cao lại dành hết
những đớn đau nhất cho “đứa con đẻ” của mình. Ngòi bút sắc sảo tấm lòng
giàu yêu thương của ông đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm cùng với sự cảm thông
sâu sắc tới những con người cùng khổ như Chí. Chí chỉ một đứa trẻ mồ côi chưa
một lần được biết đến hơi mẹ.
Chí ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm dục hãm hại khiến Bá Kiến ghen tuông
đẩy Chí vào tù. Năm tháng của đày đã cùng Chí nuôi lòng thù hận ngày một lớn
dần lên. Cho đến khi ra Chí trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Đại khiếp
sợ. Còn Nam Cao chỉ tả chỉ với hai từ ngắn gọn “ghê tởm”. Nhưng khi gặp được Thị
Nở cuộc đời Chí ít nhất cũng đã được biết đến bàn tay chăm sóc của một người đàn
thực sự. Nhưng thlại nghe lời cự tuyệt mối tình ấy, khiến Chí một lần nữa
trở thành con quỷ dữ. Trong cơn uất hận, Chí đến giết Bá Kiến tự vẫn để đòi quyền
làm người lương thiện.
Câu chuyện kết thúc nhưng bi kịch về cuộc đời Chí vẫn làm người đọc không khỏi xót
xa. Được sinh ra làm người nhưng lại bị chính những con người xung quanh mình cự
tuyệt quyền làm người. Hay nói đúng hơn không ai nhìn nhận Chí một con người
nữa. Thay vào đó một con quỷ dữ không hơn không kém. Con quỷ ấy trước đây đã
từng một con người lương thiện, hiền lành chịu khó. Nhưng giờ đây lại ôm hận trở
về làng với những cơn say triền miên. Say lại chửi. Chửi cho quên đời, cho tức,
cho hả lòng hả dạ. Nhưng càng chửi, càng bực. Bởi ai cũng “chừa mình ra” thì Chí
chửi ai bây giờ? Đến ngay cả tiếng chửi xúc phạm đến người khác Chí cũng chẳng
được ai để ý. Bởi nếu một người bình thường khi tung ra những lời lẽ chua ngoa ấy
kiểu cũng bị dân làng xúm vào chửi lại, thậm chí đánh đập. Nhưng Chí thì lại
khác. Chỉ có chó chạy theo sủa ầm ĩ. Chẳng ai hiểu rằng đằng sau những tiếng chửi
ấy một nỗi niềm khát khao đến cháy bỏng được quay trở về làm người. Chỉ cần
ai đó chửi lại thôi cũng đủ để Chí thấy rằng mình vẫn được công nhận làm người. Nếu
sống một cách bình thường, thể không ai để ý đến Chí. lẽ Chí nghĩ rằng phải
chửi thật xúc phạm, thật nhiều để xem ai chửi lại không, để Chí biết rằng mình vẫn
còn được nhìn nhận. Nhưng buồn thay, tiếng chửi của Chí chỉ có tiếng chó sủa đáp lại.
Cho tới khi gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí bước sang một trang mới. Chí ý thức được
bản thân mình. Lần đầu tiên Chí tỉnh, tỉnh rượu tỉnh cả những dòng suy nghĩ đau
đáu về lòng thù hận. Không ngờ sự chăm sóc ân cần của một người đàn dở hơi lại
sức mạnh tác động lớn đến Chí như vậy. Tỉnh táo, Chí cũng chẳng mảy may nghĩ
rằng thị chỉ một người dở hơi, xấu xí. rằng điều Chí khát khao bấy lâu nay
được nhìn nhận người đã đạt được. Thậm chí thị còn dành cho Chí những hành
động, cử chỉ của một “người yêu” thực sự. Chính thị một con người chỉ hơn Chí
cái được mọi người nhìn nhận người đã đánh thức phần người trong Chí. Có lẽ
cũng vì thị dở hơi nên thị không ý thức được về hiện trạng của Chí lúc này nên thị mới
ngã vào lòng Chí. Nhưng sao điều đó cũng đã một ân huệ lớn lao cho cuộc đời
Chí.
Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu sau những cơn say. Chí bắt đầu cảm nhận hương vị của
cuộc sống từ những điều bình dị nhất, giản đơn nhất: tiếng mái chèo, tiếng chim hót,
tiếng người đi chợ qua lại… rồi, ước trong sáng đến thánh thiện ngày nào trở
về trong Chí. Chí ước một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn kiếm tiền, vợ
thêu thùa chăm lo việc gia đình. Hạnh phúc nhỏ nhưng cuộc sống êm đềm ý nghĩa biết
bao. Nghĩ vậy, Chí càng quyết tâm quay trở lại làm người lương thiện. Sẽ bỏ rượu. Sẽ
không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Từ nay sẽ thay đổi. Nhưng. Than ôi! Hạnh phúc đang
phất lên thì lại bị hất văng ra khỏi bàn tay yếu ớt của Chí khi thị trở về nghe lời
cự tuyệt Chí. Như vậy, đến ngay cả con người cuối cùng của hội này mà Chí đặt
niềm tin vào cũng không thể kéo Chí dậy được. Thậm Chí còn đẩy Chí vào bờ vực
thẳm sâu hơn, đớn đau hơn. Lúc này đây, hương cháo hành lại làm Chí xôn xao trong
người. Niềm khát khao được làm người chưa bao giờ cháy bỏng mạnh mẽ đến thế.
Nhưng ai sẽ cho Chí được làm người đây? Và lại một người lương thiện thì càng
khó. Ước giản đơn ngày nào của Chí chẳng lẽ bị vùi dập nhanh chóng như thế này
sao? Hạnh phúc tưởng chừng như đã trong tầm tay nhưng lại bỗng dưng vụt mất.
Chí hụt hẫng, khổ đau.
Như vậy, tất cả mọi người, không một ai còn nhìn nhận Chí là một con người nữa.
thể sẽ người nói rằng: Chí hoàn toàn thể tự mình làm người lương thiện bằng
cách sống tốt hơn, không chửi bới, không say xỉn xin đi làm thuê làm mướn kiếm
sống qua ngày. Rồi dần dần mọi người sẽ lại quý mến Chí, cho Chí những hội tốt
hơn để tiến thân. Nhưng cuộc sống đâu phải dễ dàng đến vậy. Nhất là trong hội ấy,
giai cấp cầm quyền đại diện cho những điều gian ác nhất, bất nhân nhất. Liệu rằng
Kiến để cho Chí được sống một cuộc sống êm đềm không khi hắn đã từng
thù hằn với Chí? Hơn nữa, khi đã mang trong mình lòng thù hận quá sâu sắc, liệu rằng
ai thể bình thản sống được. thể do Chí chưa mạnh mẽ, chưa đi đúng hướng
nên đã để xảy ra những bi kịch đớn đau trong cuộc đời mình. Nhưng khi nhìn bằng cái
nhìn khách quan, Chí chính kết quả của một hội phong kiến thối nát, tàn nhẫn.
Chí đại diện cho những người nông dân bần cùng bị hội dồn ép đến mức đánh
mất cả nhân tính, để đến khi muốn quay trở lại làm một con người bình thường cũng
chẳng được nữa. Đây một loại bi kịch lạ lùng nhất trong nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học hiện thực nói riêng.
Qua tấn bi kịch ấy, nhà văn đã chĩa thẳng ngòi bút của mình đến thế lực phong kiến
độc ác đã lấy đi nhân tính của biết bao nhiêu người nông dân lương thiện. Đồng thời
ông cũng bênh vực và cổ vũ mọi người hãy cùng nhau đứng lên giành lấy quyền sống,
quyền tự do cho chính mình để không ai phải tìm đến cái chết một cách thương tâm
giống như Chí Phèo ở cuối tác phẩm.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 2
Nam Cao cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của
nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 1945. Sáng tác của ông chủ yếu hai mảng
đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề
tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn
đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người. Đây bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của
người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên
“Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng
đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí
Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống
bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù,
Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con
quỷ dữ của làng Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát
cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan m chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần
người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm
người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng Thị
ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách
dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Bi kịch vốn được hiểu những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một
con người nhưng không điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang
khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang
khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương,
sinh ra người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương
thiện.
Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi
vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Đại…chửi đứa nào
không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng
hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu lè bè
chửi; chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc
ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi
mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi hắn con người. Nhưng
không ai lên tiếng không còn ai công nhận hắn người. Đằng sau tiếng chửi ấy
nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, nỗi
đơn khủng khiếp của một người bị hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không
được coi là con người .
Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp
người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí ,
đồng thời hiểu ra căn nguyên nào dẫn đến tình trạng ấy.
Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi,
cha không thừa nhận, mẹ bỏ trong một gạch hoang mặc cho sống chết.
Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi
bác phó cối chết, hắn trở thành kẻ bơ vơ. Đời Chí bọt bèo , lênh đênh tội nghiệp chẳng
khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến số nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ.
Nhưng không vì thế hắn trở nên hư hỏng trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai
hắn làm nấy, ai bảo hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Kiến, hắn anh canh
điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách.
Nhưng Kiến, nhà thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện Chí. Kiến
ghen vu đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở
thành nhân. Nhà thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam anh Chí
tội nhưng thả ra một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Trở về, không gia đình, không
người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành
tay sai của Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái
mặt của hắn trở nên méo thê thảm, “nó mặt của một con vật lạ, vằn lên
không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại,
tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu nghiệp,
đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu ớc
mắt của không biết bao nhiêu người lương thiện”. Bây giờ hắn không con người
nữa phải sống kiếp con vật, hắn sống trong thức, sống triền miên những cơn
say. Sự thay đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh
của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn được tình yêu thương
chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ một người như Thị Nở, thì hắn đã không
bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta thị trước
một kẻ đi về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn con người
nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết. Lâu dần, người ta lại không coi hắn
con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và
không thể trở lại làm người nữa.
Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu sự chăm sóc của thị đã
đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỷ dữ.
Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở thể sống được với hắn thì
tại sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, Thị Nở một đại diện của dân làng
Vũ Đại đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh
nhận ra bi kịch đau đớn bấy lâu nay hắn đã hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền
làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với
hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra
khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã
quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.
Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu,
nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả
nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà
Kiến. lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến trí vẫn tỉnh táo,
hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết. Tuy
lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời C cũng đau đớn nhận ra không thể
người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những
vết mảnh chai trên mặt này”. Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Kiến. Giết lão rồi, Chí
cũng không còn thể sống làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn
sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn. Hai vũng máu thảm khốc
cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống
trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và
cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc hội thực dân
nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào
“bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian
bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, cho người đọc,
vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực
tiếp cũng p phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, đoạn lời
người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho
đoạn văn như lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự
khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao
cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn
xuôi hiện đại.
Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng
thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam
Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 3
Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện
thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. người đến muộn, nhưng Nam
Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho
văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được
khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn
học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn
nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết sắc bén, khi quằn quại
đau đớn. cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết
sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ. hiện lên
một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách. Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi
cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám
nh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người.
Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng mọi nẻo,
một kết thúc bi thảm đắng cay.
"Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người" đó chủ đề xuyên suốt
toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm
thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.
Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam
Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ. của người
nông dân, mặc trong thực tế, đó cũng một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở,
băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói
rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong hội
đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn.
Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo
trong nhiều ng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo tác phẩm thể hiện trực tiếp,
tập trung và mãnh liệt hơn cả.
Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng
trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nvăn
miêu tả: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. hề gì? Trời của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng
sao: đời tất cả nhưng cũng chẳng ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Đại.
Nhưng cả ng Đại, ai cũng tự nhủ: "Chắc trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả.
Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp!
Thế phí rượu không? Thế thì khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn cho hắn khổ đến ng nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo".
Đây tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi thức. Nhưng nhiều khi
trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 4
Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao,
ta chỉ thấy một bức tranh u tối người họa vẽ ra mang tên bi kịch. thể nói,
con số không đã gói trùm lên số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã
xuyên suốt toàn tác phẩm nếu như phải chọn một nhan đề khác, lẽ Nam Cao đã
đặt tên tác phẩm của mình “Bi kịch”. đỉnh điểm bi kịch Chí Phèo phải chịu
đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch gì? Bi kịch mâu thuẫn giữa hiện tại khát vọng.
Hiện tại không khả năng giúp nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những
nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng
sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời
ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường,
khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc
loài với vật, hắn không phải một con người. Trong tiếng chửi mđầu tác phẩm, đối
tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy thể thấy, con người triền miên
say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có
nghĩa vẫn người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ
đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để chửi, để kêu gào, để được
công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng
sợ đó sự im lặng của đoạn tuyệt ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.
thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy do cô. Nhân vật đại diện cho định
kiến. Cuộc đời bằng phẳng Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến
chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi
mắng Thị Nở, cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu
cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy C
Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.
Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở.
Thị một người xấu, nghèo, duyên, lại mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng
Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép rắc vôi xung quanh nhân vật này.
Nam Cao gọi Thị Nở “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí.
Đây chính bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả
Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn Nam
Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.
Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái
cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống
đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc
cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm
nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở.
Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống
như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở
về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh,
như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng - nơi hắn đã từng
bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa
đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo
uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau càng uống thì hơi cháo
hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, cứ hiện lên trong lòng
Chí một nỗi day dứt không nguôi. như thể điều đau đớn không chịu nổi khi
nhà văn miêu tả một người đàn ông trước đó được biết đến như một con quỷ nay
lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.
từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Kiến bởi hắn biết cả Thị Nở đều
không lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật thể chỉ tiếng
đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại
chính câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy câu hỏi mang
tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng.
Cái chết của Chí Phèo cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi
chết đi không ai khóc thương. Đây chính bi kịch. bi kịch lại chồng lên bi kịch
khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây bi
kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí,
Nam Cao đã tố cáo hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo
mà còn cướp đi những Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng thể thấy được
khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản
chất lương thiện của con người.
Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những
day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể
nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong
văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện
đại.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 5
Trong giai đoạn văn học 1930- 1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những
người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng
mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những
người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân làng Đại
Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông người giàu tình yêu thương, nặng ân
tình đặc biệt đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam
Cao hy sinh, ông xứng đáng 1 nhà văn- chiến sĩ, thể coi ngòi bút đại thụ của
nền văn học Việt Nam. Tác phẩm "Chí Phèo" đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu
tiên "Cái gạch cũ", sau khi được in thành ch nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành
"Đôi lứa xứng đôi", sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành "Chí Phèo", tác phẩm
được coi là kiệt tác của nhà văn
Để hiểu được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải
hiểu được bi kịch gì? Bi kịch nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những
mâu thuẫn xung đột gay gắt thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính.
Trong truyện ngắn "Chí phèo", tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai
cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con
người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, dự định, ước mơ, 1
người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau
đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị
loại ra khỏi hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con
người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa
trở về với cuộc đời
Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi
sáng sớm tinh sương gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc
đời như bị quăng ra đấy, vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của
người dân làng Đại hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền
lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng ghen tuông vu Kiến đã đẩy hắn đi
tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ "trông đặc như 1 thằng săng đá" rồi sau đó
Kiến thực hiện tốt công đoạn cuối cùng biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí
Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ
linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1
con quỷ thật sự "Nhìn mặt hắn người ta không đoán được bao nhiêu tuổi, vàng
vàng lại sạm màu gio, lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu vết sẹo "rồi
hắn còn suốt ngày sau rượu" cứ rượu vào là hắn chửi". Trong tiếng chửi lảm nhảm của
Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi,
nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi "hắn đã đạp đổ bao nhiêu
hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu nước mắt của biết bao
nhiêu con người lương thiện" Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi hắn lúc
nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác
theo lối mòn khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ nghèo đói mà Nam Cao khai thác
nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính,
bị loại ra khỏi xã hội loài người.
lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với
hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu được yêu, lần đầu
tiên hắn được "1 người đàn cho". Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ,
và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị
Nở. "Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao "hắn lập luận rất đơn giản lại
chặt chẽ, hắn hi vọng Thị sẽ cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương
thiện. "Thị Nở thể sống yên n với hẳn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi
người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng
phẳng". Hắn lại hy vọng, lại ước về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng
chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra nhà còn 1 thị muốn quay trở về
để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không
cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với
cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao
đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu.
Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được.
Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai
thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi
Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi
bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc
nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi "ngẩn người", hắn hụt hẫng
bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã
nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở
lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn khóc lóc.
Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới
mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn
lảm nhảm sẽ đi tới nhà thị để giết nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà Kiến,
lẽ bởi hắn ý thức được ai mới người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo
già Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc "Tao muốn làm người
lương thiện", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với hội loài
người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình
rằng hắn sẽ không bao giờ thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ
cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã
hại mình, Chí rút dao ra, "chém túi bụi vào người Kiến" rồi hắn cũng tự tử, Chí
Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần,
nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm
nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên sống động càng làm tôn lên tài năng của
Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của
nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó.
Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy
quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 6
Còn điều đau đớn xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị
chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó bi kịch đau xót nhất của con người bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời
hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.
Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ tiếng chửi văng vẳng vang lên
ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt,
phẫn uất đến vậy ? Đó chính tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về,
hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn,
ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không ngần ngại chửi. Nhưng chỉ một mình C
độc thoại, không bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc trừ mình ra. Thành thử ra chỉ
tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã
được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối
dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.
Chí Phèo ra đời một cái gạch hoang, được một anh thả ống lươn mang về
nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền
được làm người. được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến
nhà khác. Cuộc đời Ckhông nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng
thân thích, không tấc đất cắm dùi. (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời
Chí đã là một bi kịch.
Khi lớn lên, một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Kiến,
Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy
nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm
đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông.
Bi kịch thứ hai đổ ập xuống đầu Chí. Nhà thực dân với những ngón đòn độc ác,
man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ
lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gớm,. khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn
uống rượu say, đến nhà Kiến rạch mặt ăn vạ cuối cùng trở thành tay sai cho
Kiến. Hắn làm mọi việc Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia
đình làm chảy máu nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào
hơi men, nhân tính nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra
anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này
đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này
qua cơn khác [. ] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt [. ] Chưa
bao giờ hắn tỉnh [. ] lẽ hắn cũng không biết rằng hắn con quỷ dữ của làng
Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá
thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi
bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình Thị
Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình bấy lâu nay hắn cố tình
không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.
Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi
gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình rất đỗi giản dị, đã làm
thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu
tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của ssống: tiếng
chim hót, tiếng người ta đi chợ,. âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi
về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn một người bình thường, với
những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại tương
lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang
cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động,
hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn
tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong
Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương
thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản
chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt họ có bị vùi dập, tàn phá
về thể xác.
Nhưng còn đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con
người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh
cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng.
Lời chính điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng :
đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi
biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa mở thì đã bị hội độc đoán bóp
nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Cđã ý thức được bi kịch của
chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để
hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy
nhất đó giết tên đã gây nên bi kịch cho mình tự giết chính mình. Chí chết đi, để
giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.
Bi kịch cuộc đời Chí do nhà thực dân, do hội với những định kiến lỗi thời
cũng do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam
Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng
thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa bản chất người trong mỗi
chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.
Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đầy đủ
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông nhiều đóng góp
quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn tiểu thuyết Việt Nam
nửa đầu thế kỷ 20.
Chí Phèo một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt
Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc,
Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí
Phèo.
Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã giải thành công nguyên nhân sao người nông
dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.
Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn một
bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.
Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không
tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi
nhà tù, Chí Phèo trở thành một "con quỷ" gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.
Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện mong muốn trở lại với
mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng
mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ sự cản trở của cô, Thị Nở
đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt
hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn
nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo
bị đẩy đến mức cùng cực.
Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã
tỏ ra rất vững vàng bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị
dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân
vật bị hủy hoại tàn bạo khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự
mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa
trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào
mà Chí Phèo không dám làm.
Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng một hiện thực
tàn nhẫn thể khiến người ta thấy đau lòng khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh
hay vẽ bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn
phải là "cái sự thật ở đời" chân thực và chính xác.
Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn
sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo khát vọng lương thiện bị
đè nén khủng khiếp. thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng
trước những trở lực quá lớn của hội thực dân nửa phong kiến, không cách
nào khác phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại
kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.
Trước đây, Chí Phèo một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện lòng tự
trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay
đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy
hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương
thiện, ra biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận
tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến
tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái ng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen rất
câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.
Trong cái hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà
đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn
thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế Chí Phèo tìm đến rượu như một
cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên làm
bất cứ cái người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận
thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình ai, bao
nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo một con vật chứ không phải con người
nữa.
Những chuỗi ngày say sưa tận, những tiếng chửi lí,những hành động liều lĩnh
hung hãn chính sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường
lương thiện mà không được.
Trước những hành động điên cuồng hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy
đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề
của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ thái độ hắt hủi nhục mạ của những
người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành
một mẹ tội nghiệp khốn nạn đã lén lút vứt con mình cái gạch cũ. Còn đẻ
ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy
rẫy bất công, vô nhân đạo.
Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán
sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn
của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.
Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt
đẹp hoàn cảnh phũ phàng của hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao
đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong
đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm
sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra một mầm
lương thiện hãy còn thổn thức. muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự
mình làm được.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là
sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ như định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của
Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp,
những khát khao ước khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương làm rung
động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái đó
lâng lâng khắp người khó lí giải.
Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ bên canh,
dịu dàng yêu thương. hắn hạnh phúc lần đầu tiên một người không sợ hãi,
không chạy trốn khỏi hắn. Cũng lần đầu tiên một người cho hắn một bữa ăn
ngon lành trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới được. Những
quyền lợi ấy to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì
đó là cả một ân huệ lớn lao.
Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy n ngọn lửa lương tri còn leo
lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn trong hắn.
Con người xấu xí "ma chê quỷ hờn" ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi
vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người hắn, thắp sáng
một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.
Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" là đã phát hiện, miêu
tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.
Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn
kiệt thì vẫn còn một người biết thương cảm hắn. cái làng Đại, Thị Nở
người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn người xấu xí, đã
gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi
khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí - một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.
Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra:
cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải sự đói cơm rách áo, sự thiếu
thốn tình thương. Bát cháo hành chính liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm
mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát
vọng sống và sống tốt đẹp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo niềm ước của một thuở xa xưa
chồng cuốc ớn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo
mong muốn Thị Nở sẽ chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng
xã hội.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí
Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng
chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài mái chèo đuổi trên sông, tiếng cười nói
bàn tán của những người đàn đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc
sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập
trong những cơn say.
Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống
đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã
dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh "hắn thèm lương
thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người". Từ một "con quỷ dữ", nhờ tình
thương yêu của Thị Nở - đó tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở
hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm
hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.
Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí
Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề lấy một nào, chẳng hề có một bàn tay thân
thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm
người của hắn vừa mới mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối
cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi
dậy nơi Chí Phèo cũng lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương
thiện được nữa. hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người vĩnh viễn không
trả lại.
Những vết dọc ngang trên mặt - kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn,
rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của
hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với
cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le
lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.
Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị
Nở cự tuyệt, người hắn nghĩ sẽ cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống
lương thiện. Thị Nở không phải không u hắn, không phải không muốn lấy hắn
nhưng những định kiến hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết
duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng
bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: "ôm mặt khóc rưng rức".
Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh
Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn
phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Kiến đòi lương thiện.
Đau đớn thống thiết thay, tiếng phẫn uất của Chí Phèo: "Ta muốn làm người
lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên
mặt này. Tao không thể người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách.
biết không. ". Căm thù cao độ không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết
Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.
Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng hội nông thôn
Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con
đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá
cả thể xác tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương
thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.
Chí Phèo chính tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; tiếng i bảo
vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong
ước được sống sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ
vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 2
Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta
liền nhận ra rằng đây mới hiện thân đầy đủ những gọi khốn khổ, tủi nhục nhất
của người dân cày một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân
hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn
Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục Chí đã nếm trải, không thể
không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng chủ đề
xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
"Bi kịch tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải
chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo một chuỗi dài bi kịch bi kịch
sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện
sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với
người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên
của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ
một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những
câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị rách, bị cắt vụn
người đọc cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau
bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng
"cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người". Nhưng không ai lên tiếng cả.
Người ta không lên tiếng người ta không công nhận Chí người. Cả làng Đại
không ai hiểu Chí, giá một người để chửi nhau, lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi người
ta sống là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người
đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của
Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn
khổ thay, Chí càng bế tắc.
Giá như ngày ấy làng Đại một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở
"Không chỉ biết cho mà còn biết giữ". giá như. giá như. chỉ cần một lần giá như xảy ra,
chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Đại coi Chí người thì tấn bi kịch của
đời Chí sẽ không hội xảy ra. Nhưng chuyện đã xảy ra thì đã xảy ra. Nam
Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu
quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ
rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần
truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy
mang cho một người đàn góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường
như đã báo trước cuộc đời độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào
đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không
cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, lẽ lớn lên cùng những người lao động,
Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái
người ta khinh". Anh khát khao "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái anh thể với trong tầm
tay.
Một n ghen vu của Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết
với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai
Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về
lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà đã cướp
đi của y một phần nhân hình. ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy),
đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra
cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy
những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết". Đó hình
dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau.
Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Kiến bằng cách ăn vạ, chửi
đổng. Nếu như trả thù cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì
Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại
từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ quáng của Kiến. Hắn
chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh
với chính kẻ thù.
Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say đánh nhau
trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài.
Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem nđời bỏ
đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Đại đều tránh mặt, mỗi
lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói
trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn
không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách thức, không tìm thấy lối thoát. Chí
đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn
khi bị ớc quyền làm người không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo
chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu biết cái cách người ta sản
sinh ra hắn tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ
tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một
con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa
nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.
Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma
chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất làng Vũ Đại thể chiếu sáng cõi đời tăm
tối của Chí. thể đàn của thị không khơi gợi bản năng thú vật y. Tình thương
của thị đã khơi dậy cái tính người lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn
ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống lâu nay hắn không để ý.
Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài mái chèo đuổi cá. Những âm
thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước rất người đã từ thuở xa xưa. Lần đầu
tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và độc - cô độc còn sợ
hơn đói rét và ốm đau".
Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo
hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - tình yêu của kẻ dở hơi,
của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản
tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật biên. Nam Cao đã thực sự
hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người
của Chí. Thế sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự
tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với
thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính thị Nở. Thị thể sống chung với hắn thì
làng Đại cũng thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch đau đớn thay cho Chí, Thị
Nở không thể gắn với Chí. theo Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao
mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ".
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức
hội tước đoạt. Thị Nở chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng
chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm
tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai
cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không
thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không
được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói
những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Kiến cũng tự nói với bản thân
mình. Hành động giết Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí
cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí quá đắt. Cái chết của Chí
lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con
người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức
mở giá trị điển hình của nhân vật này biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi
khổ của người nông dân thời nước ta còn sống trong vòng lệ. Chí còn đại diện
cho cái phần khùng điên khuất tối sinh ra trên cõi đời này, ai cũng thể, nếu
không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. căn nguyên
từ hội cũng căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm
thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 3
Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: "Khi chị Dậu, anh Pha
xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ
nghĩ nỗi khổ của người nông dân một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là
cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao,
người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất".
Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu
sao chị vẫn được gọi người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo linh hồn của
mình đtrở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. khi ý thức nhân phẩm được trở về
thì lại bị hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch
thê thảm độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao
diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.
Lai lịch = đoạn đời 1 - xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện.
Lai lịch của Chí Phèo một số không tròn trĩnh. Hắn một thằng không cha, không
mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn
đã bị vứt bên cái gạch bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về
nuôi, sau đó cho người đàn goá mù. Và người đàn goá mù bán cho bác Phó Cối.
Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ đi ở
cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho
nhà Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải
làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã một thời Chí Phèo người
nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.
Bi kịch 1 = đoạn đời 2 - Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị tha hoá, đầy
đoạ, lăng nhục.
Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay
độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ một cớ ghen tuông vu vơ, Kiến đã đẩy Chí
Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân
đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ
làng Đại vào tù, Chí Phèo một con người; ra, về làng Đại, Chí Phèo
một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng
với một bộ dạng rất quái: "cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt
gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ".
Nam Cao vốn một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn
chú trọng vẻ bề ngoài, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật lưỡng như tả Chí Phèo
lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khỏe
mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn
quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình tính cách, nhân hình
nhân tính. Trên đường đến nhà Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi
bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo ý
thức hồ về bi kịch về cuộc đời mình, nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một
con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được
giao tiếp của Chí đơn giản chỉ được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Đại
để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ
mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của
xã hội loài người.
Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không
thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị
nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh,
mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ
đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó một cuộc đời sống thức,
một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị. "Hắn say thì hắn làm bất cứ việc người
ta sai hắn làm. Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu
nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và
nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện". Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo
sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước
đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản
ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc,
lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương tội lỗi,
trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi
kịch đầy nghịch lí: vừa nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa con quỷ
dữ đối với dân làng Đại. Mọi người đều sợ tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi
qua.
Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó
lén lút vứt đứa con vào một cái gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo
lưu manh, tha hoá bị đày đọa, lăng nhục, bcướp cả nhân tính nhân hình, bị đối xử
như một con vật là toàn bộ hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, nhân đạo
thời bấy giờ.
Bi kịch 3 = đoạn đời 3: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn
bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông
của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người
đàn xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc
mạc, chân thành không tính toán của người đàn khốn khổ Thị Nở, bản chất
người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã dành
cho Chí Phèo những trang n xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu quá
trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say tận,
Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn
mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng mái chèo anh thuyền
chài đuổi trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn đi chợ về. Đó âm
thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí
Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị hội thực dân phong
kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tàn bạo làm cho điếc tâm hồn. Giờ đây tâm
hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu
chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn
sự độc; cũng lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước
một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một
tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. giúp Chí Phèo
nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:
"Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người"
Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện.
Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa
hắn cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái hội bằng phẳng của những con
người lương thiện. Thị Nở cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện
câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại hội loài
người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
Nhưng cánh cửa hi vọng vừa mở thì lại bị đóng sầm ngay lại của Thị
không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ một nghề rạch mặt ăn vạ. Nhưng
trách - hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, nhân đạo của
làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất
rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại
rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm
hắn say. "hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành" - cái hương vị của tình người,
tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi;
hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo sự thể hiện cao nhất đỉnh
điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo lại uống rượu xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nnhư
dự định ban đầu đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ tuyệt vọng, Chí
Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Đại, hắn hiểu
ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người hồn người của mình Kiến.
Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào
mặt lão dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã
vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình.
Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì hội không cho hắn sống. Ý thức nhân
phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái
chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một
cái chết thê thảm của một con vật. ý nghĩa tố cáo hội một cách sâu sắc
mãnh liệt.
Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân
phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta
n nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?". Đó
một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc:
làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo
vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp" thật
ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến
nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị
đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo
với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm
người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, một góc độ
mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang
văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam
Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn
của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 4
Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: "Chí Phèo", Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt
Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với
bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu
văn học hiện thực. Đây tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây
người đọc mới hiểu thế nào tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong
hội phong kiến.Nếu như những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức
bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình,
nhưng đến với Nam Cao thì đã những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ
phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh
tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.
Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức
sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo
ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một
con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại
không được đáp trả. ? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ,
không đơn giản rất logic, rất dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi
chửi ngay tất cả làng Đại. nhưng đối tượng của những tiếng chửi này hồ
không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế
này. thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến
bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng,
hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong
ai đó chửi lại hắn, để hắn thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy không
người nào chịu chửi lại hắn, nghĩa tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn
người. Chửi lại hắn nghĩa còn thừa nhận hắn người, còn bằng lòng giao tiếp
đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Đại với hy vọng sẽ ai đó chửi lại. Nhưng
hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa
mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.
Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu
hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông
dân bị hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị,
cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả con số không: không
nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi.
Nhưng đó mới chỉ mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay
lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi hội loài người, phải sống kiếp
sống tối m của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí
Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo một con người hiền như cục đất, bản
chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù,
sau 7- 8 năm ra, Chí Phèo đã rơi vào thức và bị lưu manh tha a, tất cả mọi
hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong thức : đâm
thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ. Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong
con mắt người dân làng Vũ Đại.
Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh
tha hóa rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa
Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương
thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của
cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng
bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm tình người nhân hậu. Người đàn
xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại người duy nhất làng Đại biết được sao lúc
nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã
làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ,
thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.
Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã
tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày lâu nay Chí quên
lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước một gia đình
nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng, kgiả thì mua dăm ba sào ruộng làm. .Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ được một
cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới
thấy hắn đã già vẫn còn độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn
nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước
được làm người, được trò chuyện.
Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn
ngủi, hạnh phúc vừa mở đã khép lại. C Phèo Thị Nở đã dắt tay nhau tới
ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến hội Thị
Nở đại diện. Khi tỉnh dậy đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình
nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng không thể
trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.
Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát
được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ khao khát, như ánh cầu
vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm
khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự độc,
đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được!
Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây
chính sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh
những vết mảnh chai trên mặt chính dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh
này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Đại trở thành nỗi ám ảnh kinh
hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo con quỷ dữ. Thằng đầu
hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước
chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.
Hơn ai hết, Thị Nở người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân
hậu, nhưng chính Thị Nở cũng người đẩy Chí Phèo đến bvực của cái chết. Thị
vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.
Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống nhân cách cái
cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo
cầm dao đâm chết Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa
chọn - một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó cách duy nhất để con người lương
thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.
Hành động tự sát của Chí Phèo cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất
cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò.
Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy
tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng
thời cũng sự thể hiện ràng nhất của tưởng nhân đạo tinh thần nhân văn của
ngòi bút Nam Cao.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 5
Viết về người nông dân không hẳn đề tài mới đối với Nam Cao, thậm chí trước đó
ông đã từng khai thác xây dựng thành công nhiều hình tượng điển hình như: Lão
Hạc, Hộ (Đời Thừa), Hảo, Lang Rận.. Thế nhưng Chí phèo lại một điểm nhấn
khác biệt giữa những số phận đang quằn quại trong đau khổ dưới sự bất công của một
chế độ mục rữa, thối nát. Nếu họ vẫn giữ được nhân cách thiên lương trong con
người mình thì Chí Phèo lại hứng chịu hàng loạt tấn bi kịch nghiệt ngã từ bần cùng
hóa cho đến lưu manh hóa cuối cùng bị cự tuyệt quyền m người bi kịch lớn
nhất của Chí Phèo.
Thiên truyện mở đầu bằng hình ảnh khá sống động, không phải những trang viết
nhẹ nhàng, lôi cuốn dẫn dắt người đọc đến với tác phẩm như nhiều nhà văn khác. Nam
Cao đánh mạnh vào tâm độc giả bằng tiếng chửi thông thốc như thách thức cả cuộc
đời của Chí Phèo. Chân dung của một say rượu ngật ngưỡng đầy phẫn uất vừa đi
vừa chửi. Hắn chửi tất cả những trên đời hắn thể chửi. Tiếng chửi của Chí
không phải ngẫu nhiên, hắn chửi một cách rất logic. Ban đầu hắn chửi trời, chửi đời
rồi đến cả làng Đại cuối cùng hắn kết thúc tiếng chửi trong vô vọng khi không
đứa n chịu chửi nhau với hắn. Trong cơn say vật vã, Chí ý thức bi kịch của bản
thân, hắn thấm thía nỗi khốn khổ khi cả làng Đại quay lưng, chẳng ai chịu giao
tiếp với hắn. cứ thế hắn chửi rồi lại nghe, chỉ ba con chó dữ với một thằng say
rượu.
Chỉ với những tình tiết độc đáo, mới lạ trong tiếng chửi cay đắng của Chí phèo đã bao
quát toàn bộ thảm cảnh thê lương và số phận người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một hình tượng điển hình cho tất cả nhưng bi kịch tội lỗi trong xã hội loài
người chính Chí lại bị xem con quỷ dữ của làng Đại. Trong quá khứ, Chí
Phèo một người nông dân lương thiện, hiền lành, thế những cái lương thiện hiền
lành ấy trong phút chốc đã bị vùi dập bởi sự thối nát, gian ác của hội phong kiến
nhân vật trực tiếp tên cường hào Kiến. Bị đẩy vào tù do tính ghen tuông của
Bá Kiến, anh canh điền chất phác khi xưa sau khi ra tù đã biến đổi hoàn toàn cả về thể
xác lẫn nhân cách "trong đặc như thằng săng đá, cái mặt thì đen rất cơng cơng.."
Chí thay đổi hoàn toàn, hắn đã mất hết cả hình người lẫn nhân tính. Kể từ đó cuộc đời
hắn trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi
cho đến khi đêm định mệnh ấy xảy đến với Chí. Một thằng lưu manh say xỉn một
con đàn dở hơi, ngẩn ngơ, họ ăn nằm với nhau vào một đêm "rười rượi những
trăng". Cuộc gặp gỡ với thị Nở chính ớc ngoặt quan trọng cứu rỗi những tháng
ngày bế tắc không lối thoát của Chí, nó hệt như một vệt sáng lóe lên từ bùn lầy tối tăm
mở đường cho hắn trở về với con đường bằng phẳng của người lương thiện khoảng
thời gian bình yên trước đây hắn từng sống. Tình yêu thương, sự n sóc ân cần của
thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí sau bao nhiêu năm ngủ yên. Lần
đầu tiên sau bao nhiêu năm hắn bâng khuâng tình dậy cảm nhận mọi vẻ đẹp tuyệt
vời của cuộc sống: "Tiếng chim hót trong lành buổi sớm", "tiếng cười nói rôm rả của
những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Những âm thanh quá
đỗi quen thuộc gần gũi nhưng sao hắn cảm thấy xa lạ quá. Đắm mình trong tiếng
gọi tha thiết của cuộc sống, hắn bắt đầu hồi tưởng về "những ngày xưa xa xôi" mang
theo một ước khát khao "," một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải ". Hắn nghiền ngẫm quá khứ rồi lại tự chạnh lòng hiện tại bởi" hắn thấy mình
già mà sao cô độc thế ", hắn nhận ra mình đã sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn.
Giây phút được hồi sinh trở lại, hắn muốn sống sao cho thật ý nghĩa. Khi thị Nở mang
bát cháo hành đến, hắn ngạc nhiên rồi lại thấy" mắt hình như ươn ướt "bởi đây lần
đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà. Bát cháo hành của thị Nở là hương vị
của tình người, tình yêu cuộc sống. Tình cảm ấy nhen nhóm trong con người Chí Phèo
khiến hắn muốn làm người lương thiện, muốn trở về với con người nguyên bản khi
xưa thị Nở sẽ" mở đường cho hắn ", thị sẽ giúp hắn hòa nhập với cộng đồng. Hắn
đặt hết niềm tin nơi thị, hắn muốn ngỏ lời với thị" giá mình cứ thế này thì thích nhỉ..
Hay mình sang đây với tớ một nhà cho vui? "Chỉ lời nói tư như đứa trẻ nhưng
chứa đựng cả một tấm lòng khát khao được hoàn lương đến nhường nào của Chí Phèo.
Tình yêu thương mộc mạc nhưng chân thành đã khơi gợi bản năng của" một con quỷ
dữ "mong muốn thoát kiếp làm" người hiền ". Đây chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc
của Nam Cao" nhìn thẳng vào sự thật tàn nhẫn, mlòng ra để đón mọi vang động của
cuộc đời, phải nói lên nỗi cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng ".
Cuộc sống màu hồng của Chí Phèo thị Nở thật ngắn ngủi chớp nhoáng biết bao,
hạnh phúc vừa mở đã đột ngột khép lại bởi" hãy dừng yêu để hỏi thị đã ". Thị
hớn hở chạy về nhà xin phép cho yêu lấy Chí phèo. thị Nở chính là
định kiến hội, điển hình của những mâu thuẫn, thị trong hội độc ác.
không cho phép cháu mình lấy một thằng lưu manh chuyên" rạch mặt ăn vạ ". Người
đàn cay nghiệt đang tâm đạp nát chút hi vọng mong manh còn sót lại nơi Chí. Bi
kịch bị ctuyệt quyền làm người khiến Chí trở nên đau đớn, tuyệt vọng khi thị Nở"
trề cái môi đại trút tất cả lời lên Chi ". Lúc đầu Chí ngạc nhiên, Chi chợt hiểu
rồi Chí lờ mờ nhận ra rằng đến một người như thị Ncòn không chấp nhận kẻ
khốn cùng này thì còn nơi nào cho hắn dùng thân để trở về với cuộc sống bằng phẳng
kia. Mọi thứ vừa được bồi lấp nguyên vẹn thì trong phút chốc chỉ một lời nói chua
chát đã hóa thành tàn tro, trở về con số không tròn trĩnh. Quá trình diễn biến tâm
đầy phức tạp, phần kịch tính bất ngờ, bộc lộ nét tâm trạng phẫn uất, đau đớn
của kẻ bị cự tuyệt quyền làm người. Chí như rơi vào vực thẳm của hố sâu, trở nên hụt
hẫng khi niềm tin bị hất phăng một cách tuyệt tình. Hắn xót xa nhận ra sự thật phũ
phàng, đau khổ chứng kiến bi kịch diễn ra trước mắt. Chính cái gọi lương thiện,
điều chỉ trong vài ngày ngắn ngủi trước đó, hắn khao khát chờ đợi, giờ đây đã tan
biến vào hố đen của khoảng không, bị vứt bỏ một cách đốn mạt. Hắn cố níu kéo điều
đó từ thị nhưng thị đã nhẫn tâm" gạt ra, lại giúi thêm cho hắn một cái ". Phải chăng
cả hội đang quay lưng với hắn, không chấp nhận một thằng lưu manh như Chí tồn
tại trên đời. Đau xót làm sao! Khốn nạn làm sao! Chí trở về với sự độc, giằng
tâm can, hắn quằn quại trong tấn bi kịch tàn ác. Những lúc thế này, hắn lại tìm đến
rượu, trong men say, hắn thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Cảm c ùa về rồi cứ
động đậy trong lòng hắn khiến hắn ý thức thị người đánh thức bản tính lương
thiện trong con người hắn nhưng cũng chính người đã dồn ép Chí trở về với bản
tính thú vật trước đây. Hắn cứ uống nhưng càng uống càng tỉnh, hắn tỉnh rồi lại tự
nghiền ngẫm lại tấn bi kịch cuộc đời mình để rồi từ đó hắn thấm thía tội ác của kẻ
thù, kẻ đã biến tướng nhân cách cuộc đời hắn thê thảm như hôm nay. Chí xách dao
đến nhà thị Nở với mục đích giết chết" con đĩ Nở con khọm già nhà "nhưng
điều làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở để rồi hắn băng thẳng đến nhà Kiến. Đây
thực chất chỉ một hành động thức nhưng lại hội để hắn nhận thức kẻ thù
thực sự của mình ai. Đứng trước tên cường hào máu lạnh, Chí Phèo thốt lên câu nói
thống khổ, bi thiết:" Ai cho tao lương thiện? Làm sao để mất những vết mảnh chai
trên mặt? Tao không thể m người lương thiện được nữa! "Tiếng kêu ai oán ấy xoáy
sâu vào lòng người đọc để lại nỗi âm đầy ám ảnh trong tâm khảm mỗi người.
Đây không chỉ là lời vạch mặt đanh thép mà còn là bản cáo trạng súc tích tố cáo tội ác,
cách nhem nhuốc của tên cường hào Kiến. Chỉ thẳng tay chỉ vào mặt Kiến
trợn mắt đòi lại quyền sống cho mình. Cái quyền làm người ấy được chứng minh
bằng hành động giết chết kẻ thù tự sát. Chí tự giết chết con quỷ dữ trong người bởi
ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về, không chịu nổi kiếp sống thú vật, Chí đã tự tìm
lối thoát cho mình khỏi nghịch cảnh của hội. Hình ảnh những vết mảnh chai trên
mặt dấu vết của những năm tháng tội đồ, chúng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng
của người dân làng Đại. Chí Phèo đấu tranh tưởng để giành lại quyền sống,
quyền làm người. Hắn quằn quại trong vũng máu và kết thúc quãng đời tội lỗi. Dù vậy
nhưng nhân cách lương thiện khát khao được làm người lương thiện của Chí sống
mãi trong lòng độc giả.
Tác phẩm Chí Phèo không chỉ nổi bật cốt truyện đặc sắc, mới lạ kết hợp ngôn ngữ
biểu cảm, sống động cùng nhiều tình tiết hấp dẫn, biến hóa đầy kịch tính còn ghi
dấu sâu đậm trong lòng bạn đọc tính nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Phải người
có" đôi mắt mới "và" trái tim đầy xúc cảm "nên ông mới phát hiện miêu tả nét
diễn biến tâm cùng bi kịch đau thương của số phận người nông dân cố cùng bị lăng
nhục. Nhà văn không dừng lại việc miêu tả ngoại hình nhân vật ông còn đi sâu
vào từng ngõ ngách tính cách, len lỏi tận sâu nội tâm, trạng thái của người nông
dân trong quá trình bị lưu manh tha hóa để tìm tòi, khai phá" những điều mới mẻ ","
khơi những nguồn chưa ai khơi ".
"Chí Phèo" một hình tượng rất khác so với những tác phẩm về người nông dân của
nhiều nhà văn cùng thời. Một số phận nghiệt ngã đến cùng cực, khốn khổ, bi thảm đến
độ không còn lối thoát nào để nhân vật thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghịch cảnh.
Qua đó tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực hội Việt Nam lúc bấy giờ thực
trạng người nông dân bị đày đọa, áp bức nhưng không thể lên tiếng để bảo vệ quyền
sống của bản thân.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 6
Đã lần tôi tự hỏi phải chăng trái tim của nhà văn một khối pha tinh khiết, để
qua đó bao kiếp người từ hạnh phúc đến đớn đau bi kịch đều ngả bóng lại trên trang
văn. Nam Cao lẽ một nhà văn như vậy, sống dậy giữa tác phẩm của ông cả
một thế giới nhân vật con người, từ kiếp “Sống mòn”, “Một bữa no”…đến kiếp đời
quằn quại của một con quỷ dữ bị tha hóa rồi lại bị cự tuyệt quyền làm người trong
“Chí Phèo”. Lúc đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, năm 1941 nhà xuất bản đổi lại
là “Đôi lứa xứng đôi” năm 1945 in lại với tên “Chí Phèo” một truyện ngắn có thể
“làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu
trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên
ra đời từ đó gây tiếng vang lớn về một tấn bi kịch lạ lùng bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người.
Bi kịch sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống khát vọng nhân. Hiện thực đời
sống không đủ điều kiện để nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến
nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát thể dẫn đến cái chết. Bi kịch của Chí Phèo tình
cảnh éo le của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi rồi bị
cự tuyệt quyền làm người, một chuỗi dài bi kịch. Nhìn lại kiếp đời đầy dằn vặt, tủi
hổ của Chí Phèo, ta thấy nỗi đau khổ lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ chính là
bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội từ chối, xua đuổi.
Cách mở đầu tác phẩm của Nam Cao cũng rất lạ lùng, đó tiếng chửi chua ngoa, đầy
thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, gây ấn tượng mạnh mẽ đối
với người đọc từ phút đầu tiên. Nhà văn miêu tả dáng vẻ của Chí: “Hắn vừa đi vừa
chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong hắn chửi”. Đến đây ta chợt thắc mắc rằng
lẽ Chí lại chửi ầm ĩ đến thế? Nhưng chúng ta sẽ dần hiểu tiếng chửi ấy không
phải tiếng chửi bâng quơ rất -gic. Ban đầu Chí chửi trời đến chửi đời rồi
chửi cả làng Đại, chửi không biết đứa o đẻ ra thân Chí cho Chí khổ thế này. Chí
đã phải cất tiếng chửi thèm mong ai đó chửi lại mình, để được giao tiếp với đời,
với người. Vậy không ai chịu chửi lại Chí, nghĩa tất cả mọi người đã dứt
khoát không coi Chí người, không công nhận sự tồn tại của Chí, mọi người đã xóa
tên Chí khỏi hội loài người. Chí chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, cảm giác như
mình trong sa mạc đơn: “Hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ ba con chó dữ với một
thằng say rượu”. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng tiến, những câu văn ngắn, nhịp nhanh
như đang rách, cắt vụn từng câu văn người đọc như thấm thía đôi phần sự quằn
quạt của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người ấy. Nam Cao ngược dòng quá
khứ để làm quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng
thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Ngay từ lúc mới chào đời, Chí đã phải đón nhận bất hạnh đầu tiên, bị bỏ rơi “trong cái
gạch bỏ không, xa nhà cửa vắng người lại qua”. Người ta bỏ Chí ở nơi hoang
vắng đến thế chẳng khác nào bỏ rơi để Chí chết đi tại đó, ngay từ đầu Chí đã không
được quyền sống để làm một con người, ấy thế mà vẫn “có một anh đi thả ống lươn về,
thấy hắn trần truồng xám ngắt trong một cái váy đụp”, anh ta “rước lấy và cho một
người đàn góa mù”. Người này bán Chí cho một bác phó cối không con. Dẫu lớn
lên nhờ lòng tối của bác phó cối nhưng Chí cũng chỉ một món hàng dùng để trao
đổi, bán mua, cuộc đời của Chí trải qua tay người này người khác, bắt đầu từ những
con số không: không nhà, không cửa, không cha, không mẹ, không họ hàng, không
một tấc đất cắm dùi. May thay, Chí vẫn được sống, vơ, trơ trọi nhưng vẫn trở
thành anh canh điền hiền lành, lương thiện, giàu tự trọng.
Cuộc đời Chí cứ thế êm trôi qua sau bao tháng ngày trầm luân giữa ng đời cho
đến khi ghen tuông vu Kiến đã đẩy Chí vào nhà thực dân nửa phong
kiến đầy tàn bạo. Chính nơi đen tối ấy đã nhanh chóng biến Chí thành kẻ “trông đặc
như thằng săng đá”. Khoảng thời gian bảy, tám năm đã thật sự biến anh nông dân hiền
lành, chất phác thành một Chí Phèo tàn tạ, gớm ghiếc với “cái đầu thì trọc lóc, cái
răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông
gớm chết”. Diện mạo của Chí thể khiến bất cứ ai khiếp sợ. Chí Phèo đã được “đào
luyện” hấp thụ những thói xấu của nhà thực dân, Chí mặc “quần áo nái đen với
cái áo tây vàng, trên ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với hai ông
tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Đó là dấu hiệu cho thấy Chí đã bán rẻ linh
hồn mình cho quỷ dữ để rồi trở thành một con quỷ thật sự. Chí rơi vào thức bị
lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong
thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ... Những tội ác của Chí cứ đầy
lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.
Cuộc sống theo chu trình “sáng cày sâu, chiều cuốc bẫm” của người nông dân hiền
lành giờ chỉ còn mảng ức xa vời, khát vọng hồ đối với Chí. Mặt Chí “vàng
vàng lại muốn xạm sạm màu gió. vằn dọc, vằn ngang không thứ tự, biết bao
nhiêu sẹo”. Cánh cửa cuộc đời Chí như khép lại hoàn toàn, nhân hình bị hủy hoại
mà nhân tính cũng bị xói mòn. Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái
khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người không hề hay biết.
Trước khi gặp thị Nở, Chí chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu
biết bọn thống trị tàn bạo để trừ khử các phe cánh đối lập đã thực hiện phương thức
“dùng những thằng đầu để trị những thằng đầu bò” với Chí. Những tưởng sphận
cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa ấy nhưng sự
xuất hiện thị Nở đã đưa Chí từ vực sâu của tội lỗi đến bến bờ lương thiện. Vai trò, vị
trí của thị trong tác phẩm rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí
Phèo, đưa Chí trở lại với kiếp đời hoàn lương mà bấy lâu Chí đã đánh mất.
Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn” ấy là đốm sáng nhỏ nhoi duy nhất còn sót lại
của làng Đại thể chiếu rọi vào khoảng trời đêm đầy tăm tối của Chí Phèo. Sự
xuất hiện của thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm tình người
nhân hậu. Hơi ấm của bát cháo hành chính hơi ấm đã đánh thức một phần lương
thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, giờ đây sức sống tâm hồn đã
trỗi dậy trong Chí. Sau khi con người lương thiện phục sinh, Chí đã tỉnh dậy lắng nghe
những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày lâu nay Chí quên lãng. Những âm
thanh gợi cho Chí những hoài tưởng về một thời êm đẹp: ao ước một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một lần nữa Nam Cao lại nhắc ta nhớ về
bản chất lương thiện vốn của Chí Phèo. Đáng lẽ ra Chí cũng sẽ được một cuộc
sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi tỉnh dậy, Chí mới thấy mình
đã già vẫn còn độc, Ctỉnh táo nhận ra mình đang đã tới “cái dốc bên kia của
đời” vẫn đơn côi, lẻ bóng. “Chao ôi buồn!”, thì ra Chí cũng biết buồn, một cảm
xúc bình thường của một con người, Chí sợ tuổi già ầm ập ào tới, sợ cảnh “đói rét
ốm đau độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét ốm đau”. Thị Nở đã thật sự
thay đổi cuộc đời Chí từ giây phút ấy. Chí thật lòng “say thị lắm”, hắn thấy lòng
thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”.
Thế mới thấy sức cảm hóa diệu của tình thương. Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi
vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo đẹp đẽ, cho CPhèo một tia hi vọng về một
ngày không xa, Chí sẽ được công nhận là một con người.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Chí Phèo
| 1/57

Preview text:


Dàn ý phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người Dàn ý số 1 a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
● Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn hiện thực lớn, nhà báo kháng chiến, một
trong những nhà văn tiêu biểu nhất có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc
hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
● Chí Phèo là một trong những tác phẩm có giá trị hiện thực cao giúp cho người
đọc có cái nhìn khái quát hơn về một hiện tượng xã hội ở vùng nông thôn Việt Nam trước năm 1945.
- Giới thiệu bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo: Bằng ngòi bút hiện
thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. b) Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được Nam Cao viết năm 1941 dựa trên cơ sở người thật,
việc thật ở làng Đại Hoàng, ông đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh
động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột
ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.
- Giá trị nội dung: Truyện đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
* Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?
- Bi kịch là sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng, mơ ước, mong muốn con người.
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm
một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo.
* Luận điểm 1: Bi kịch thể hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện
- “Hắn vừa đi vừa chửi. ” - > sự xuất hiện tự nhiên.
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
● Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
● Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
=> Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không
ai coi hắn như một con người.
* Luận điểm 2: Bi kịch bị khước từ quyền làm người ngay từ khi sinh ra
- Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người:
● Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
● Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi
● Tuổi thơ sống trong bất hạnh
● Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội đã bóp chết ước mơ lương thiện ấy
=> Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường, ngay từ
khi mới sinh ra đã bị chối bỏ.
* Luận điểm 3: Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
● Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
● Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”
- Hậu quả của những ngày ở tù:
● Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì cơng cơng
đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” - > Chí Phèo đánh mất nhân hình.
● Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá
phách và làm công cụ cho Bá Kiến - > Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù - > Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến.
=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông
dân bị đè nén đến cùng cực.
* Luận điểm 4: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo - > định kiến của xã hội.
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
● Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
● Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đến nhà Bá
Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
● Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
● Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
=> Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng nhân vật điển hình vừa sống động, vừa có cá tính độc đáo
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ
- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính
- Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên
- Giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt. c) Kết bài
- Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch. Dàn ý số 2 I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện
thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này
- Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của Chí Phèo II. Thân bài
1. Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?
- Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm
một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo
2. Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện
- “Hắn vừa đi vừa chửi..”.: sự xuất hiện tự nhiên
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
● Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
● Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
⇒Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai
coi hắn như một con người
3. Bi kịch bị khước từ “quyền làm người” ngay từ khi sinh ra
- Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người :
● Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
● Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
● Tuổi thơ sống trong bất hạnh
● Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy
⇒Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường ngay từ
khi mới sinh ra đã bị chối bỏ
4. Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
● Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
● Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”
- Hậu quả của những ngày ở tù:
● Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng
đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
● Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá
phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông
dân bị đè nén đến cùng cực
5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
● Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
● Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá
Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
● Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
● Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người
⇒Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng
- Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị
cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
- Khẳng định đây là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ III. Kết bài
- Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là kiệt tác của dòng văn
học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo đại diện cho những người nông dân cùng cực bị
đẩy đến đáy cùng của xã hội. Những tưởng cuộc đời Chí sẽ chìm trong đêm tối nhưng
sau khi gặp thị Nở Chí đã hồi sinh kiếp sống làm người. tuy nhiên éo le thay bởi định
kiến của bà cô thị cũng là của toàn xã hội đã gây bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí
thật đau đớn, xót xa để lại cho độc giả nhiều ám ảnh bởi tiếng kêu “Ai cho tao lương
thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”
Nam Cao thật tài tình khi đã khắc họa được tâm phức tạp của nhân vật khi bị thị Nở từ
chối với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, hành động bên ngoài
và lời kể lời bình của tác giả…, đây là đoạn văn của đỉnh cao cho sự cởi nút thắt câu
chuyện cũng là nút thắt trong cuộc đời nhân vật để cho hắn một lối thoát tất yếu cho bi
kịch bị cự tuyệt làm người.
Năm ngày bên thị thật bình yên hạnh phúc tưởng rằng cuộc đời Chí được hoàn lương
từ giây phút ấy nhưng thị lại là một người đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ đem câu chuyện
tình của mình xin ý kiến bà cô một người mang trong mình những định kiến xã hội
không tốt về Chí. Bà cô già vẫn chưa có chồng thấy thị hỏi thì bật cười tưởng đùa
nhưng khi biết tất cả sự thật lại hoảng hốt và cảm thấy nhục cho ông cha nhà bà, bà
chua xót, uất ức cho bản thân đã dùng những lời lẽ cay độc xỉa xói vào mặt thị. “Bà
gào lên như con mẹ dại”, “Có lấy thì lấy ai chứ, đàn ông chết hết cả rồi hay sao, mà lại
đâm đầu lấy một thằng không cha không mẹ. Ai lại lấy một thằng chỉ có một nghề là
đi rạch mặt ăn vạ”. Thị nổi giận đùng đùng sang nhà nhân ngãi chút tất thảy những lời
lẽ cay độc ấy vào mặt hắn rồi “ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về”. Vậy là con đường
hoàn lương của Chí vừa được hé mở đã nhanh chóng đóng sầm lại bởi định kiến xã
hội tàn bạo không cho Chí cơ hội để trở lại làm người lương thiện, chân chính.
Chí đau đớn và thất vọng khi bị thị Nở chối từ. Hắn cứ ngồi ngẩn người, ngẩn mặt
không nói gì. Điều đó cho thấy Chí đã hiểu về thói đời và cảnh ngộ của mình. Hắn
ngửi thấy mùi cháo hành đây là một chi tiết độc đáo được lặp lại bởi đó là dư vị tình
thương ít ỏi mà Chí đang rất cần. Tại sao nó lại chỉ xuất hiện “Thoáng một cái” trong
lúc này như để trêu ngươi, chọc tức Chí. Hắn muốn níu giữ hương vị ấy, níu giữ tình
người còn sót lại dù chỉ chút ít nên khi thị quay đi thì “Hắn sửng sốt đứng lên gọi
lại… hắn đuổi theo thị nắm lấy tay” nhưng lại bị “Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái.
Hắn lăn khoèo xuống sân” nỗ lực níu giữ đến cuối cùng cho con đường hoàn lương
bởi chỉ có thị mới có thể mở đường cho hắn, thị là cầu nối cho hắn đặt chân lên nhịp
cầu hi vọng nhưng một lần nữa hắn lại bị hắn hủi, ruồng bỏ phũ phàng, người đàn bà
cho hắn tình thương và hạnh phúc, đặt trọn niềm tin và hi vọng nay cũng “rướn cái
môi vĩ đại mà ném vào mặt hắn bao lời chửi mắng”. Như thế Chí Phèo thật sự rơi vào
bi kịch tinh thần đau đớn, hắn đã bị xã hội cự tuyệt quyền làm người.
Từ tận cùng của nỗi đau là sự phẫn uất và tuyệt vọng. Điều đó được thể hiện rõ trong
suy nghĩ và hành động cuối cùng của nhân vật. Cũng như bao lần trước “đã lăn ra thì
hắn phải kêu” phải uống, phải đập đầu rạch mặt ăn vạ nhưng “tức quá, càng uống lại
càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!” hắn không ngửi thấy mùi rượu sặc sụa nhưng lại
“thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành tình người lần thứ ba được nhắc
đến làm cho lương tri Chí trỗi dậy mạnh mẽ để rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Đã
bao lâu rồi hắn mới có được cử chỉ và giọt nước mắt của con người. Từ hi vọng đến
tuyệt vọng, khởi đầu là giọt nước mắt cảm động hạnh phúc khi bưng bát cháo hành
trên tay và kết thúc cũng là giọt nước mắt đau khổ khi bị thị Nở bỏ rơi. Cuộc đời thật
nhẫn tâm khi cho người ta hy vọng rồi lại ném vào trong tuyệt vọng, cuộc đời cũng
thật tàn ác khi mở đường cho Chí hoàn lương làm người tử tế rồi lại biến Chí trở thành
con quỷ tàn ác nhất ngay cả với chính mình.
Nỗi tuyệt vọng dâng đến đỉnh điểm tột cùng của căm uất với hành động kết thúc “Hắn
ra đi với một con dao ở thắt lưng”. Cũng như mọi lần hắn vừa đi vừa chửi và dọa giết
“nó”. Nó trong suy nghĩ ban đầu của Chí chính là thị “Hắn phải tự đến nhà con đĩ Nở
kia. Để đam chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó” nhưng không biết vì
điều gì mà hắn lại xông xông vào nhà cụ Bá. Dường như lúc này Chí không còn là
một tên say rượu mà hắn đang rất tỉnh táo, chỉ có khi tỉnh táo thật sự mới có thể cảm
nhận được nỗi đau đến vô cùng và hiểu rõ tội ác của kẻ thù đã hủy hoại đời hắn. Chí
Phèo đã “trợn mắt chỉ tay” vào mặt Bá Kiến vênh vênh cái mặt kiêu ngạo mà khẳng
định: “Tao đã bảo là tao không đòi tiền” mà dõng dạc đòi làm người lương thiện, đòi
lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Tiếng kêu thống thiết trước khi giết Bá Kiến
và tự kết liễu đời mình đòi quyền làm người, đòi được sống trở lại ngay cả khi đang
khi đang thở ở đoạn cuối tác phẩm: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất
được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết
không! Chỉ còn một cách...biết không! Chỉ còn một cách là…cái này biết không!” Lời
nói của Chí đanh thép đầy căm uất và phẫn nộ, tiếng thét lên từ bi kịch của nỗi đau và
hình ảnh hắn giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi để lại ám ảnh cho người đọc
bởi điều đó thể hiện cho một chân lí giọt nước đã tràn ly, tức nước thì vỡ bờ đó là điều tất yếu.
Cái chết của Chí Phèo là hành động minh chứng cho sự khủng hoảng và bế tắc, tuyệt
vọng không lối thoát, nó là kết quả cho sự hồi sinh và thức tỉnh của Chí, đó cũng là
con đường duy nhất để Chí được làm người lương thiện bởi chỉ có kết thúc được
những tháng ngày của quỷ dữ mới có thể bắt đầu để sống đúng nghĩa cuộc đời mình.
Chí chết về ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận kiếp sống của thú
hoang đành đóng cánh cửa cuộc đời này lại để mở ra cuộc sống mới ở kiếp làm người
sau. Hoàn cảnh của Chí Phèo phản ánh một hiện thực mâu thuẫn, xung đột gay gắt của
người nông dân với bọn địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám. Cái chết của Chí cảnh cáo cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không
thay đổi sẽ không biết còn có bao nhiêu người như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo
rồi còn những Chí Phèo còn bản sao của Chí Phèo bố chưa ra đời. Nam Cao cũng chỉ
ra một chân lí khách quan trong xã hội mà Karl Marx từng nói: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
Nam Cao với tấm lòng của nhà nhân đạo chủ nghĩa đã lựa cho Chí Phèo một lối thoát
cho con đường hoàn lương hợp lí nhất. Chí Phèo không những được kể lại bằng ngôn
ngữ của tác giả mà còn cả ngôn ngữ của các nhân vật khác như thị Nở, bà cô thị hay
dân làng Vũ Đại. Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật được nhà văn tái bút thành công.
Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Nam Cao muốn đặt câu hỏi lớn về
quyền sống và quyền làm người: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa làm người
trong một xã hội phi nhân tính chỉ toàn sự chà đạp, lừa dối và bất công như thế? Câu
hỏi ấy vẫn còn là những suy tư trăn trở trong lòng độc giả mà bấy lâu nay vẫn chưa có
câu trả lời thỏa đáng. Liệu rằng có một kết thúc khác cho truyện ngắn “Chí Phèo” được không?
Như vậy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện rất
sinh động, cuốn hút để lại người đời nhiều suy ngẫm. Cái chết của Chí và tiếng thét
đòi làm người lương thiện sẽ ám ảnh mãi trong lòng độc giả bởi Chí Phèo là đại diện
tiêu biểu cho tầng lớp nông dân với mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội cũ, nhà văn
đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của họ bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự
cảm thông xót thương chân thành.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đạt điểm cao
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa
độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về
hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông
dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo
là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941.
Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu
hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu chuyện có nhiều
bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của
Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn
và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng,
vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột,
đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù,
biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành
tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã
hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và
cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những
việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân
lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài,
mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và
có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một
bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn
lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi
rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại.
Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa
lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản
năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao
động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc
mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương
tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp
gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỷ dữ để sống lại
làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng
đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng
khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế
tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn,
chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao
lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên
trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia
rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui
vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người
đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm
nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những
âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã
vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ,
nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ
bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…”
bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức. Chí
thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”.
Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước
“tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như
vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở
lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con
người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi
sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu
hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân
chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc
đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cao vẫn nhìn thấy vẻ
đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần gặp điều kiện thuận lợi thì
phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.
Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và
nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến
hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ
hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được
săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và
ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng
trở thành 1 người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng
mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vợ chồng”. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy
nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái
phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình,
trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm
yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở
đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người
khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao
khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích
nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi
thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được
sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với
thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ,
hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu
hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa,
khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở
sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1
tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong
Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát
hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc
của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm
lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của
thiện lương, của lòng lương thiện.
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức
đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở
không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng
vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại
đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành
định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại
khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị
Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi
vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi
kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa
trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại
cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc
nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình
không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở
không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa
phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã
tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi
tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng
lần này k như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch
của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong
ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý
thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá
Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của
mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn
cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người,
cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một
nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối
tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương
thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên
đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của
một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh
thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về
một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn
lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự
bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh
không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận đc cuộc
sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát
khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con
người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí
đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền
được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi
thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa
phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng
cửa về cuộc làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của
nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách
mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này
thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con
người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý
nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả
đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân
vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.
Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp.
Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và
bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày
đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng
kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay
đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngắn
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 1
Nếu như Thúy Kiều của Nguyễn Du gặp phải bị kịch đớn đau về tình yêu và Hộ gặp
phải bi kịch éo le về nghệ thuật đương thời thì Chí Phèo của Nam Cao lại gặp một loại
bi kịch vô cùng lạ lùng. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo bước ra từng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao với một loạt những
khổ đau, những bất hạnh. Và cũng không phải vô tình mà Nam Cao lại dành hết
những gì là đớn đau nhất cho “đứa con đẻ” của mình. Ngòi bút sắc sảo và tấm lòng
giàu yêu thương của ông đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm cùng với sự cảm thông
sâu sắc tới những con người cùng khổ như Chí. Chí chỉ là một đứa trẻ mồ côi chưa
một lần được biết đến hơi mẹ.
Chí ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm dục hãm hại khiến Bá Kiến ghen tuông
đẩy Chí vào tù. Năm tháng của tù đày đã cùng Chí nuôi lòng thù hận ngày một lớn
dần lên. Cho đến khi ra tù Chí trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp
sợ. Còn Nam Cao chỉ tả chỉ với hai từ ngắn gọn “ghê tởm”. Nhưng khi gặp được Thị
Nở – cuộc đời Chí ít nhất cũng đã được biết đến bàn tay chăm sóc của một người đàn
bà thực sự. Nhưng thị lại nghe lời bà cô cự tuyệt mối tình ấy, khiến Chí một lần nữa
trở thành con quỷ dữ. Trong cơn uất hận, Chí đến giết Bá Kiến và tự vẫn để đòi quyền
làm người lương thiện.
Câu chuyện kết thúc nhưng bi kịch về cuộc đời Chí vẫn làm người đọc không khỏi xót
xa. Được sinh ra làm người nhưng lại bị chính những con người xung quanh mình cự
tuyệt quyền làm người. Hay nói đúng hơn là không ai nhìn nhận Chí là một con người
nữa. Thay vào đó là một con quỷ dữ không hơn không kém. Con quỷ ấy trước đây đã
từng là một con người lương thiện, hiền lành chịu khó. Nhưng giờ đây lại ôm hận trở
về làng với những cơn say triền miên. Say lại chửi. Chửi cho quên đời, cho bõ tức,
cho hả lòng hả dạ. Nhưng càng chửi, càng bực. Bởi ai cũng “chừa mình ra” thì Chí
chửi ai bây giờ? Đến ngay cả tiếng chửi xúc phạm đến người khác Chí cũng chẳng
được ai để ý. Bởi nếu là một người bình thường khi tung ra những lời lẽ chua ngoa ấy
kiểu gì cũng bị dân làng xúm vào chửi lại, thậm chí là đánh đập. Nhưng Chí thì lại
khác. Chỉ có lũ chó chạy theo sủa ầm ĩ. Chẳng ai hiểu rằng đằng sau những tiếng chửi
ấy là một nỗi niềm khát khao đến cháy bỏng được quay trở về làm người. Chỉ cần có
ai đó chửi lại thôi cũng đủ để Chí thấy rằng mình vẫn được công nhận làm người. Nếu
sống một cách bình thường, có thể không ai để ý đến Chí. Có lẽ Chí nghĩ rằng phải
chửi thật xúc phạm, thật nhiều để xem có ai chửi lại không, để Chí biết rằng mình vẫn
còn được nhìn nhận. Nhưng buồn thay, tiếng chửi của Chí chỉ có tiếng chó sủa đáp lại.
Cho tới khi gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí bước sang một trang mới. Chí ý thức được
bản thân mình. Lần đầu tiên Chí tỉnh, tỉnh rượu và tỉnh cả những dòng suy nghĩ đau
đáu về lòng thù hận. Không ngờ sự chăm sóc ân cần của một người đàn bà dở hơi lại
có sức mạnh tác động lớn đến Chí như vậy. Tỉnh táo, Chí cũng chẳng mảy may nghĩ
rằng thị chỉ là một người dở hơi, xấu xí. Vì rằng điều mà Chí khát khao bấy lâu nay là
được nhìn nhận là người đã đạt được. Thậm chí thị còn dành cho Chí những hành
động, cử chỉ của một “người yêu” thực sự. Chính thị – một con người chỉ hơn Chí ở
cái là được mọi người nhìn nhận là người – đã đánh thức phần người trong Chí. Có lẽ
cũng vì thị dở hơi nên thị không ý thức được về hiện trạng của Chí lúc này nên thị mới
ngã vào lòng Chí. Nhưng dù sao điều đó cũng đã là một ân huệ lớn lao cho cuộc đời Chí.
Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu sau những cơn say. Chí bắt đầu cảm nhận hương vị của
cuộc sống từ những điều bình dị nhất, giản đơn nhất: tiếng mái chèo, tiếng chim hót,
tiếng người đi chợ qua lại… Và rồi, ước mơ trong sáng đến thánh thiện ngày nào trở
về trong Chí. Chí ước có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn kiếm tiền, vợ
thêu thùa chăm lo việc gia đình. Hạnh phúc nhỏ nhưng cuộc sống êm đềm ý nghĩa biết
bao. Nghĩ vậy, Chí càng quyết tâm quay trở lại làm người lương thiện. Sẽ bỏ rượu. Sẽ
không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Từ nay sẽ thay đổi. Nhưng. Than ôi! Hạnh phúc đang
phất lên thì lại bị hất văng ra khỏi bàn tay yếu ớt của Chí khi thị trở về nghe lời bà cô
cự tuyệt Chí. Như vậy, đến ngay cả con người cuối cùng của xã hội này mà Chí đặt
niềm tin vào cũng không thể kéo Chí dậy được. Thậm Chí còn đẩy Chí vào bờ vực
thẳm sâu hơn, đớn đau hơn. Lúc này đây, hương cháo hành lại làm Chí xôn xao trong
người. Niềm khát khao được làm người chưa bao giờ cháy bỏng và mạnh mẽ đến thế.
Nhưng ai sẽ cho Chí được làm người đây? Và lại là một người lương thiện thì càng
khó. Ước mơ giản đơn ngày nào của Chí chẳng lẽ bị vùi dập nhanh chóng như thế này
sao? Hạnh phúc tưởng chừng như đã ở trong tầm tay nhưng lại bỗng dưng vụt mất.
Chí hụt hẫng, khổ đau.
Như vậy, tất cả mọi người, không một ai còn nhìn nhận Chí là một con người nữa. Có
thể sẽ có người nói rằng: Chí hoàn toàn có thể tự mình làm người lương thiện bằng
cách sống tốt hơn, không chửi bới, không say xỉn và xin đi làm thuê làm mướn kiếm
sống qua ngày. Rồi dần dần mọi người sẽ lại quý mến Chí, cho Chí những cơ hội tốt
hơn để tiến thân. Nhưng cuộc sống đâu phải dễ dàng đến vậy. Nhất là trong xã hội ấy,
giai cấp cầm quyền là đại diện cho những điều gian ác nhất, bất nhân nhất. Liệu rằng
Bá Kiến có để cho Chí được sống một cuộc sống êm đềm không khi hắn đã từng có
thù hằn với Chí? Hơn nữa, khi đã mang trong mình lòng thù hận quá sâu sắc, liệu rằng
ai có thể bình thản mà sống được. Có thể do Chí chưa mạnh mẽ, chưa đi đúng hướng
nên đã để xảy ra những bi kịch đớn đau trong cuộc đời mình. Nhưng khi nhìn bằng cái
nhìn khách quan, Chí chính là kết quả của một xã hội phong kiến thối nát, tàn nhẫn.
Chí là đại diện cho những người nông dân bần cùng bị xã hội dồn ép đến mức đánh
mất cả nhân tính, để đến khi muốn quay trở lại làm một con người bình thường cũng
chẳng được nữa. Đây là một loại bi kịch lạ lùng nhất trong nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học hiện thực nói riêng.
Qua tấn bi kịch ấy, nhà văn đã chĩa thẳng ngòi bút của mình đến thế lực phong kiến
độc ác đã lấy đi nhân tính của biết bao nhiêu người nông dân lương thiện. Đồng thời
ông cũng bênh vực và cổ vũ mọi người hãy cùng nhau đứng lên giành lấy quyền sống,
quyền tự do cho chính mình để không ai phải tìm đến cái chết một cách thương tâm
giống như Chí Phèo ở cuối tác phẩm.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 2
Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của
nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng
đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề
tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn
đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người. Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của
người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là
“Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng
đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.
Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ
bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù,
Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát
cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần
người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm
người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị
ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách
dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một
con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang
khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang
khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương,
sinh ra là người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương thiện.
Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi
vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại…chửi đứa nào
không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng
hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè
chửi; và chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc và
ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi và
mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi hắn là con người. Nhưng
không ai lên tiếng vì không còn ai công nhận hắn là người. Đằng sau tiếng chửi ấy là
nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô
đơn khủng khiếp của một người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không
được coi là con người .
Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp
người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí ,
đồng thời hiểu ra căn nguyên nào dẫn đến tình trạng ấy.
Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi,
cha nó không thừa nhận, mẹ nó bỏ nó trong một lò gạch hoang mặc cho sống chết.
Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi
bác phó cối chết, hắn trở thành kẻ bơ vơ. Đời Chí bọt bèo , lênh đênh tội nghiệp chẳng
khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến số nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ.
Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng mà trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai
gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Bá Kiến, hắn là anh canh
điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách.
Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện ở Chí. Bá Kiến
ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở
thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô
tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Trở về, không gia đình, không
người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành
tay sai của Bá Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái
mặt của hắn trở nên méo mó thê thảm, “nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn lên
không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại,
tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp,
đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước
mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không là con người
nữa mà phải sống kiếp con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên những cơn
say. Sự thay đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh
của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương
chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ là một người như Thị Nở, thì hắn đã không
bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta kì thị trước
một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người
nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết. Lâu dần, người ta lại không coi hắn là
con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và
không thể trở lại làm người nữa.
Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu và sự chăm sóc của thị đã
đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỷ dữ.
Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở có thể sống được với hắn thì
tại sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng
Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh
nhận ra bi kịch đau đớn mà bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền
làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với
hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra
khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã
quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.
Bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu,
nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả
nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá
Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí vẫn tỉnh táo,
hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết. Tuy
lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là
người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những
vết mảnh chai trên mặt này”. Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và
nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết lão bá rồi, Chí
cũng không còn có thể sống mà làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn
sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn. Hai vũng máu thảm khốc
cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống
trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và
cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân
nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào
“bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà
bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc,
vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực
tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời
người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho
đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự
khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao
cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.
Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng
thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam
Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 3
Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện
thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam
Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho
văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được
khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn
học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn
nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại
đau đớn. cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết
sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ. mà hiện lên
một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách. Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi
cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám
ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người.
Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và
một kết thúc bi thảm đắng cay.
"Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người" đó là chủ đề xuyên suốt
toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm
thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.
Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam
Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ. của người
nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở,
băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói
rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội
đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn.
Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo
trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp,
tập trung và mãnh liệt hơn cả.
Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng
trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn
miêu tả: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng
sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại.
Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: "Chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả.
Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp!
Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo".
Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi
trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 4
Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao,
ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói,
con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã
xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã
đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu
đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng.
Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá
nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng
sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời
ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường,
khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc
loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối
tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên
say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có
nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ
cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được
công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng
sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.
Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định
kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến
và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi
mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu
cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí
Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.
Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở.
Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng
Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này.
Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí.
Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả
Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam
Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.
Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái
cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống
đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc
cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí
nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở.
Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống
như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở
về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh,
như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng - nơi mà hắn đã từng
bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa
đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo
uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo
hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng
Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi
nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay
lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.
Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều
không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng
đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại
chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang
tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng.
Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi
chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch
khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi
kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí,
Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo
có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được
khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản
chất lương thiện của con người.
Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những
day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể
nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong
văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 5
Trong giai đoạn văn học 1930- 1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những
người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng
mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những
người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại
Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân
tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam
Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của
nền văn học Việt Nam. Tác phẩm "Chí Phèo" đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu
tiên là "Cái lò gạch cũ", sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành
"Đôi lứa xứng đôi", sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành "Chí Phèo", tác phẩm
được coi là kiệt tác của nhà văn
Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải
hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những
mâu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính.
Trong truyện ngắn "Chí phèo", tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai
cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con
người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự định, ước mơ, là 1
người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau
đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị
loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con
người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa
trở về với cuộc đời
Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi
sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc
đời như bị quăng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của
người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền
lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi
tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ "trông đặc như 1 thằng săng đá" rồi sau đó
bá Kiến thực hiện tốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí
Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ
linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1
con quỷ thật sự "Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng
vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo "rồi
hắn còn suốt ngày sau rượu" cứ rượu vào là hắn chửi". Trong tiếng chửi lảm nhảm của
Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi,
nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì "hắn đã đạp đổ bao nhiêu
hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao
nhiêu con người lương thiện" Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi vì hắn lúc
nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác
theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác
nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính,
bị loại ra khỏi xã hội loài người.
Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với
hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu
tiên hắn được "1 người đàn bà cho". Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ,
và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị
Nở. "Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao "hắn lập luận rất đơn giản là lại
chặt chẽ, hắn hi vọng Thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương
thiện. "Thị Nở có thể sống yên ổn với hẳn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi
người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng
phẳng". Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng
chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về
để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không
cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với
cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao
đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu.
Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được.
Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có
thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi
Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi
bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc
nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi "ngẩn người", hắn hụt hẫng
bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã
nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở
lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc.
Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới
mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn
lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến,
có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo
già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc "Tao muốn làm người
lương thiện", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài
người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình
rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ
cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã
hại mình, Chí rút dao ra, "chém túi bụi vào người bá Kiến" rồi hắn cũng tự tử, Chí
Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần,
nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm
lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của
Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của
nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó.
Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy
quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí - Mẫu 6
Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị
chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và
hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyệt quyền
làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.
Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên
ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt,
phẫn uất đến vậy ? Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về,
hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn,
ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không ngần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí
độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra. Thành thử ra chỉ có
tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã
được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối
dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.
Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả ống lươn mang về
nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền
được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến
nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng
thân thích, không tấc đất cắm dùi. (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời
Chí đã là một bi kịch.
Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến,
Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy
nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm
đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông.
Bi kịch thứ hai đổ ập xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã
man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ
lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gớm,. khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn
uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá
Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia
đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào
hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra
anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này
đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này
qua cơn khác [. ] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt [. ] Chưa
bao giờ hắn tỉnh [. ] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ
Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá
thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi
bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị
Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình
không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.
Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi
gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm
thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu
tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng
chim hót, tiếng người ta đi chợ,. âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi
về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với
những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương
lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang
cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động,
hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn
tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong
Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương
thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản
chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.
Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con
người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh
cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng.
Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng :
đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi
biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp
nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của
chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để
hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy
nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để
giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.
Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời
và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam
Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng
thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi
chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.
Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đầy đủ
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp
quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt
Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc,
Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.
Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông
dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.
Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một
bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.
Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không
tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi
nhà tù, Chí Phèo trở thành một "con quỷ" gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.
Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với
mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng
mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở
đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt
hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn
nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo
bị đẩy đến mức cùng cực.
Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã
tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị
dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân
vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự
mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa
trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào
mà Chí Phèo không dám làm.
Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực
tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh
hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn
phải là "cái sự thật ở đời" chân thực và chính xác.
Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn
sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị
đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng
trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách
nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại
kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.
Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự
trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay
đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy
xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương
thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận và
tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến
tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất
câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.
Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà
đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn
thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một
cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm
bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận
thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao
nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.
Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh
hung hãn chính là sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường
lương thiện mà không được.
Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy
đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề
của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những
người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành
là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ
ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy
rẫy bất công, vô nhân đạo.
Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán
sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn
của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.
Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt
đẹp mà hoàn cảnh phũ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao
đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong
đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm
sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm
lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là
sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của
Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp,
những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung
động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó
lâng lâng khắp người khó lí giải.
Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh,
dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi,
không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn
ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những
quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì
đó là cả một ân huệ lớn lao.
Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo
lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn.
Con người xấu xí "ma chê quỷ hờn" ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi
vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng
một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.
Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" là đã phát hiện, miêu
tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.
Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn
kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là
người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã
gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi
khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí - một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.
Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra:
cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu
thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm
mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát
vọng sống và sống tốt đẹp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa
chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo
mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí
Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng
chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói
bàn tán của những người đàn bà đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc
sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.
Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống
và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã
dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh "hắn thèm lương
thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người". Từ một "con quỷ dữ", nhờ có tình
thương yêu của Thị Nở - dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở
hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm
hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.
Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí
Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ nào, chẳng hề có một bàn tay thân
thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm
người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối
cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi
dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương
thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.
Những vết dọc ngang trên mặt - kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn,
rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của
xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với
cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le
lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.
Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị
Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống
lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn
nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết
duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng
bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: "ôm mặt khóc rưng rức".
Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh
Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn
phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện.
Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: "Ta muốn làm người
lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên
mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách.
biết không. ". Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá
Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.
Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn
Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con
đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá
cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương
thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.
Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo
vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong
ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ
vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 2
Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta
liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất
của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân
hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn
Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể
không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề
xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
"Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải
chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch
sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện
sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với
người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên
của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có
một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những
câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà
người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau
bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng
"cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người". Nhưng không ai lên tiếng cả.
Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại
không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người
ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người
đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của
Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn
khổ thay, Chí càng bế tắc.
Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở
"Không chỉ biết cho mà còn biết giữ". giá như. giá như. chỉ cần một lần giá như xảy ra,
chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của
đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam
Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu
quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ
rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần
truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và
mang cho một người đàn bà góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường
như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào
đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không
cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động,
Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái gì
mà người ta khinh". Anh khát khao có "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết
với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai
Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về
lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp
đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy),
đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra
cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy
những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết". Đó là hình
dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau.
Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi
đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá
Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại
từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn
chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù.
Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau
trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài.
Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ
đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi
lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói
trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn
không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí
đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn
khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo
chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản
sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ
tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một
con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa
nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.
Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma
chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm
tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương
của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn
ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý.
Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm
thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu
tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc - cô độc còn sợ
hơn đói rét và ốm đau".
Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo
mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - dù là tình yêu của kẻ dở hơi,
của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản
tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự
hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người
của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự
tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với
thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì
làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị
Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao
mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ".
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã
hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng
có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm
tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai
cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không
thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không
được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói
những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân
mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí
cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là
lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức
mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi
khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện
cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu
không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên
từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm
thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 3
Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: "Khi chị Dậu, anh Pha
xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ
nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là
cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao,
người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất".
Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu
sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của
mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về
thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch
thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao
diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.
Lai lịch = đoạn đời 1 - xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện.
Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không
mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn
đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về
nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối.
Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở
cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho
nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải
làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người
nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.
Bi kịch 1 = đoạn đời 2 - Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị tha hoá, đầy đoạ, lăng nhục.
Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay
độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí
Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân
đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ
làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là
một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng
với một bộ dạng rất kì quái: "cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt
gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ".
Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là
chú trọng vẻ bề ngoài, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo
lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khỏe
mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn
là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và
nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi
bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý
thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một
con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được
giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại
để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có
mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.
Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không
thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị
nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh,
mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ
đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức,
một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị. "Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người
ta sai hắn làm. Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ
nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và
nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện". Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo
là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước
đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản
ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc,
lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi,
trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi
kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ
dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.
Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó
lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo
lưu manh, tha hoá bị đày đọa, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử
như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.
Bi kịch 3 = đoạn đời 3: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn
bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông
của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người
đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc
mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất
người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã dành
cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và quá
trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận,
Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn
mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền
chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về. Đó là âm
thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí
Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong
kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm
hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu
chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn
vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ
một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một
tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo
nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:
"Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người"
Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện.
Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa
là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con
người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và
câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài
người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị
không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng
trách gì bà cô - bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của
làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất
rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại
rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm
hắn say. "hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành" - cái hương vị của tình người,
tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi;
hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh
điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như
dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí
Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu
ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến.
Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào
mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã
vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình.
Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân
phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái
chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một
cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.
Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân
phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta
còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?". Đó là
một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc:
làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo
vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp" thật
ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở
nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị
đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và
với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm
người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ
mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang
văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam
Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn
của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 4
Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: "Chí Phèo", Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt
Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với
bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu
văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây
người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong
xã hội phong kiến.Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức
bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình,
nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ
phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh
tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.
Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức
sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo
ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một
con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại
không được đáp trả. ? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ,
không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi
chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ
không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế
này. thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến
bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng,
hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong
có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không
người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn
là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp
đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng
hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa
mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.
Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu
hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông
dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư
cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không
nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi.
Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay
lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp
sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí
Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản
chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù,
sau 7- 8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi
hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức : đâm
thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ. Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong
con mắt người dân làng Vũ Đại.
Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh
tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa
Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương
thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của
cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng
bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà
xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc
nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã
làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ,
thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.
Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã
tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên
lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước có một gia đình
nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. .Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một
cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới
thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn
nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước
được làm người, được trò chuyện.
Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn
ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới
ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị
Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và
nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể
trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.
Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát
được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu
vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm
khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và
đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được!
Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây
chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh
những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh
này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh
hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu
bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước
chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.
Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân
hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị
vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.
Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và
cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo
cầm dao đâm chết Bá Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa
chọn - một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương
thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.
Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là
cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò.
Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy
và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng
thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 5
Viết về người nông dân không hẳn là đề tài mới đối với Nam Cao, thậm chí trước đó
ông đã từng khai thác và xây dựng thành công nhiều hình tượng điển hình như: Lão
Hạc, Hộ (Đời Thừa), dì Hảo, Lang Rận.. Thế nhưng Chí phèo lại là một điểm nhấn
khác biệt giữa những số phận đang quằn quại trong đau khổ dưới sự bất công của một
chế độ mục rữa, thối nát. Nếu họ vẫn giữ được nhân cách và thiên lương trong con
người mình thì Chí Phèo lại hứng chịu hàng loạt tấn bi kịch nghiệt ngã từ bần cùng
hóa cho đến lưu manh hóa và cuối cùng là bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch lớn nhất của Chí Phèo.
Thiên truyện mở đầu bằng hình ảnh khá sống động, không phải là những trang viết
nhẹ nhàng, lôi cuốn dẫn dắt người đọc đến với tác phẩm như nhiều nhà văn khác. Nam
Cao đánh mạnh vào tâm lí độc giả bằng tiếng chửi thông thốc như thách thức cả cuộc
đời của Chí Phèo. Chân dung của một gã say rượu ngật ngưỡng đầy phẫn uất vừa đi
vừa chửi. Hắn chửi tất cả những gì trên đời mà hắn có thể chửi. Tiếng chửi của Chí
không phải ngẫu nhiên, hắn chửi một cách rất logic. Ban đầu hắn chửi trời, chửi đời
rồi đến cả làng Vũ Đại và cuối cùng hắn kết thúc tiếng chửi trong vô vọng khi không
có đứa n chịu chửi nhau với hắn. Trong cơn say vật vã, Chí ý thức rõ bi kịch của bản
thân, hắn thấm thía nỗi khốn khổ khi cả làng Vũ Đại quay lưng, chẳng ai chịu giao
tiếp với hắn. Và cứ thế hắn chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.
Chỉ với những tình tiết độc đáo, mới lạ trong tiếng chửi cay đắng của Chí phèo đã bao
quát toàn bộ thảm cảnh thê lương và số phận người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một hình tượng điển hình cho tất cả nhưng bi kịch tội lỗi trong xã hội loài
người mà chính Chí lại bị xem là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Trong quá khứ, Chí
Phèo là một người nông dân lương thiện, hiền lành, thế những cái lương thiện hiền
lành ấy trong phút chốc đã bị vùi dập bởi sự thối nát, gian ác của xã hội phong kiến
mà nhân vật trực tiếp là tên cường hào Bá Kiến. Bị đẩy vào tù do tính ghen tuông của
Bá Kiến, anh canh điền chất phác khi xưa sau khi ra tù đã biến đổi hoàn toàn cả về thể
xác lẫn nhân cách "trong đặc như thằng săng đá, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng.."
Chí thay đổi hoàn toàn, hắn đã mất hết cả hình người lẫn nhân tính. Kể từ đó cuộc đời
hắn trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi
cho đến khi đêm định mệnh ấy xảy đến với Chí. Một thằng lưu manh say xỉn và một
con đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ, họ ăn nằm với nhau vào một đêm "rười rượi những
trăng". Cuộc gặp gỡ với thị Nở chính là bước ngoặt quan trọng cứu rỗi những tháng
ngày bế tắc không lối thoát của Chí, nó hệt như một vệt sáng lóe lên từ bùn lầy tối tăm
mở đường cho hắn trở về với con đường bằng phẳng của người lương thiện – khoảng
thời gian bình yên trước đây hắn từng sống. Tình yêu thương, sự săn sóc ân cần của
thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí sau bao nhiêu năm ngủ yên. Lần
đầu tiên sau bao nhiêu năm hắn bâng khuâng tình dậy và cảm nhận mọi vẻ đẹp tuyệt
vời của cuộc sống: "Tiếng chim hót trong lành buổi sớm", "tiếng cười nói rôm rả của
những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Những âm thanh quá
đỗi quen thuộc và gần gũi nhưng sao hắn cảm thấy xa lạ quá. Đắm mình trong tiếng
gọi tha thiết của cuộc sống, hắn bắt đầu hồi tưởng về "những ngày xưa xa xôi" mang
theo một ước mơ khát khao "," một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải ". Hắn nghiền ngẫm quá khứ rồi lại tự chạnh lòng ở hiện tại bởi" hắn thấy mình
già mà sao cô độc thế ", hắn nhận ra mình đã sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn.
Giây phút được hồi sinh trở lại, hắn muốn sống sao cho thật ý nghĩa. Khi thị Nở mang
bát cháo hành đến, hắn ngạc nhiên rồi lại thấy" mắt hình như ươn ướt "bởi đây là lần
đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà. Bát cháo hành của thị Nở là hương vị
của tình người, tình yêu cuộc sống. Tình cảm ấy nhen nhóm trong con người Chí Phèo
khiến hắn muốn làm người lương thiện, muốn trở về với con người nguyên bản khi
xưa và thị Nở sẽ" mở đường cho hắn ", thị sẽ giúp hắn hòa nhập với cộng đồng. Hắn
đặt hết niềm tin nơi thị, hắn muốn ngỏ lời với thị" giá mình cứ thế này thì thích nhỉ..
Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui? "Chỉ là lời nói vô tư như đứa trẻ nhưng
chứa đựng cả một tấm lòng khát khao được hoàn lương đến nhường nào của Chí Phèo.
Tình yêu thương mộc mạc nhưng chân thành đã khơi gợi bản năng của" một con quỷ
dữ "mong muốn thoát kiếp làm" người hiền ". Đây chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc
của Nam Cao" nhìn thẳng vào sự thật tàn nhẫn, mở lòng ra để đón mọi vang động của
cuộc đời, phải nói lên nỗi cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng ".
Cuộc sống màu hồng của Chí Phèo và thị Nở thật ngắn ngủi chớp nhoáng biết bao,
hạnh phúc vừa hé mở đã đột ngột khép lại bởi" hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã ". Thị
hớn hở chạy về nhà xin phép bà cô cho yêu và lấy Chí phèo. Bà cô thị Nở chính là
định kiến xã hội, là điển hình của những mâu thuẫn, kì thị trong xã hội độc ác. Bà
không cho phép cháu mình lấy một thằng lưu manh chuyên" rạch mặt ăn vạ ". Người
đàn bà cay nghiệt đang tâm đạp nát chút hi vọng mong manh còn sót lại nơi Chí. Bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người khiến Chí trở nên đau đớn, tuyệt vọng khi thị Nở"
trề cái môi vĩ đại trút tất cả lời bà cô lên Chi ". Lúc đầu Chí ngạc nhiên, Chi chợt hiểu
rồi Chí lờ mờ nhận ra rằng đến một người như thị Nở mà còn không chấp nhận kẻ
khốn cùng này thì còn nơi nào cho hắn dùng thân để trở về với cuộc sống bằng phẳng
kia. Mọi thứ vừa được bồi lấp nguyên vẹn thì trong phút chốc chỉ vì một lời nói chua
chát đã hóa thành tàn tro, trở về con số không tròn trĩnh. Quá trình diễn biến tâm lí
đầy phức tạp, có phần kịch tính và bất ngờ, bộc lộ rõ nét tâm trạng phẫn uất, đau đớn
của kẻ bị cự tuyệt quyền làm người. Chí như rơi vào vực thẳm của hố sâu, trở nên hụt
hẫng khi niềm tin bị hất phăng một cách tuyệt tình. Hắn xót xa nhận ra sự thật phũ
phàng, đau khổ chứng kiến bi kịch diễn ra trước mắt. Chính cái gọi là lương thiện,
điều mà chỉ trong vài ngày ngắn ngủi trước đó, hắn khao khát chờ đợi, giờ đây đã tan
biến vào hố đen của khoảng không, bị vứt bỏ một cách đốn mạt. Hắn cố níu kéo điều
gì đó từ thị nhưng thị đã nhẫn tâm" gạt ra, lại giúi thêm cho hắn một cái ". Phải chăng
cả xã hội đang quay lưng với hắn, không chấp nhận một thằng lưu manh như Chí tồn
tại trên đời. Đau xót làm sao! Khốn nạn làm sao! Chí trở về với sự cô độc, giằng xé
tâm can, hắn quằn quại trong tấn bi kịch tàn ác. Những lúc thế này, hắn lại tìm đến
rượu, trong men say, hắn thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Cảm xúc ùa về rồi cứ
động đậy trong lòng hắn khiến hắn ý thức rõ thị là người đánh thức bản tính lương
thiện trong con người hắn nhưng cũng chính là người đã dồn ép Chí trở về với bản
tính thú vật trước đây. Hắn cứ uống nhưng càng uống càng tỉnh, hắn tỉnh rồi lại tự
nghiền ngẫm lại tấn bi kịch cuộc đời mình để rồi từ đó hắn thấm thía rõ tội ác của kẻ
thù, kẻ đã biến tướng nhân cách và cuộc đời hắn thê thảm như hôm nay. Chí xách dao
đến nhà thị Nở với mục đích giết chết" con đĩ Nở và con khọm già nhà nó "nhưng
điều gì làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở để rồi hắn băng thẳng đến nhà Bá Kiến. Đây
thực chất chỉ là một hành động vô thức nhưng lại là cơ hội để hắn nhận thức rõ kẻ thù
thực sự của mình là ai. Đứng trước tên cường hào máu lạnh, Chí Phèo thốt lên câu nói
thống khổ, bi thiết:" Ai cho tao lương thiện? Làm sao để mất những vết mảnh chai
trên mặt? Tao không thể làm người lương thiện được nữa! "Tiếng kêu ai oán ấy xoáy
sâu vào lòng người đọc và để lại nỗi dư âm đầy ám ảnh trong tâm khảm mỗi người.
Đây không chỉ là lời vạch mặt đanh thép mà còn là bản cáo trạng súc tích tố cáo tội ác,
tư cách nhem nhuốc của tên cường hào Bá Kiến. Chỉ thẳng tay chỉ vào mặt Bá Kiến
và trợn mắt đòi lại quyền sống cho mình. Cái quyền làm người ấy được chứng minh
bằng hành động giết chết kẻ thù và tự sát. Chí tự giết chết con quỷ dữ trong người bởi
ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về, không chịu nổi kiếp sống thú vật, Chí đã tự tìm
lối thoát cho mình khỏi nghịch cảnh của xã hội. Hình ảnh những vết mảnh chai trên
mặt là dấu vết của những năm tháng tội đồ, chúng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng
của người dân làng Vũ Đại. Chí Phèo đấu tranh tư tưởng để giành lại quyền sống,
quyền làm người. Hắn quằn quại trong vũng máu và kết thúc quãng đời tội lỗi. Dù vậy
nhưng nhân cách lương thiện và khát khao được làm người lương thiện của Chí sống
mãi trong lòng độc giả.
Tác phẩm Chí Phèo không chỉ nổi bật ở cốt truyện đặc sắc, mới lạ kết hợp ngôn ngữ
biểu cảm, sống động cùng nhiều tình tiết hấp dẫn, biến hóa đầy kịch tính mà còn ghi
dấu sâu đậm trong lòng bạn đọc tính nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Phải là người
có" đôi mắt mới "và" trái tim đầy xúc cảm "nên ông mới phát hiện và miêu tả rõ nét
diễn biến tâm lí cùng bi kịch đau thương của số phận người nông dân cố cùng bị lăng
nhục. Nhà văn không dừng lại ở việc miêu tả ngoại hình nhân vật mà ông còn đi sâu
vào từng ngõ ngách tính cách, len lỏi và tận sâu nội tâm, trạng thái của người nông
dân trong quá trình bị lưu manh tha hóa để tìm tòi, khai phá" những điều mới mẻ ","
khơi những nguồn chưa ai khơi ".
"Chí Phèo" là một hình tượng rất khác so với những tác phẩm về người nông dân của
nhiều nhà văn cùng thời. Một số phận nghiệt ngã đến cùng cực, khốn khổ, bi thảm đến
độ không còn lối thoát nào để nhân vật thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghịch cảnh.
Qua đó tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực
trạng người nông dân bị đày đọa, áp bức nhưng không thể lên tiếng để bảo vệ quyền sống của bản thân.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - Mẫu 6
Đã có lần tôi tự hỏi phải chăng trái tim của nhà văn là một khối pha lê tinh khiết, để
qua đó bao kiếp người từ hạnh phúc đến đớn đau bi kịch đều ngả bóng lại trên trang
văn. Nam Cao có lẽ là một nhà văn như vậy, sống dậy giữa tác phẩm của ông là cả
một thế giới nhân vật con người, từ kiếp “Sống mòn”, “Một bữa no”…đến kiếp đời
quằn quại của một con quỷ dữ bị tha hóa rồi lại bị cự tuyệt quyền làm người trong
“Chí Phèo”. Lúc đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, năm 1941 nhà xuất bản đổi lại
là “Đôi lứa xứng đôi” và năm 1945 in lại với tên “Chí Phèo” – một truyện ngắn có thể
“làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu
trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên
ra đời từ đó và gây tiếng vang lớn về một tấn bi kịch lạ lùng – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời
sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá
nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát có thể dẫn đến cái chết. Bi kịch của Chí Phèo là tình
cảnh éo le của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi rồi bị
cự tuyệt quyền làm người, là một chuỗi dài bi kịch. Nhìn lại kiếp đời đầy dằn vặt, tủi
hổ của Chí Phèo, ta thấy nỗi đau khổ lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ chính là
bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội từ chối, xua đuổi.
Cách mở đầu tác phẩm của Nam Cao cũng rất lạ lùng, đó là tiếng chửi chua ngoa, đầy
thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, gây ấn tượng mạnh mẽ đối
với người đọc từ phút đầu tiên. Nhà văn miêu tả dáng vẻ của Chí: “Hắn vừa đi vừa
chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Đến đây ta chợt thắc mắc rằng vì
lẽ gì mà Chí lại chửi ầm ĩ đến thế? Nhưng chúng ta sẽ dần hiểu tiếng chửi ấy không
phải là tiếng chửi bâng quơ mà nó rất lô-gic. Ban đầu Chí chửi trời đến chửi đời rồi
chửi cả làng Vũ Đại, chửi không biết đứa nào đẻ ra thân Chí cho Chí khổ thế này. Chí
đã phải cất tiếng chửi vì thèm mong có ai đó chửi lại mình, để được giao tiếp với đời,
với người. Vậy mà không ai chịu chửi lại Chí, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt
khoát không coi Chí là người, không công nhận sự tồn tại của Chí, mọi người đã xóa
tên Chí khỏi xã hội loài người. Chí chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, cảm giác như
mình trong sa mạc cô đơn: “Hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một
thằng say rượu”. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng tiến, những câu văn ngắn, nhịp nhanh
như đang xé rách, cắt vụn từng câu văn mà người đọc như thấm thía đôi phần sự quằn
quạt của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người ấy. Nam Cao ngược dòng quá
khứ để làm rõ quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng
thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Ngay từ lúc mới chào đời, Chí đã phải đón nhận bất hạnh đầu tiên, bị bỏ rơi “trong cái
lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua”. Người ta bỏ Chí ở nơi hoang
vắng đến thế chẳng khác nào bỏ rơi để Chí chết đi tại đó, ngay từ đầu Chí đã không
được quyền sống để làm một con người, ấy thế mà vẫn “có một anh đi thả ống lươn về,
thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp”, anh ta “rước lấy và cho một
người đàn bà góa mù”. Người này bán Chí cho một bác phó cối không con. Dẫu lớn
lên nhờ lòng tối của bác phó cối nhưng Chí cũng chỉ là một món hàng dùng để trao
đổi, bán mua, cuộc đời của Chí trải qua tay người này người khác, bắt đầu từ những
con số không: không nhà, không cửa, không cha, không mẹ, không họ hàng, không
một tấc đất cắm dùi. May thay, Chí vẫn được sống, dù bơ vơ, trơ trọi nhưng vẫn trở
thành anh canh điền hiền lành, lương thiện, giàu tự trọng.
Cuộc đời Chí cứ thế êm ả trôi qua sau bao tháng ngày trầm luân giữa dòng đời cho
đến khi vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy Chí vào nhà tù thực dân nửa phong
kiến đầy tàn bạo. Chính nơi đen tối ấy đã nhanh chóng biến Chí thành kẻ “trông đặc
như thằng săng đá”. Khoảng thời gian bảy, tám năm đã thật sự biến anh nông dân hiền
lành, chất phác thành một Chí Phèo tàn tạ, gớm ghiếc với “cái đầu thì trọc lóc, cái
răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông
gớm chết”. Diện mạo của Chí có thể khiến bất cứ ai khiếp sợ. Chí Phèo đã được “đào
luyện” và hấp thụ những thói xấu của nhà tù thực dân, Chí mặc “quần áo nái đen với
cái áo tây vàng, trên ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với hai ông
tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Đó là dấu hiệu cho thấy Chí đã bán rẻ linh
hồn mình cho quỷ dữ để rồi trở thành một con quỷ thật sự. Chí rơi vào vô thức và bị
lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô
thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ... Những tội ác của Chí cứ đầy
lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.
Cuộc sống theo chu trình “sáng cày sâu, chiều cuốc bẫm” của người nông dân hiền
lành giờ chỉ còn là mảng kí ức xa vời, khát vọng mơ hồ đối với Chí. Mặt Chí “vàng
vàng mà lại muốn xạm sạm màu gió. Nó vằn dọc, vằn ngang không thứ tự, biết bao
nhiêu là sẹo”. Cánh cửa cuộc đời Chí như khép lại hoàn toàn, nhân hình bị hủy hoại
mà nhân tính cũng bị xói mòn. Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái
khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết.
Trước khi gặp thị Nở, Chí chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có
biết bọn thống trị tàn bạo để trừ khử các phe cánh đối lập đã thực hiện phương thức
“dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò” với Chí. Những tưởng số phận
cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa ấy nhưng sự
xuất hiện thị Nở đã đưa Chí từ vực sâu của tội lỗi đến bến bờ lương thiện. Vai trò, vị
trí của thị trong tác phẩm là rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí
Phèo, đưa Chí trở lại với kiếp đời hoàn lương mà bấy lâu Chí đã đánh mất.
Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn” ấy là đốm sáng nhỏ nhoi duy nhất còn sót lại
của làng Vũ Đại có thể chiếu rọi vào khoảng trời đêm đầy tăm tối của Chí Phèo. Sự
xuất hiện của thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người
nhân hậu. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm đã đánh thức một phần lương
thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, giờ đây sức sống tâm hồn đã
trỗi dậy trong Chí. Sau khi con người lương thiện phục sinh, Chí đã tỉnh dậy lắng nghe
những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Những âm
thanh gợi cho Chí những hoài tưởng về một thời êm đẹp: ao ước có một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một lần nữa Nam Cao lại nhắc ta nhớ về
bản chất lương thiện vốn có của Chí Phèo. Đáng lẽ ra Chí cũng sẽ có được một cuộc
sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi tỉnh dậy, Chí mới thấy mình
đã già mà vẫn còn cô độc, Chí tỉnh táo nhận ra mình đang đã tới “cái dốc bên kia của
đời” mà vẫn đơn côi, lẻ bóng. “Chao ôi là buồn!”, thì ra Chí cũng biết buồn, một cảm
xúc bình thường của một con người, Chí sợ tuổi già ầm ập ào tới, sợ cảnh “đói rét và
ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau”. Thị Nở đã thật sự
thay đổi cuộc đời Chí từ giây phút ấy. Chí thật lòng “say thị lắm”, “hắn thấy lòng
thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”.
Thế mới thấy sức cảm hóa kì diệu của tình thương. Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi
vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo đẹp đẽ, cho Chí Phèo một tia hi vọng về một
ngày không xa, Chí sẽ được công nhận là một con người.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Chí Phèo