Văn mẫu lớp 11: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao | Kết nối tri thức
Văn mẫu lớp 11: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích bài Chí Phèo I. Mở bài
- Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của
văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này
- Giới thiệu: Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn,
nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng II. Thân bài
1. Làng Vũ Đại - không gian nghệ thuật của truyện ngắn
- Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí
Phèo đều diễn ra tại đây
- Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.
- Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa.
⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời
thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
2. Nhân vật Bá Kiến
- Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn
- Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác
⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng
3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a. Sự xuất hiện của nhân vật
- Hắn vừa đi vừa chửi...: sự xuất hiện tự nhiên
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường
b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù
- Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa
- Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng
c. Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù
- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
● Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
● Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị.
- Hậu quả của những ngày ở tù:
● Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.
● Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công
cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính
d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
- Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.
● Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.
● Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc
● Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.
- Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên
và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.
⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh
e. Bi kịch bị cự tuyệt
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
● Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
● Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng
cửa trở về cuộc sống làm người.
4. Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
- Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.
- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính. III. Kết bài
● Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo
● Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến
và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người
ngay cả khi tưởng chừng học đã biến thành quỷ dữ ...................
Tải File về để xem thêm dàn ý phân tích bài Chí Phèo Chí Phèo phân tích
Đã có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Đúng như vậy! Chi tiết
nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Chi tiết có
khả năng thể hiện, giải thích, làm minh các câu tứ nghệ thuật của nhà văn trở thành
tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chính vì thế, giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định: “Ở mỗi truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan
trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó, có những chi tiết đóng vai trò đặc
biệt như nhãn tự trong thơ vậy”. Minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định trên là tác
phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao.
Đầu tiên, ta thấy trong ý kiến của Nguyễn Đăng Mạnh có nhắc đến hai chữ “chi tiết”.
Chi tiết hay nói chính xác hơn là chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác
phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Tác phẩm nghệ thuật lôi
cuốn người đọc là nhờ nhiều yếu tố trong đó chi tiết đóng vai trò quan trọng. Thường
thường, truyện ngắn cô đọng hàm súc về dung lượng nên mọi chi tiết đều phải có sự
lựa chọn kĩ lưỡng của nhà văn. Chi tiết này dẫn đến chi tiết khác tạo nên sự hấp dẫn,
mang theo chiều sâu ý nghĩa của tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Thậm chí, có những
chi tiết trong tác phẩm có một vị trí đặc biệt quan trọng như “nhãn tự” tức con mắt
trong thơ tứ tuyệt. Chi tiết góp phần hình thành tính cách nhân vật, chủ đề tác phẩm
khẳng định sự tinh tế, độc đáo, tài hoa của nhà văn. Cách đánh giá của Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh không chỉ đặt ra yêu cầu sáng tạo các chi tiết độc đáo. Truyện
ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo ra các chi tiết
nghệ thuật đặc sắc. Trong “Chí Phèo” ta có thể thấy rằng có rất nhiều các chi tiết đặc
sắc tạo nên giá trị của tác phẩm như chi tiết tiếng chửi của Chí ở đầu truyện, chi tiết
cái bóng, chi tiết tỉnh rượu sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở ở bờ sông, đặc biệt, nhãn tự
của bài có thể được xem là chi tiết bát cháo hành và hơi cháo hành, rồi chi tiết Chí ôm
mặt khóc vì bị Thị từ chối, cuối cùng là chi tiết giết Bá Kiến… Các chi tiết trên có
một vị trí đặc biệt trong tác phẩm và thể hiện được tài năng của nhà văn.
Trước tiên, ngay từ mở đầu tác phẩm, ta thấy xuất hiện một chi tiết khá độc đáo. Đó
chính là chi tiết Chí Phèo chửi. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mặt người đọc
không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi. Chí vừa đi vừa chửi “chửi
trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi
đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”. Đó là tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận
con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí đã bị đánh bật ra khỏi
cái xã hội của loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem
là con người nữa. Nam Cao rất tinh tế trong việc đưa chi tiết này lên đầu câu chuyện
bởi đây vừa là cái nền cho sự tò mò của người đọc về thân phận Chí vừa là chi tiết thể
hiện được thái độ xót xa, thương cảm của chính nhà văn.
Với chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo, Nam Cao đã khéo léo đưa người đọc vào một
tuổi thơ đầy cay đắng, bất hạnh của kiếp người. Chí sinh ra gắn liền với con số không:
không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích… Chí là một đứa con bị bỏ rơi bên
chiếc lò gạch cũ, được dân làng truyền tay nhau nuôi nấng. Lớn lên, Chí hết đi ở cho
nhà này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá
Kiến. Chí là một anh nông dân hiền lành, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng
khinh. Chí đã từng có một ước mơ giản dị “Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế
nhưng, chỉ với cái cơn ghen vu vơ của lão Bá Kiến, cái ước mơ ấy đã bị bóp nghẹt và
Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Sau bảy tám năm ra tù, con người Chí hoàn toàn khác.
Cả nhân hình và nhân tính cũng bị thay đổi. Chí Phèo trở về mà không ai nhận ra “cái
đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất câng câng, hai mắt gườm
gườm trông gớm chết…” Cả nhân tính cũng biến dạng. Từ một anh nông dân hiền
lành như đất giờ thì trở thành một thằng say, về hôm trước hôm sau đã uống rượu đến
xế chiều và say khướt. Rồi cũng từ đó, Chí trở thành tay sai đắc lực cho lão Bá Kiến
sống bằng máu và nước mắt của dân làng Vũ Đại. Trước kia, thì hiền lành, giàu lòng
tự trọng giờ đây Chí trở nên gớm ghiếc, dữ tợn với bộ dạng của một tên lưu manh, côn
đồ, một thằng liều mạng thậm chí là một con quỷ dữ.
Tưởng rằng Chí sẽ bị trượt dài trên con đường lưu manh nhưng Thị Nở xuất hiện ở
với Chí trong một đêm trăng sáng đã nâng đỡ con người kia dậy. Buổi sáng hôm sau
khi thức dậy Chí đã hoàn toàn tỉnh rượu. Chi tiết Chí Phèo tỉnh rượu sau cuộc gặp gỡ
với Thị Nở ở bờ sông đã khẳng định một điều rằng phần người trong Chí Phèo vẫn
đang còn tồn tại. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí Phèo tỉnh dậy chợt nhận ra nơi căn
lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia
vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo trên sông, tiếng lao xao của người bán
vải về… Những âm thanh ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Một con quỷ dữ mà cũng cảm nhận được những điều tinh tế đó sao? Từ khi ra tù về,
đây là lần đầu tiên Chí Phèo thấy tỉnh. Nhưng qua chi tiết này ta thấy rằng Nam Cao
không trách, không giận Chí Phèo mà ngòi bút của ông dành cho nhân vật này vẫn
nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật vẫn là bản tính tốt
đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mạnh mẽ, tha thiết. Và
Chí Phèo tỉnh dậy cũng là chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm.
Chính cuộc sống đã lay động tiềm thức xa xôi của Chí, nó như từng giọt nước thổi vào
tâm hồn khô cằn, sỏi đá của Chí và hơn hết, nó làm sống dậy một ước mơ thời trai trẻ:
“có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một
con lợn nuôi để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Tiếp ngay sau đó, một chi tiết có thể được xem là “nhãn tự” của truyện ngắn này đó
chính là chi tiết bát cháo hành và hơi cháo hành. Khi Chí Phèo đang suy nghĩ sau cơn
tỉnh rượu thì với bàn tay ân cần của mình, Thị Nở đã khơi dậy trong Chí phần người
bằng một bát cháo hành. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh
phần người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, là một liều tiên
dược vừa gải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã tẩy đi ố men rượu, gột rửa những tội lỗi
của con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha
con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, của tình
thương và tình yêu- một thứ tình cảm mộc mạc và chân thành. Khi cả làng Vũ Đại
không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã dang rộng vòng tay để đón lấy anh.
Và bát cháo hành kia vô hình chung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho
một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến, bâng
khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen
sống với một kiểu định nghĩa: muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ,
hắn phải thực sự hóa thân thành con quỷ dữ… Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí phải
có máu và nước mắt của người dân làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay dường như cái triết
lí sống của Chí đã thay đổi, những gì hắn có giờ đã phản bội lại hắn. Hơn thế từ xưa
đến nay, Chí luôn phải đi phục tùng cho người khác thế mà giờ đây lần đầu tiên, trong
cuộc đời, Chí Phèo được hưởng sự chăm sóc bởi bàn tay của một phụ nữ và hắn đã
khóc. Cảm giác hạnh phúc được sống trong tình thương đã đánh thức chất người trong
Chí- cái bản chất lương thiện lâu nay đã tưởng chết hẳn trong cái lốt của một con quỷ
dữ. Chi hiểu ra rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn cả bằng tình
thương yêu nữa. Chí đã thực sự hiểu ra chính mình, đã thực sự thay đổi.
Song song cùng với bát cháo hành là hơi cháo hành. Dường như cái hơi cháo hành đã
làm mắt của Chí ươn ướt, nó phảng phất phục sinh phần người trong Chí… Hắn có thể
sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm ước mơ về một cuộc sống bình dị…
Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí
cả… Hương cháo giản dị, mộc mạc đến đơn sơ nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ
chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người… Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn
cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm
nũng với Thị như làm nũng với mẹ…” Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần
Thị Nở đã phải thốt lên “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe
thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu
cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí thèm lương thiện và khát
khao làm hòa với mọi người. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như
thế này mãi thì tốt nhỉ…” hay “mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”
Và rồi khi biết bà cô Thị Nở ngăn không cho Thị Nở lấy mình, Chí đau đớn và phẫn
nộ. Chí lại uống rượu nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng buồn. Hắn cứ thoang
thoảng thấy hơi cháo hành. Đó là hương vị được hạnh phúc, được yêu thương, được
làm người, hắn đã một lần nếm và không thể quên được nên không thể quay lại kiếp
sống của một con vật. Chí đã muốn hoàn lương nhưng cái định kiến xã hội đã đẩy Chí
đi xa và không còn cho Chí được trở về với cuộc sống của con người nữa. Càng nghĩ
ta càng thấy thương hơn là căm hận Chí, thấy đồng cảm hơn là thấy trách móc Chí.
Tóm lại, hình ảnh bát cháo hành và hơi cháo hành góp phần khắc sâu thêm chủ đề của
truyện. Miêu tả tấn bi kịch bị tước đoạt quyền làm người của người nông dân nghèo
trong xã hội cũ, đồng thời cũng biểu hiện một tư tưởng của Nam Cao: tội ác hủy diệt
tính người nhưng tình thương sẽ cứu rỗi linh hồn con người.
Cũng là khi Thị Nở bỏ Chí Phèo, ta thấy có một chi tiết Chí ôm mặt ngồi khóc. Đây
cũng chính là chi tiết khá quan trọng. Chí Phèo muốn được hạnh phúc nhưng xã hội
không cho phép cái hạnh phúc của một kẻ không cha, không mẹ như Chí được tồn tại.
Một kẻ lưu manh cũng biết ngồi khóc ư? Không! Lúc này đây Chí không phải là một
kẻ lưu manh nữa mà đã là một con người có tình cảm, có nhận thức. Tội nghiệp cho
Chí, một quyền bình đẳng như con người, một quyền được mưu cầu hạnh phúc cũng
không có mà Chí chỉ còn một con đường duy nhất để sống đó chính là hóa thân vào
kiếp thú vật, vào kiếp quỷ dữ.
Cuối cùng, xung đột giữa khát vọng và hoàn cảnh đã dẫn đến chi tiết cuối cùng của
câu chuyện là Chí Phèo kết liễu Bá Kiến. Nhận ra rằng kẻ làm cho mình ra nông nỗi
này chính là Bá Kiến, mặc dù Chí Phèo định xách dao đến tìm giết con “khọm già” và
con “đĩ Nở” kia nhưng những bước chân của Chí lại dẫn hắn đến nhà Bá Kiến. Chí đã
thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi tư cách làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn
của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh đòi quyền làm người.
“Tao muốn làm người lương thiện
Ai cho tao lương thiện”?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi
đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi
đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc
về một thân phận con người đầy cay đắng trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong
mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi con người. Tại sao phải đi đòi lương thiện?
Đó chính là vì cái xã hội vô nhân tính ấy cướp đi mất. Thương thay cho Chí, ngay cả
cái quyền làm người ấy cũng đã bị cái xã hội ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã kết liễu
cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là
lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo đồng thời là tiếng kêu cứu về quyền làm
người trong xã hội ấy.
Có thể nói rằng các chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn rất đặc sắc, góp phần không
nhỏ tạo nên thành công cho tác phẩm và cho nhà văn, thể hiện khả năng khái quát hiện
thực và sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Từ những chi tiết liền kề, gắn kết với nhau
cho ta thấy được cảnh nông thôn Việt Nam trước cách mạng tồn tại hai giai cấp đối
lập là nông dân cần lao và bọn thống trị, hơn nữa, còn cho ta thấy rằng quá trình tha
hóa, biến chất của người nông dân vì bị đói, bị rét, bị áp bức, bóc lột.
Mặt khác, quá trình lao động nghệ thuật của nhà văn là quá trình lao động công phu,
chắt lọc từng chi tiết nhỏ trong đời sống để tạo nên những chi tiết nghệ thuật sáng giá.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, ta có thể coi là trung tâm của toàn câu chuyện thể hiện
cách nhìn và tấm lòng nhân đạo của nhà văn điển hình là chi tiết bát báo hành và
hương cháo hành. Nhà văn đã như hóa thân và cảm thông với số phận của người nông dân trước cách mạng.
Đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Ở mỗi truyện ngắn, mỗi chi tiết
đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó, có những chi
tiết đóng vai trò đặc biệt như nhãn tự trong thơ vậy”. Mỗi chi tiết trong tác phẩm góp
phần như mắt xích vậy. Càng đọc Chí Phèo của Nam Cao ta càng hiểu đúng về nhận
định trên cũng như biết thế nào là chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn.
Phân tích Chí Phèo ngắn gọn
"Chí Phèo" của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội
phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh
người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có
thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo - một người nông dân lương thiện
nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam
Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng "tiếng chửi". Một
loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn "Hắn
chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn...".
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi
hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt
đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân,
đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con
người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo,
như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất
hiện "Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết".
Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí
Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi
bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê
chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà
Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí
Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây
chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình
tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự
khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống
truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở
xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng
cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc
đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối
với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. "Bát cháo
hành" là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những
người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến
người đọc chùng xuống "Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau
ốm bệnh tật...hắn khát khao làm hòa với mọi người". Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần
một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy
nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi
bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng
những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự
tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã
khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu
ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí
phèo còn hét lên "Ai cho tao làm người lương thiện", xã hội này không cho, con người
cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã
hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình
như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc
tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Phân tích Chí Phèo học sinh giỏi
"Tao muốn làm người lương thiện
Không được ! Ai cho tao lương thiện ?..."
Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy
câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa
đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh
ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu
khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,... Cái nhìn dường như không
phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.
Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo
mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những
người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía - tiếng nói khát
khao được sống như một con người.
Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí
Phèo là cả một kì vọng. Bởi hai tiếng "Con người" đối với người đàn ông thua thiệt,
bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy
vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có,
sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được.
Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức
sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.
Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát
khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận
hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng
Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :
- ..."Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng..."
- ..."Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi.
Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
" - ..."Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không
toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh." - v.v.
Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất
cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí
Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có "năm hai mươi
tuổi...", hoặc "hồi ấy...".
Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo
tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những
câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và
khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí
Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc
hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là
con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!
Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại
việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao
muốn làm người lương thiện". Nhưng : " - Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm
thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người
lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách... biết không !... Chỉ còn một cách là...
cái này ! Biết không !... Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhổm dậy, Chí Phèo
đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu
làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến.
Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu
tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ
hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra." Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu
trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy
kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều
phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,...
Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước
muốn "làm người" của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện "làm người" thậm chí đã
thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nửa ! Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn
"trợn ngược", "mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng". Cơ duyên tìm cuộc
sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.
Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật
bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?
Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền,
là lương thiện,... ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề
đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác
phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thỏa đáng cho
mình. Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong
tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và
sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về
và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn
triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng
hạn : "Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" ; "Trời
ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.
Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã
hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".
Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định
nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng
bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí
Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba).
Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện
với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),...
Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm,
bất bình, căm uất,... cũng phải như một con người. Nhưng đây mới là điều tối quan
trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người
thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người. Hiểu như thế,
người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại
xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và
chính đáng nhất. Thế mà "không được !". Lỗi ấy tại ai và do đâu ? Vì Chí Phèo ? Vì
bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ? Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản
một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này. Bi kịch bị
từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện
thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu
mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí
Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi
tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo.
Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có
nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do
này : Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ;
thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí
Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác : rào cản tâm lí. Lí do thứ nhất thuộc về phía
khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra : "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay
sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là
rạch mặt ra ăn vạ." Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành "con vật lạ". Từ
lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi,
người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt
người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật ("chỉ có một
nghề rạch mặt ra ăn vạ"), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã
chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô,
vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha
thứ và đón nhận anh ta. Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến
sự tự ý thức của Chí Phèo.
Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm
trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh "đã
phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc,
làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Món nợ ấy biết trả đến
bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả
ngoại hình Chí Phèo : "Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc
vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu
lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?", ta không nên hiểu đó là
miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng
hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt
trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch được. Nó sẽ trở thành một thứ mặc
cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo
trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : "Không được ! Ai cho tao
lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao
không thể là người lương thiện nữa. Biết không !". Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn :
có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn.
Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào
cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính
Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát
dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho
Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,... chính là
để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ - thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc
càng rõ - tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình. Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu
tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ?
Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không
thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình. Nam Cao đã rất khách
quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí
Phèo. Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : "Chưa bao
giờ hắn tỉnh...", "Có lẽ hắn cũng không biết rằng...", "Hắn biết đâu..." "Hắn biết đâu vì
hắn làm tất cả trong lúc say." Mà "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn
làm". Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận
ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì
niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng :
về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng :
con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản
phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v. Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi,
sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì
người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương
một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. "Giá cứ thế này
mãi thì thích nhỉ" ; "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.", "Chúng sẽ làm
thành một cặp rất xứng đôi". Những cái "giá...", cái "sẽ...", cái "hay là..." như vậy -
trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật - rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả
thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương
vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy.
Cháo hành "rất ngon" ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị
Nở phũ phàng dúi ngã "lăn khoèo xuống sân", chí Phèo vẫn "thoáng một cái, hắn lại
như hít thấy hơi cháo hành".
Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên "làm người lương thiện" của
Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến
người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi. "Chí Phèo" là tiếng nói của niềm
khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị
được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn. Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện
ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này -
Chí Phèo - là một "thằng đầu bò", một "con vật lạ", "gã lưu manh" hay "tên quỷ dữ",...
Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo
là một người lao động lương thiện, một anh canh điền "hiền như đất". Nhưng dù là
nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã
lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải
bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong :
ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó
trong chính tâm hồn anh ta. Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va
đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con
mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo
mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện
Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính. Sự lựa chọn
này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều
thuộc về một chủ thể : Chí Phèo. Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật,
nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ
đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con
người bên trong của mình.
Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu,
được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời văn nửa trực tiếp độc đáo và
bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy..., hắn nghe..., hắn
sợ,...). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng
chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo : "Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn...",
"Hắn sợ rượu...". "Hắn lại nao nao buồn...", "hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.".
"Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.". "Hắn húp một húp và nhận ra
rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất
ngon". Ngược về quá khứ, "nhớ đến bà Ba", "hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.".
Nhìn vào hiện tại, hắn "trông thị thế mà có duyên", hắn thấy "như yêu thị", và khám
phá ra rằng "đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say". Rồi, "hắn
thấy lòng thành trẻ con", "hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ". Và điều tự phát
hiện này mới cực kì quan trọng : "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?".
Hoặc : "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao !
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại
không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại
nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện." Cứ thế,
mỗi một lần "Hắn thấy...", "Hắn .vợ...", "Hắn nhớ...", "Hắn muốn..." là mỗi lần cõi
thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao
khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng người.
Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá
trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những
diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu đời mình).
Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là
tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn
vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được
đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xóa bỏ thù
oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu
hiện đặc biệt của tình bạn, tình người). Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo
chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp
tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả
những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu
chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải
ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa
như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón
hương vị thơm thảo của tình người).
Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan
thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm
cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng
váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.
Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam
Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của người trí thức nghèo
như Điền, như Hộ, như Thứ,... thực ra, cũng dễ hiểu. Là một giáo khổ trường tư, một
văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những
cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.
Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn
hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay,
và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông.
Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật đáng phục và dáng trọng. Điều đó càng
chứng tỏ rằng Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm
lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.
Phân tích Chí Phèo đạt điểm cao
Chỉ là truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân,
nhưng Chí Phèo thật sự tổng hợp sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu
như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" – cùng với Ngô Tất Tố – thì
trước hết vì công có Chí Phèo.
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực
phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể
nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp.
Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo nhiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào
phong tục tập quán dân quê. Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân…đếu có thể coi
là những cây bút tiêu thuyết phong tục sắc sảo của các vùng quê của họ. Một hướng
khác đi vào khảo sát lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con
chồng, anh và em, chú bác cô cậu và những đứa cháu bên nội bên ngoại…cũng có thể
coi đây là một dạng của đời sống thôn quê. Tiêu biểu là Thanh Tịnh "muốn làm người
mục đồng ngồi giữa bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và những làn gió lướt
bay trên cánh đồng…" (Lời Thạch Lam trong bài tựa tập Quê mẹ). Không còn có thể
nói hồ đồ rằng, những khuynh hướng đó là "lãng mạn tiêu cực" hoặc "tự nhiên chủ
nghĩa"…Khuynh hướng nào kể trên cũng có những sáng tác đặc sắc có giá trị về nghệ
thuật và về tư tưởng của những nhà văn thật sự tài năng mà lịch sử văn học không thể
bỏ qua. Song dù vậy, vẫn phải thừa nhận rằng, các hướng tiếp cận thực tại đó đã hạn
chế nhiều tầm khái quát xã hội của các nhà văn. Các cây bút tả chân xã hội thời kỳ này
rất quan tâm viết nhiều về nông thôn, song trào lưu văn học hiện thực từ năm 1940
đến 1945, dù có những mặt đặc sắc, tiến bộ so với trước, vẫn có những mặt yếu đi
trông thấy, "phạm vi của đề tài bị thu hẹp lại rõ rệt, không có những bức tranh xã hội
rộng lớn với xung đột giai cấp quyết liệt như ở Giông tố, Bước đường cùng…của thời Mặt trận dân chủ."
Chí Phèo của Nam Cao không thuộc các hướng viết đó. Trên bối cảnh chung của văn
học hiện thực thời kỳ 1940 – 1945 như vậy, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất.
Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giống tố…thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo
cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm
gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng, nhiều màu sắc của bức tranh về đời
sống xã hội nông thôn. Đó là ấn tượng về hệ thống tôn ti, trật tự, ngôi thứ rõ ràng của
làng Vũ Đại. Trên cùng là "cụ tiên chỉ" bá Kiến, rồi đến lớp "đàn anh" và bọn cường
hào; bên dưới là hạng "đàn em" dân đinh cổ cày vai bừa, trong số này, có hạng cùng
hơn cả dân cùng…Đó là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến thời
xưa. Song nếu tác phẩm thực sự là bức tranh xã hội thì trước hết nó đã phơi bày sáng
tỏ các mối quan hệ phức tạp của hiện thực, đã "miêu tả trung thực những quan hệ
thực". Ngòi bút phân tích xã hội khi vạch ra mối "quan hệ thực" trong nội bộ bọn
cường hào. chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế "quần ngư tranh thực" như lời
ông thầy địa lý nào đó nói "hồi năm nọ" nên bọn cường hào làng này chia thành năm
bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn "chúng chỉ là một đàn cá tranh mồi,
mồi ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế
với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên
cổ." Tình trạng bè cánh tranh ăn trong bọn cường hào rất là phổ biến và có tính quy
luật ở nông thôn, có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều mặt đời sống xã hội, trước hết là tới
số phận người nông dân nghèo – những ruồi muỗi chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Tình trạng này cũng đã được Nguyễn Công Hoan phản ánh tỉ mỉ trong cuốn tiểu
thuyết dày dặn Cái thủ lợn (1939).
Cũng chính là trực tiếp kế thừa và phát huy mạch cảm hứng đó của văn học hiện thực
thời kỳ Mặt trận dân chủ, Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển
hình được khắc họa hoàn chỉnh về các lực lượng thống trị. Những bà phó Thụ, lão
Cựu Túy, bà Chánh Liễu, lão Hải Nam…chỉ là những nhân vật thấp thoáng ở hậu cảnh mà thôi.
Chân dung lão cường hào cáo già bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm với những
nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là giọng quát rất sang
(bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh con người), lối nói ngọt nhạt, và
nhất là cái cười Tào Tháo (cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy). Tất cả đều
cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào khôn róc đời này. Nam Cao cũng hé
cho thấy tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão
cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình già yếu quá mà bà tư thì cứ
trẻ, cứ phây phây, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ…khác gì nhai miếng thịt bò lựt
sựt khi rụng gần hết răng; đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng
chồng…và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà cụ bá được hoàn chỉnh, còn có
bà tư quỷ cái thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại cứ bóp lên trên, trên nữa…Nhà
văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng tuy không kém phần thâm thúy, chứ không sa đà trong việc
soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể
hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực
sinh động của cụ tiên chỉ làng Vũ Đại về cái nghề tổng lý cho thấy Nam Cao chẳng
những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu sâu sắc các mối quan hệ xã hội
ở nông thôn. Bá Kiến đang lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời
tổng lý những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: mềm nắn, rắn buông,
bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố
cùng liều thân, chỉ bóp đến nửa chừng, hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông
nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Còn đây là những sách lược dùng người của lão:
Không có những thằng đầu bò, thì lấy ai cai trị những thằng đầu bò, thu dụng những
thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù, những thằng ấy chính là những thằng
được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm ba đồng uống rượu thì có thể sai nó đến hại bất
cứ anh nào không nghe mình. Có chúng nó sinh chuyện thì mình mới có dịp mà ăn.
Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữa chắc cái ghế thống trị.
Tâm địa thâm độc tới mức ghê sợ của lão còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng
"khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém
nhau, để kẻ nào chết cũng có lợi cho cụ cả! thật là một con hề biết cười.
Thế giới nhân vật nông dân Nam Cao tuy không đông đúc gì lắm nhưng thật phức tạp,
sống động, nên không phải không làm cho người nghiên cứu lúng túng khi phân loại.
Song dù vậy, nhìn trên đại thể, có thể thấy Nam Cao đặc biệt quan tâm tới hai hạng
người (cũng là hai phương diện trong nỗi khổ không cùng của người nông dân): một
là những người thấp cổ bé họng nhất, bị ức hiếp bất công nhất, càng "ở hiền" thì lại
càng "không gặp lành"; hai là những người bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị
lăng nhục một cách bất công, độc ác. Chí Phèo đích thực là nhân vật của Nam Cao:
vừa là một thằng cùng hơn cả dân cùng, vốn hiền như đất – tội nghiệp cho hắn. có lần
thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run, nhưng càng thêm hiền lành thì càng bị
đạp giúi xuống…đồng thời vừa là một trường hợp con người bị miệt thị phũ phàng, bị
gạt ra ngoài hệ thống giá trị của cộng đồng. Từ khi đi tù về, Chí Phèo không thể sống
như trước và hắn không còn được gọi là con người nữa.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế,
nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch họa…mà ở
Chí Phèo – và ở nhiều chuyện khác nữa – nhà văn đi vào một phương diện khác:
người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt nhân tính, do đó, bị phủ nhận
giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất
cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một số không, không nhà cửa, không
cha mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến
một bàn tay cham sóc đàn bà nếu không gặp thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã
hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi
của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ, hắn từ chửi trời đến chửi đất rồi chửi ngay cả
làng Vũ Đại…và hắn bỗng tức tối khi không ai lên tiếng cả…Trong cơn say, hắn vẫn
cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông
nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát
không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với
hắn. Chỉ Phèo chửi cả làng…với hy vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu
yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó lại chỉ gặp sự yên lặng đáng sợ. Và chỉ còn lại
một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó
dữ với một thằng say rượu…
…Chí Phèo trước hết là một "hiện tượng có tính chất quy luật", tính phổ biến, sản
phẩm cảu tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đó là hiện
tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại
bằng con đường lưu manh, đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân đã tiếp
tay cho lão cường hào đã giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thànhChí
Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện
thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải giành lấy sự tồn
tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng,
dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến
nhà, tuyên bố liều chết với bố con lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào
Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau
xót đó cũng rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc của Nam Cao đã vạch ra.
Đoạn văn viết về sự thức tỉnh cảu linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ với thị Nở, một
đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Lần đầu tiên
sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới cảm thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của
những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…Những âm thanh
quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay
bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi thiết
tha của cuộc sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với thị
Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới
ánh sáng của tia chớp ấy,Chí Phèo bỗng nhìn thấy rõ tất cả cuộc đời mình: những
ngày xưa rất xa xôi đã từng ao ước một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê.
Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm; cái hiện tại đáng buồn: già mà vẫn còn cô độc; cái tương lai còn đáng buồn
hơn đói rét và ốm đau. Nếu như bao năm nay Chí Phèo bao giờ cũng say, say vô tận,
có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh, để nhớ rằng có hắn ở đời, thì hôm nay lần đầu tiên Chí
Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để ý thức được về thân phận mình. Khi thấy thị Nở bưng cháo
hành đến, hắn rất ngạc nhiên và hết sức xúc động bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn
được một người đàn bà cho. Hắn ăn bát cháo hành từ tay thị Nở và bỗng nhận thấy
rằng, cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị của cháo hành lúc này chính là hương vị
của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với
Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo măt như ươn ướt, ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó
là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt, trở lại là anh canh điền trong trắng năm
xưa cảm thấy bị xúc phạm khi cái bà ba quỷ cái gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân
lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường
trong lao động. Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi…
Như vậy là lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trongChí Phèo
cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động bao lâu nay bị che lấp, vùi dập
nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội
tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh. "Trần trụi giữa bầy sói" anh
không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại, anh phải cướp giật ăn vạ, đâm chém.
Muốn thế phải liều và mạnh; những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn
say, hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Xét đến cùng, Chí Phèo
không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh ta đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh ta và linh hồn đã trở về. Anh bỗng thấy
thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Anh như rưng rưng và bẽn
lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận lại vào cái xã hội bằng
phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của thị Nở chẳng những đã
thức tỉnh anh mà còn hé cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời và anh đã hồi hộp hi vọng.
Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn miêu tả tấn bi kịch
tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy ấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp
dẫn, không hải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn
vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho thật
chặt chẽ, chính xác thì từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khát khao trở lại làm
người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào
tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng, xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã, đau đớn. Hắn lại
uống, nhưng điều lạ hôm nay hắn càng uống càng tỉnh ra. Đúng hơn là tuy say, trong
tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điểm tỉnh: nỗi đau khốn cùng về thân phận. Và
hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi như để chạy trốn, bản thân chạy trốn nỗi đau, hắn lại
uống…lại uống…đến say mềm người. Rồi hắn đi với con dao, và vừa đi vừa chửi…
như mọi khi. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay Chí Phèo quằn quại đau đớn
vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ hết tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá
Kiến, trợn mắt chỉ tay vào mặt lão dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt đã bị
vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận
trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống,
chết trong tâm trạng bị đau đớn. Thế là trước đây, để bám lấy sự sống, Chí Phèo phải
từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn
trở về, Chí Phèo lại chết. Có người nghi ngờ tấm lòng Nam Cao đối với nhân dân, vì
thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xí, dữ tợn. Vậy mà chính những
người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức
nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lầm cẩm, gàn dở
nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường
(Lão Hạc), Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ
ông ta hôm sau (Lang Rận). Và ở đây là Chí Phèo.
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khao khát
lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói
cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ, vừa mang sắc thái triết học
và âm điệu bi thống đầ ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt không thôi…"Ai
cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó
là "một câu hỏi lớn không lời đáp", chẳng những không thể hiểu mà xã hội khi ấy
cũng chưa thể trả lời. Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu
như toàn bộ sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn
độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào
những trang hay nhất của nên văn xuôi Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo ngắn gọn
Tác giả Nam Cao sinh ra và lớn lên tại làng Đại Hoàng, một vùng quê nghèo khổ có
nạn cường hào ức hiếp đời sống nhân dân thậm tệ. Từ đó, làm nên vẻ đẹp tâm hồn
giàu yêu thương luôn trăn trở day dứt về số phận và cuộc đời của con người, hình
thành nét phong cách nghệ thuật độc đáo trong các sáng tác của tác gia. Có thể nói,
truyện ngắn “Chí Phèo” mang nét đặc trưng của một phong cách cao đẹp của Nam
Cao, thể hiện đầy đủ nhất bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm “Chí Phèo” được ra đời khi trào lưu phong trào văn học hiện thực phê phán
phát triển mạnh mẽ nhất, dù được Nam Cao khai thác chủ đề rất quen thuộc: người
nông dân, vậy mà cách thể hiện của truyện ngắn lại hoàn toàn so khác với các tác
phẩm cùng thời. Không còn là một chị Dậu, anh Pha, một lão Hạc khốn đốn vì tiền
sưu, thuế nặng; Chí Phèo mang nỗi đau của một chàng thanh niên nông thôn có ước bị
định kiến ép trở thành một kẻ tha hóa. Cái khốn đốn đến tận cùng trong số phận của
Chí Phèo chính là nguyên nhân khiến tác phẩm khẳng định vị trí của mình trong
phong trào văn học hiện thực phê phán.
Xuất thân của Chí Phèo đem theo sự u uất của cả một cuộc đời hắn. Bị bỏ rơi ở cái lò
gạch cũ bên chiếc váy đụp, được anh thả ống lươn nhặt về cho bà góa mù, bà góa mù
đem cho bác phó cối, để sau này bác phó cối mất đi Chí đi ở hết nhà này đến nhà khác.
Tuổi thơ của hắn đã chẳng mấy yên ổn, chẳng nhẽ sau này cũng sẽ như thế? Ấy thế
mà, tương lai của hắn lại diễn ra tệ hại hơn nữa. Cậu thanh niên mang tên Chí ấy giờ
đây đã có nơi ăn chốn ở nhờ làm việc cho Bá Kiến, hắn mang theo mình ước mơ
không thể giản dị hơn, rằng sẽ sống một cuộc sống bình yên bên vợ mua mấy con lợn
mà nuôi có một thửa ruộng để trồng trọt, sống như một người nông dân. Chí, chàng
trai tuổi hai mươi giàu ước mơ và khát vọng. Nhưng với xã hội lúc bấy giờ, lại không
cho Chí được thực hiện ước mơ đó.
Tối đến, bà Ba vợ bé của Bá Kiến, người mà lão yêu nhất luôn bắt Chí phải lên bóp
chân hầu hạ bà. Tuy vậy, “hắn lại thấy khinh hơn là thích”, một con người ở tuổi hai
mươi không là gỗ đá “nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt”. Rồi chuyện gì đến
cũng đã đến, Bá Kiến, tên cường hào có giọng nói rất sang kia đã đẩy Chí bước chân
vào con đường tha hóa bằng việc cho Chí vào tù,chỉ vì lão ghen với Chí. Chí bị chà
đạp về đời sống tinh thần, bị Bá Kiến tước đi giấc mơ bình dị của một con người bình
thường mà đỉnh cao cho hành vi đó là sự kiện Chí đi tù. Sau bảy, tám năm trở về Chí
đã mang theo một hình hài khác, một con người khác với tên gọi Chí Phèo.
Bi thương bắt đầu ngay khoảnh khắc Chí bước vào làng. Người ta thấy hắn khác hẳn,
cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng, hai mắt gườm gườm lại
thêm những nét chạm trổ rồng phượng trên ngực. Chí trở về, với những thay đổi ấy là
kết quả, là bằng chứng sống cho tội ác ghê tởm của tù khổ sai, của chế độ và hành vi
tàn nhẫn của Bá Kiến. Chưa dừng lại ở đó, Bá Kiến với tài trị người một lần nữa đẩy
con người nửa ta nửa thực dân kia chính thức tha hóa về tâm hồn, trở thành tay sai đắc
lực của lão, thay lão làm vô số việc xấu xa. Để người dân làng Vũ Đại gọi hắn bằng
cái tên chính thức “Chí Phèo”, cuộc đời hắn cứ thế trôi đi “rối tùng phèo” như chính
cái tên của hắn vậy. Bắt đầu từ Năm Thọ kẻ Bá Kiến muốn trị mà không có dịp, rồi
Đội Tảo, và cứ thế Chí Phèo tự tay hủy hoại biết bao hạnh phúc của dân làng Vũ Đại,
cuộc sống mà hắn hằng mong ước ở tuổi hai mươi. Hắn, rạch mặt sẽ có rượu, cứ rạch
mặt sẽ có đồ ăn dần là những vết thẹo làm gương mặt hắn biến dạng, người ta chẳng
còn nhớ nổi dáng vẻ trước đây của hắn, thay vì thương cảm dân làng lại thấy sợ hắn
chẳng khác một con vật lạ. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để hỏi tội nhưng đã không đạt
được mục đích, ngược lại Chí lại rơi vào cái bẫy đầy mật ngọt của hắn ta, chính thức
làm tay sai để thực hiện những hành vi xấu xa thay lão.
Cuộc sống đầy rẫy lỗi lầm của Chí Phèo đã đến lúc dừng lại, kể từ khi có sự xuất hiện
của Thị Nở, người đàn bà ngơ ngơ, có tật bạ đâu ngủ đó, người mà cả làng Vũ Đại
tránh như tránh một con vậy rất tởm. Nam Cao không sử dụng bút pháp lãng mạn để
xây dựng vẻ bề ngoài cho Thị, ngược lại Thị còn mang theo mình những nét xấu
không một ai có. Nam Cao đã quan sát rất chi tiết và vô cùng tỉ mỉ, lại thêm lối viết vô
cùng sắc nét và chân thực, hình tượng nhân vật nữ đã được ông miêu tả cụ thể hóa xấu
đến mức “ma chê quỷ hờn”. Cuộc gặp gỡ giữa đôi lứa xứng đôi mang đến phép màu
cho cuộc đời của Chí. Sau đêm tình mùa thu, bát cháo được Thị mang đến chất chứa
tình người, Chí Phèo chỉ thấy nghẹn ngào đến khóe mi ươn ướt sau cái phần ngạc nhìn
khi trông thấy nồi cháo nóng hổi Thị mang đến, lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được
bàn tay người phụ nữ chăm sóc, mà cao hơn nữa là hắn được cho ăn không cần phải
rạch mặt ăn vạ. Bát cháo hành của Nở mang tính biểu tượng của tình yêu “đẹp” và
như một bàn đạp khiến Chí mong mỏi thành một con người lương thiện. Hắn nhớ lại
ước mơ thuở hai mươi, khát vọng thực hiện nó khi đã đến đến cái tuổi bên kia dốc của
cuộc đời, lắng nghe những âm thanh buổi sáng yên bình trước đây hắn chưa bao giờ
nghe thấy. “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui?” lời lẽ của một kẻ si tình ấy
lại được thốt ra bởi con quỷ dữ làng Vũ Đại thật khiến người đọc chẳng khỏi suýt xoa,
thế rồi cái hạnh phúc vô hình ấy rồi cũng chẳng kéo dài được bao lâu. Cuối cùng Thị
vẫn rời xa hắn, hắn sửng sốt, níu lấy tay Thị mong muốn vớt vát lại tình yêu thế nhưng
tất cả đều đã kết thúc, hắn nghĩ mọi chuyện như ngày hôm nay là do lỗi của bà cô con
Đĩ Nở. Hắn lại tìm đến rượu nhưng càng uống càng tỉnh ra, chỉ hít thấy hương cháo
hành. Rồi rốt cuộc hắn đã biết, hắn đã thấu cái kẻ khiến hắn thành ra ngày hôm nay
không ai khác chính là Bá Kiến.
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến và kết thúc chuỗi ngày không ước mơ, triền miên trong
những cơn say. “Tao muốn làm người lương thiện” câu nói gào lên trong ruột gan Chí,
khát vọng vượt khỏi tâm trí, thúc giục hắn đến đây. Nhưng “làm thế nào mất đi những
mảnh chai trên mặt”, Chí không thể trở lại con người lương thiện được nữa. Kẻ đã
trượt dài trên con đường tha hóa, biến dạng thành ác quỷ,liệu có thể trở lại? Định kiến
đã giết chết con người, đúng đã khiến một con người không thể hoàn lương được nữa.
Hắn chết, nhưng tâm hồn luôn được sống mãi chẳng phải sẽ tốt hơn, đó là cái chết đau
đớn và đầy ám ảnh, Chí Phèo phải chăng muốn nói những lời xám hối muộn màng, lời
ăn năn của một con “quỷ dữ” và lời khao khát của người nông dân lương thiện đã tìm
lại được ý nghĩa của cuộc đời . Cách kết thúc mở nhưng lại hoàn toàn rơi vào bế tắc,
đây cũng là cái chung của văn học trước 1945, khi cái nhà văn vẫn chưa tìm được lối thoát cho bản thân mình.
Truyện ngắn “Chí Phèo” kết thúc nhưng vẫn còn đó những ám ảnh về một chế độ nửa
thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ, phê phán chính xác
một xã hội đầy vô cảm. Với khả năng sáng tạo văn học điêu luyện kết hợp lối viết
chân thực đan xen những biện pháp tu từ độc đáo, Nam Cao đã để lại một tuyệt phẩm
cho văn học nước nhà. Tác phẩm kết thúc trong nỗi rưng rưng của người đọc, có một
tình thương nỗi xót xa lan thấm trong tâm trí của người đọc, còn lại đó cả một nỗi
bâng khuâng cho số phận cuộc đời người dân vô tội trước năm 1945, mang cả giá trị
nhân sinh sâu sắc vừa có sức mạnh tố cáo. Phân tích Chí Phèo
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí
phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà
văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức
của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.
Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt
như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng,
sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng
ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những
người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối
vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp
thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng
đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây
nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.
Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha
hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực.
Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống,
quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng
đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”,
tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.
Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn
vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình
thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết
hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm
cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.
Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí
Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng,
bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở
người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con
người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng,
ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về
mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.
Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét
chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố
chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ
không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm
tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn
hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa
nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được
mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe
cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người
khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng
đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão
chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.
Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh
như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung
cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc
ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí
Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của
Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn,
đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi
tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa,
làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với
lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá
Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một
con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu
manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng
như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá
Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.
Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn
ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà
Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới,
chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với
những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo,
một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và
cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định
và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường
quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu
dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.
Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi
nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không
làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy,
là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn
ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều
có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào
vườn ở bãi sông cấm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao
giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao
nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.
Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn.
Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”.
Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi
được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề
ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư
tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ
rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.
Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày
hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận
và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say,
hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí
suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương
thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết
mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không
chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé
tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến
cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.
Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều
thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột
của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt
quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm
trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người
đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một
giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả
đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.
Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời
sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh
động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ
Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.
Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có
mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những
bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc
lột, không để cho họ một con đường sống.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Trong số những kiệt tác văn học hiện thực của nền văn học Việt Nam thời kỳ trước,
thì “ Chí Phèo” của Nam Cao là tác phẩm nổi bật khi phản ánh được hiện thực rõ nét
của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công và tội ác của những kẻ xấu xa. Đồng
thời hình ảnh người nông dân bần cùng bị hoàn cảnh xô đẩy cũng được khắc họa rất thành công.
Nhân vật chính của tác phẩm cùng tên với tiêu đề, đó chính là Chí Phèo. Vốn là một
người nông dân hiền lành, lương thiện thật thà nhưng lại bị xã hội chà đạp, chèn ép,
dẫn đến bước đường cùng là trở thành một kẻ sát nhân. Chí Phèo xuất hiện ngay từ
đầu tác phẩm bằng những tiếng chửi rủa, “ hắn chửi trời, chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ
Đại… chửi đứa nào đẻ ra hắn…” Những tiếng chửi như để bắt đầu cho cuộc đời tăm
tối và đầy bi kịch của hắn.
Hắn, Chí Phèo sinh ra đã bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, người làng truyền tay
nhau nuôi hắn lớn. Vì có sức khỏe nên hắn đi làm ở cho nhà Bá Kiến. Thấy hắn như
vậy, Bá Kiến ghen tuông, tìm cách đẩy hắn vào tù. Và bắt đầu từ đây, Chí Phèo sinh
ra những nỗi đau, những oán hận chồng chất với cuộc đời. Chí Phèo dần dần không
còn là một người nông dân lương thiện nữa mà đánh mất đi chính bản thân mình. Hết
hạn tù, Chí Phèo về làng và trở thành một con người hoàn toàn khác. Chí Phèo xuất
hiện với hình ảnh “ cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông
gớm chết.” Người nông dân hiền lành trước đây đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh
gớm ghiếc khiến người khác nhìn vào cũng có vài phần ghê sợ.
Chính những con người trong xã hội phong kiến thối nát ấy, đã khiến cho bản tính
hiền lành, nhân cách lương thiện cùng ham muốn làm người của Chí Phèo bị cướp
mất. Hắn biến thành một kẻ xấu xa, sống nhờ việc đi rạch mặt ăn vạ, đâm thuê chém
mướn. Không biết bao nhiêu gia đình ở cái làng Vũ Đại này đã bị hắn phá tan. Dân
làng không ai không sợ khuôn mặt gớm ghiếc cùng những hành động tàn bạo ấy. Hắn
bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Cuối cùng, không còn cách nào khác lại trở về làm thuê
cho nhà Bá Kiến. Chí Phèo có lẽ đã tiếp tục lâm vào bước đường cùng, khi hắn phải
trở về làm thuê cho kẻ đã đẩy hắn xuống địa ngục như bây giờ. Nỗi đau của Chí Phèo
nhưng có lẽ cũng là nỗi đau chung của những con người thấp cổ bé họng, bị áp bức
đến nỗi rơi vào bế tắc trong xã hội phong kiến ấy.
Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao xây dựng rất thành công. Nhân vật điển hình cho
sự tha hóa, bế tắc, bần cùng của xã hội phong kiến thối nát ngày ấy. Và nếu chỉ có như
vậy thì chưa đủ để Chí Phèo trở thành kiệt tác. Nam Cao đã khơi gợi sự khát khao một
mái ấm gia đình, được yêu thương như bao người khác của Chí Phèo. Tình huống tác
giả đưa ra, để cho Chí Phèo gặp Thị Nở trong vườn chuối sau khi hắn uống rượu say
khướt. Thị Nở xuất hiện trong đời hắn với bát cháo hành đã khiến cho chính bản thân
Chí Phèo cũng như người đọc cảm thấy vẫn còn chút hy vọng thắp sáng cuộc đời tăm
tối của hắn. Nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ thô kệch, xấu xí, nhưng lại
là điểm sáng thắp lên hy vọng của Chí Phèo. Thị Nở xuất hiện đã đánh thức lương tri,
đánh thức con người vốn lương thiện hiền lành của Chí Phèo. Chi tiết “ bát cháo
hành” là một chi tiết, hình ảnh nghệ thuật đắt giá, giàu giá trị nhân văn sâu sắc, biểu
hiện cho tình cảm giữa người với người trong xã hội thối nát đó.
Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo nhận ra cuộc đời ngoài kia vẫn còn nhiều điều tốt đẹp.
“ Hắn thấy già yếu, bệnh tật và cô độc còn đáng sợ hơn cả ốm đau bệnh tật. Hắn khát
khao làm hòa với mọi người.” Đến giờ phút này, có lẽ hắn đã biết rằng mình cũng cần
một cuộc sống như mọi người. Một cuộc sống bình thường, không phải đâm thuê
chém mướn, không phải rạch mặt ăn vạ người ta nữa. Mong ước bình dị nhưng dường
như với Chí Phèo lại vô cùng lớn lao, khó thực hiện.
Vậy nhưng một lần nữa, xã hội phong kiến thối nát, nghiệt ngã, tàn nhẫn ấy đã không
để cho mong ước bình dị làm người lương thiện của Chí Phèo được trở thành hiện
thực. Đó là khi bà cô của Thị Nở xuất hiện, và bà cô phản đối Chí Phèo và Thị Nở đến
với nhau. Không chỉ vậy, bà ta còn mắng mỏ, chì chiết Chí Phèo bằng những lời lẽ ác
nghiệt, cay độc nhất. Bà cô ấy có lẽ chính là nhân vật tiêu biểu, hiện thân của xã hội
phong kiến xấu xa, đã cự tuyệt, từ chối một cách tàn nhẫn khát khao làm người lương
thiện của Chí Phèo, đẩy hắn vào bước đường cùng của cuộc đời. Chính vì thế, Chí
Phèo một lần nữa rơi vào tuyệt vọng, hắn đau đớn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù, để
giết cái kẻ đã làm hại đời hắn.
Chí Phèo giết chết Bá Kiến, sau đó hắn tự tay kết liễu cuộc đời tối tăm của mình. Hình
ảnh Chí Phèo nằm giãy đành đạch giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến, hét to lên rằng
“ Ai cho tao làm người? Ai cho tao lương thiện?” đã khắc sâu vào trong tâm trí cũng
như ám ảnh bất cứ người đọc nào. Không ai cho hắn lương thiện. Từng con người
không cho, nên cái xã hội ấy chắc chắn không cho. Một tấn bi kịch đối với cuộc đời
của Chí Phèo, người nông dân lương thiện nhưng sinh ra trong xã hội đầy rẫy những
bất công cùng sự tàn nhẫn.
Thật vậy, chỉ có ngòi bút sâu sắc của Nam Cao mới có thể xây dựng được một cách
thành công đến thế hình tượng nhân vật điển hình của sự áp bức, bất công thời bấy giờ.
Đọc Chí Phèo, người đọc sẽ ám ảnh mãi không thôi, cũng như đọng lại sâu sắc niềm
thương cảm với thân phận của những con người sinh ra nhầm thời, vì hoàn cảnh mà
phải lâm vào bước đường cùng, trượt dài trong hố sâu của tội lỗi.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những
tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái
nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới,cũng như hình ảnh trong các tác phẩm
cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại
như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam
Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực
dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những
ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo,
và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó,
không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như
chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những
tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động,mọi hình ảnh như mở
ra trước mắt.Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn
thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó,
cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ
mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như
vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực.
Quả là như vậy,hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ
hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến
năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực
lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không
thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện,
nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi
thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.
Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đổi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng
hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt
trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính
là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng
hắn,nhưng ngay sau đó,Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo
dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mắt dò xét của người dân nơi
đây.Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang
Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí
Phèo luôn luôn ưa nhẹ,lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà
và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa vì Chí
cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng
không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có
vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào
uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bỗng nhiên
trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp
dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.
Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi
một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ
nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi,
xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với
nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một
người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc
tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn.
Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí
bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ
thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu
thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất
quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương
thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn
cũng không còn nữa. Chính vì thế, mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc
đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe
được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ
tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.
“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiện
thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân
vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết.
Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện,
có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa
nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp
(Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ
thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.
Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong
kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ
những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả
không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi
mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó
là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại
nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào,
kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là
một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không tuân
theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh
Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với
những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên
trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể
truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông
qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất
phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết
sức chân thực và sống động.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông
dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này.
Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" , cùng với Ngô Tất Tố,
thì trước hết vì ông có Chí Phèo.
Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được
phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể
nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp
pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi
vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu,
dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.
Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện
tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố.... thời Mặt trận dân
chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết
liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức
tranh về đời sống xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối
xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân
bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng.... Nam Cao đã phản
ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.
Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai
cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét
tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát "rất sang"
("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người"), lối nói ngọt nhạt, và
nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả
đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao
cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm
hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá "
mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì
nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với
người vợ lính vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá"
được hoàn chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại
"cứ bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm
thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể
hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực
sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho thấy Nam Cao chẳng
những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội
ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng
lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám
thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng
liều thân", "chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng
rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không
có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt
mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được
việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái
bất cứ anh nào không nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn....
"... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống
trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng
"khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém
nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế,
nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa.... ở Chí
Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội
tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm
người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người
nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ,
không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay
chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch
nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải
sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc
đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say
rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu
đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt
vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến
"chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ Đại..." .Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không
ai lên tiếng cả"... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi"
khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có
nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là
còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo
chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao
tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo
trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!...
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính
cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo
trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp
bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người
nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu
manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy
của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết
chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông
dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra
rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả
nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị
thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố
"liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy
hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến
và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ
làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn
đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân - với ý
nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.
Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được
xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của
Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí
Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng
văn bông lớn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của
loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, "đôi lứa
xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa
đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm "rười
rượi những trăng", có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng
xanh rười rượi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là "hứng
tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người
đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt
hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa
dằn người đàn bà xuống"! Lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là,
nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì
sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành
của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động
trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ
với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân
đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Lần
đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng
cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá...Những
âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng
hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng
gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ
với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí
Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình:
những ngày xưa "rất xa xôi " đã từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc
mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì
mua dăm ba sào ruộng làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương
lai còn đáng buồn hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét
và ốm đau". Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có
lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên Chí
Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành
động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm
những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao
nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say...
Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình,
và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi
thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động. Bởi vì lần
này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và
bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là
hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu
tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn hiền,
ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh
điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi bị cái bà ba "quỷ cái" gọi lên bóp
chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết
sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... "
Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí
Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập
nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội
tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh "Trần trụi giữa bầy sói", anh
không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém.
Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn
luôn say, " hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí
Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy "thèm
lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng rưng và bẽn lẽn
trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng,
thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh
anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị,
lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ
giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án
cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình
thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy
thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định
tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như
những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau
sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo
hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì
diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn
giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con
quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự
hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích
thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng
một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi
kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt
hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà
còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho
chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm
người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào
tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống,
nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là tuy say, trong
tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tĩnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và
"hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nỗi đau, hắn
"lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa
chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại
đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng
trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại
bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh
không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng
cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám
lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức
nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tấm lòng của Nam Cao
đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy
mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó,
nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như
lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong
cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều
nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát
lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói
cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học
và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi..."Ai
cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó
là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi
ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu
như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc
đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những
trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 5
"Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy
đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong
một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình."
(Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học
và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được
lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
"Chí Phèo" thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao.
Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người
nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp
và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng "Chí Phèo" là tác phẩm
Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.
Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân
khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi - một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh:
"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi." Hắn - cái cách
mà Nam Cao gọi Chí Phèo - là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại
với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi
đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau
cùng là chửi "đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn". Tiếng chửi như đã trở thành quy luật
sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân
vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị
cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại
không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên
ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi
gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật...
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở
làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng,
Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân,
hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất
cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian
làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không
được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là
sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy
nhục chứ yêu đương gì". Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một
cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: "Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm".
Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng
dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch
lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một
anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa "đặc như thằng săng đá", với "cái
đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta
tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng
thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt,
chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình,
nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho
Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy,
Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật
của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể
ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những
lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay
đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. "Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát
bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của
bao người dân lương thiện". Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá
Kiến: "Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò". Chất Người trong hắn dường như
đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội -
một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà
Vũ Trọng Phụng gọi là "chó đểu". Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến
nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào,
có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những
người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao
vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi "cố tìm mà hiểu" chất Người
trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một
người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ
chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý
thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong
cuộc đời, Chí nghe thấy "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của
những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cũng lần đầu, hắn ý thức
được về tuổi tác của mình, về hiện tại "đã già mà vẫn còn cô độc", về quá khứ với ước
mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với "đói rét, ốm đau và cô độc". Con người ấy lần
đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo,
biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối
cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã
cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn
luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương - trở về
với xã hội loài người. Hắn tin rằng "Thị Nở sẽ mở đường cho hắn"; "Thị có thể làm
hòa với hắn sao mọi người lại không thể". Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về
làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm
thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện,
bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã
không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ
lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi
vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà
ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: "Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một
thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Cái loa của định
kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương
và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố
níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật
sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người
đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả
thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ
tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội
chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở
về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo
toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi "Ai
cho tao lương thiện?" vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không
kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt
theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của
Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí
Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích bài Chí Phèo
Chí Phèo phân tích - Mẫu 1
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng:
“Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân
vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số
người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu
rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân
đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn
đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi
kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của
tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa
con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên
nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ
như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí
cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn,
cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình
mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng
chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về
làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa
một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ
đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi
trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị
Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của
cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù
vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của
mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch
mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc
đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau
trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi.
Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả
làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên
sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm
hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm,
lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ
hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính
cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút
khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho
ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng
khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là
khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận
hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra
câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người
mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen
nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn
ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết
rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ
chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người
lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được
những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành
tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn
chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới
chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã
đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã
tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội
nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu
thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm
trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chí Phèo phân tích - Mẫu 2
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán
viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và không thể không kể đến Nam
Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là
hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán
viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và không thể không kể đến Nam
Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là
hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa con hoang bị bỏ rơi lúc
mới lọt lòng. Chí được một bác phó cưu mang đưa Chí về nuôi rồi đến khi bác phó
chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt ngày đi ở cho nhà
này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình thương.
Thời gian Chí Phèo đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí được mọi người khen là
hiền như đất, dù không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai, phải trái khi ở
trong nhà Bá Kiến. Mỗi lần bị mụ vợ Bá Kiến gọi vào bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy
nhục chứ yêu đương gì", Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau là sự dâm đãng đáng khinh rẻ.
Cũng như bao nhiêu khác, Chí cũng mơ về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi “Chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập và cuộc đời Chí trượt theo
vệt dài khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào con đường tù tội chỉ vì sự ghen tuông bạo chúa, bị
kịch của cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó dị dạng.
Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc như thằng săng
đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm".
Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị mọi người xa lánh, đi đến đâu cũng bị xua đuổi.
Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, cậy
cái say nó đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người. Trở về làng Vũ
Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con người đến nghẹt thở,
Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa.
Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ lọc lõi
như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, nó làm mọi thứ mà
không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến là “Lấy thằng đầu
bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của bây
giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn quỷ đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội ngày xưa-
một xã hội vô nhân đạo với những con người sống không có tình người, một xã hội
mà Vũ Trọng Phụng gọi nó với cái tên khinh nhược là "chó đểu". Nơi mà những tên
địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí họ còn quyết định được sự sống
của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng nhà văn
Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần con của Chí vẫn
tồn tại chất người. Và dường như phần người của Chí được thể hiện khi gặp được
đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí.
Đó là lúc Chí gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại.
Qua cái đêm định mệnh giữa Chí Phèo và Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm Chí như
được hồi sinh. Có lẽ lần đầu tiên từ khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe "tiếng chim hót
ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá". Lần đầu Chí ý thức về tuổi tác, bản thân mình "đã già mà vẫn còn cô độc".
Dường như lý trí và lương tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí. Một
con người đâm thuê, chém mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ tưởng chừng như
sống không tình, không người nhưng Chí đã xúc động rưng rưng nước mắt khi bưng
trên tay bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm.
Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một con người
tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo khao khát hoàn
lương- trở về với hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Hắn mang một lòng tin rằng
chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ ước muốn, khao khát muốn
được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực, trong cái khung cảnh, tư tưởng lúc bấy giờ Nam
Cao không thể rời thực tế mà bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được. Khao khát
hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi
đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ chối khát
vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa tình, cố níu mà
không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kẻ đáng thương và tội nghiệp. Thị Nở quay
lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng sập lại. Chí lại ngập
trong cơn say và tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành một người thân tàn ma dại để trả thù và
cũng kết liễu luôn đời mình.
Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sống mà làm con quỷ dữ trong cái xã hội
đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt nhất. Đó là cái chết để bảo
toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một xã hội phong kiến cổ hủ để rồi câu
nói "Ai cho tao lương thiện?" vang vọng và ám ảnh mãi không nguôi. Đúng là một bi
kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài nội dung,
ý nghĩa của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây dựng nhân vật,
phân tích tâm lý nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận dụng đối thoại, độc
thoại phù hợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. Ngòi bút hiện
thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng cảm xúc chân thực nhất, phải
chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau hiểu được
phần nào cuộc sống cơ khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận cùng. Qua đó thể
hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Chí Phèo phân tích - Mẫu 3
Nam Cao cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nhờ có ông và các
phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông
đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng.
Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài
người nông dân là nổi bật hơn cả. Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn
bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung.
Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi
thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với
bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật
nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn
nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó
cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí
lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng,
nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí
Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ
ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà
tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất.
Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt cong cớn, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen,
phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say
khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiện đã
trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá
Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm
bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại.
Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo.
Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhà Tự Lãng, trên đường về nhà
thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa
đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn
say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung
quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống
nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng
anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn
nghe, không còn để ý nữa. Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính
mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn,
vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn
trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận
và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói
rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở
xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc động và biết ơn.
Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một
kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt
ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn
cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí
hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị
Nở sẽ là người mở đường cho hắn.
Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên
với Chí và bị gạt phắt đi. Thị Nở - một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban
đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc,
hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chỉ là vô
cùng, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi
cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng
hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến
nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích
thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà
là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của
Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn.
Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất
của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời
đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị
Nở là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những
người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những
yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng
hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc
những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí
về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị
Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí. Thị cũng như
bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng
vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất,
hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những
định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường
cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi
bật nhân vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có
Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, quá đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
giả, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là
người đẩy Chí Phèo vào bi kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị
hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt
Nam bị tha hóa trước cách mạng ; nghệ thuật phân tích diễn biến tâm lí nhân vật hợp
lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho
người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày
nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật.
Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa
phong kiến phi nhân tính, đã đầy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân
hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin
vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm
thương với số phận người nông dân bất hạnh.
Chí Phèo phân tích - Mẫu 4
Viết về đề tài người nông dân đã có rất nhiều nhà văn thành công trong đó có tên tuổi
của Nam Cao với kiệt tác “Chí Phèo” tập chung khắc họa tình cảnh và số phận của
nhân vật chính bị đẩy vào mức đường cùng, bị chà đạp tàn nhẫn mất nhân hình và
nhân tính. Tác phẩm đã tố cáo hiện thực xã hội cũ và thể hiện tư tưởng nhân đạo, quan
điểm nghệ thuật của nhà văn.
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941 với cái tên là “Cái lò gạch cũ” dựa vào hình ảnh
cái lò gạch bị bỏ hoang xuất hiện đầu và cuối câu chuyện cho thấy sự quẩn quanh bế
tắc trong cuộc sống và số phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhan
đề này thiên về sự bi quan, ảm đạm của nhà văn về đời sống và tiền đồ của nông dân
nghèo. Sau đó nhà xuất bản đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi” hướng vào mối tình Chí
Phèo-Thị Nở gây trí tò mò với người đọc. Đến năm 1946 Nam Cao lấy tên nhân vật
đặt lại là “Chí Phèo” đây là sự lựa chọn thông minh và đúng đắn, mang dụng ý nghệ
thuật của nhà văn. Hoàn cảnh, số phận của Chí Phèo không phải là vấn đề của một
tình huống cụ thể mà đó là hiện tượng phổ biến của bao người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Câu chuyện “Chí Phèo” kể về cuộc đời và quá trình bị lưu manh tha hóa của nhân vật
chính. Chí là một đứa trẻ bị bỏ hoang tại cái lò gạch cũ ở giữa đồng. Hắn lớn lên như
cây như cỏ đi ở hết nhà này tới nhà khác. Bản chất vốn hiền lành lương thiện chỉ vì
cơn ghen của Bá Kiến mà bị đẩy vào tù. Bảy, tám dưới chế độ cai trị tàn bạo của nhà
tù phong kiến nửa thuộc địa làm cho tâm hồn Chí bị nhuốm đen, bị tha hóa mất hết
tính người, ngoại hình bị biến dạng từ lời nói đến hành động, suy nghĩ không còn là
anh canh điền chất phác. Ngày trở về làng hắn đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người,
bị quỷ dữ cướp đi linh hồn, bị bọn cường hào địa chủ tiêu biểu là cụ Bá hoàn thành
nốt công đoạn cuối cùng biến hắn thành “con quỷ dữ”. Kể từ đó hắn bị mọi người ghẻ
lạnh, xa lánh và gạch tên ra khỏi sự tồn tại của cộng đồng người làng Vũ Đại.
Mở đầu tác phẩm Nam Cao để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách độc đáo
ngất ngưởng trong cơn say cùng với tiếng chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng
Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, chửi cha mẹ đứa nào đẻ ra hắn.
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng điều lạ ở
chỗ hắn chửi nhưng không ai đáp lại, chỉ có tiếng chó sủa và tiếng chửi của một thằng
say, mọi người đều nghĩ “Chắc hắn trừ mình ra”. Cách vào truyện gây tò mò, cho
người đọc băn khoăn với những câu hỏi: Tại sao Chí lại chửi nhiều đối tượng đến thế?
Tại sao lại có kẻ tha hóa đến vậy? và vì sao nó chửi mà không ai thèm chửi nhau với
hắn? Nam Cao đau lòng nhận xét: “Giá hắn biết hát thì có lẽ không cần chửi”, nếu biết
hát thì Chí không phải khổ, mọi người cũng không cần nghe tiếng chửi của Chí. Cách
thu hẹp đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không phải là say, chửi là chửi tỉnh chứ
không phải say vì rượu mà chửi. Hắn thấm thía nỗi đau bị ghẻ lạnh mà càng uống
càng chửi thì càng chẳng có ai quan tâm để mắt đến hắn. Tuổi thơ Chí đã sống trong
nghèo khó, bất hạnh không có tình thương để rồi giờ đây số phận hắn vẫn không thay
đổi một giọt hạnh phúc hi hữu cũng không.
Chí luôn ở trong trạng thái say tỉnh bất phân vừa về hôm trước hôm sau đã thấy ngồi
ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều. Anh Chí xuất hiện với ngoại
hình “đầu trọc lốc như thằng sắng cá! Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất
cong cớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây
vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm
chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Từng chi tiết được Nam Cao miêu tả thật xác đáng,
Chí Phèo hiện lên dưới ngòi bút ấy đúng chất của thằng đầu bò hổ báo. Cuộc đời của
hắn với tâm hồn và nhân cách có lẽ bị biến dạng méo mó từ đây cho đến khi gặp được thị Nở.
Nam Cao lột tả cuộc đời Chí là “Một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo,
để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Lần say thứ nhất hắn xách chai đến nhà cụ Bá để rạch
mặt ăn vạ, nhưng với một con người xảo quyệt, mưu mô mà thấu lòng đối phương như
cụ anh Chí nhanh chóng bị hạ gục bởi mấy lời dụ dỗ ngon ngọt, chẳng biết có họ như
thế nào với Lí Cường nhưng khi nghe Bá Kiến nói thế cũng thấy dịu dịu, nguôi ngoai
cơn giận. Lần thứ hai hắn đến không gây gổ, ăn vạ mà dáng điệu hiền lành như cục
đất, gãi đầu gãi tai xin cụ cho đi ở tù, hắn thấy đi tù sướng hơn nhưng thực chất là đòi
miếng cơm, tấc đất. Mục đích và yêu cầu ấy thật chính đáng tuy nhiên lại bị tên địa
chủ cường hào gian ác lợi dụng biến Chí thành tay sai đắc lực cho hắn. Kể từ đó Chí
chìm đắm trong cơn say mà khi say hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai
bảo. Chí là con quỷ thực sự “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh
yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện” tất cả dân làng đều sợ hắn, người ta đều tránh mặt khi hắn qua. Chị Dậu
nghèo đói không có tiền nộp sưu cho chồng phải bán con bán chó nhưng không bán
nhân phẩm. Còn Chí bán cả linh hồn cho quỷ để rồi bị cự tuyệt quyền làm người đến xót xa.
Như vậy cuộc đời của Chí Phèo đến đây có thể thấy rõ được hiện thực xã hội ở nông
thôn Việt Nam trước cách mạng, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn mà
người nông dân lương thiện bị chà đạp về tinh thần và bị bóc lột về thể xác đến cùng
cực khiến cho họ trở thành con người bị lưu manh, tha hóa.
Tuy nhiên Nam Cao không để cho nhân vật của mình mãi chìm đắm trong cơn say,
với tấm lòng nhân đạo ấy ông đã cho Chí Phèo có năm ngày hạnh phúc, được sống là
con người đúng nghĩa. Sau khi gặp thị Nở đây thực sự là lúc hắn từ một con quỷ dữ
hồi sinh sống lại với kiếp người. Thị Nở chẳng có gì ngoài ngoại hình xấu xí ma chê
quỷ hờn, cái mặt ả là sự mỉa mai của hóa công lại còn là dòng giống con nhà mả hủi,
nghèo và ngẩn ngơ nhưng con người ấy lại có một tấm lòng ấm áp, có sự cảm thông
và quan tâm chân thành với Chí Phèo. Hai con người bị cô lập trong chính xã hội loài
người tìm về được với nhau, đồng điệu trong tâm hồn.
Sáng hôm sau tỉnh dậy đây là lần đầu tiên từ khi trở về hắn hết say và tỉnh táo. Chí
cảm nhận được tiếng gọi tha thiết của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của người đi chợ nói chuyện với
nhau. Cảnh tượng ấy khiến Chí nhớ về ngày xưa khi còn là anh canh điền hiền lành
cũng đã từng có một thời mơ ước “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. chúng lại
bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là một
ước muốn nhỏ nhoi, bình dị như bao người nông dân nghèo khó. Hắn cũng nhìn thấy
được tương lai của bản thân là bệnh tật và cô đơn. Hắn chưa bao giờ tỉnh để nghĩ về
điều đó giờ đây đã thực sự nhận thức được hoàn cảnh của bản thân mình.
Bát cháo hành của thị khiến cho Chí cảm động vô cùng hắn hết ngạc nhiên đến khóc
vì trước giờ không có ai cho không hắn cái gì, hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay
một người đàn bà như thế. Cứ vậy chúng thì thầm, chúng bẽn lẽn tỏ tình với nhau
“Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” và
chúng có năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi cùng nhau. Trong con mắt của kẻ say tình
thấy thị Nở xấu vậy mà cũng có duyên vô cùng “xấu mà e lệ cũng đáng yêu”, còn thị
thấy Chí không hề đáng sợ thậm chí là còn thấy hắn hiền và đáng thương. Khi ấy Chí
khao khát được hoàn lương, khao khát được sống bình yên với thị, muốn làm hòa với
mọi người và thị Nở là cầu nối để hắn hòa nhập với xã hội, thị là người mở đường cho
hắn. Bao nhiêu hi vọng, niềm tin, khao khát hắn đặt vào ở thị. Nhưng tiếc thay cho đôi
tình nhân thị lại là người dở hơi đem câu chuyện của mình về xin ý kiến bà cô và tất
nhiên bà ta không đồng ý mà dùng những lời cay nghiệt, xỉa xói thị. Đến nhà Chí ả
vứt lại tất cả những lời nói ấy, sự tức giận ấy vào mặt hắn. Hắn đã chính thức bị cự
tuyệt quyền làm người bởi định kiến xã hội, đến cả thị người duy nhất hiểu và cảm
thông, chấp nhận hắn cũng gạt tay hắn ra, ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. Chí rơi
vào bế tắc, tuyệt vọng hắn lại tìm đến rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại
càng đau khi ý thức rõ được hoàn cảnh của bản thân. Chí Phèo thực sự tỉnh để nhận
diện rõ kẻ thù của mình là Bá Kiến để rồi dẫn đến hành động hắn cầm dao đâm chết
cụ Bá và tự sát khi tiếng kêu đòi làm người lương thiện vẫn vang vọng trong đau đớn,
xót xa: “Tao muốn làm người lương thiện!”, “Không được! Ai cho tao lương thiện?
Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí chết vì ý thức nhân
phẩm đã trở về, hắn không thể chấp nhận kiếp sống thú hoang nên cái chết là lựa chọn
đúng đắn và hợp lí nhất. Hành động đó không phải là giết người trong vô thức, cũng
không phải là vụ giết người cướp của của gã Chí Phèo lưu manh thực hiện mà đó là
hành động của sự thức tỉnh về quyền sống, quyền làm người của nông dân khi đã bị
dồn nén quá mức uất ức vùng lên.
Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết dân làng kéo nhau đến
xem có biết bao lời bàn tán, trong đó cũng có thị tới, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và
“thấy thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại”. Phải
chăng vẫn cứ quẩn quanh trong sự tồn tại ấy, nếu chế độ xã hội không thay đổi thì hết
Chí Phèo bố sẽ có Chí Phèo con và còn biết bao nhiêu thằng như Chí Phèo, Năm Thọ,
Binh Chức rồi cũng sẽ xuất hiện “tre già măng mọc” thể hiện cho quy luật xã hội “Ở
đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo mà nhà văn khắc họa trong tác phẩm toát lên giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Một mặt vừa phê phán, lên án tố cáo xã hội
phong kiến nửa thuộc địa tàn ác, dã man đã nhẫn tâm đẩy người nông dân vào đường
cùng, bị dồn nén xuống tận đáy của xã hội. Một mặt cảm thương, xót xa cho số phận
người nông dân nghèo. Đồng thời Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện và
khao khát hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người không có thế lực tàn
bạo nào có thể hủy diệt nó, ngay cả khi con người ta bị tha hóa, bị đẩy vào con đường
lưu manh thì bản tính ấy chỉ tạm thời bị lắng xuống chứ không bị mất đi, nó như ngọn
lửa cháy âm ỉ dưới lớp tro tàn nguội lạnh chỉ cần gặp được ngọn gió tình người ấm áp
sẽ lại bùng cháy một cách mãnh liệt.
Nam Cao cũng viết về đề tài người nông dân như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và
bao nhà văn hiện thực khác nhưng ông không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt
ruộng đất, nạn tô tức… mà chủ yếu đi vào khai thác cuộc sống của người nông dân
nghèo bị bạo lực, bị xã hội phi nhân tính tàn phá về tâm hồn và nhân cách. Truyện
ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác, tác phẩm có giá trị đóng góp cho bộ mặt của người
nông dân vào trong kho tàng văn học dân tộc. Dù trang văn đã khép lại bấy lâu nhưng
người đọc vẫn nghe văng vẳng đâu đó tiếng kêu đòi làm người lương thiện của anh
Chí và ám ảnh bởi chi tiết hắn giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi, mắt trợn
ngược, mồm ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng.
Chí Phèo phân tích - Mẫu 5
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội
phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh
người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có
thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện
nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam
Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một
loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn
chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi
hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt
đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân,
đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, Chí Phèo về làng, trở thành một con
người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo,
như phản ánh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất
hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”.
Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí
Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi
bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê
chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà
Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí
Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây
chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình
tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự
khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống
truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở
xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng
cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vệt sáng trong cuộc
đời tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với
Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo
hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những
người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến
người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau
ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra
cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị
ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi
bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng
những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự
tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã
khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu
ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí
phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con
người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân
trong xã hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình
như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc
tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày
đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự
tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một
bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người
nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là
một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông
dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay
thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng
người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ
nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi
hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống
đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà
Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông
dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra
thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì
trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cong cớn, hai mắt gườm gườm
[…]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm
chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người
nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị
tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.
Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở
thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm
chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế,
những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn
tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa
bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.
Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa
hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với
cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn,
ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy,
hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết
mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu
hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính
mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô
nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm
một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.
Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực
xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là
cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa.
Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mâu thuẫn xã hội
sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị
mâu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển
hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân
dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính
cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối
nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn
ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”,
“chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại
vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần
đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào
không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi
dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.
Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại
lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp.
Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy
mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt
nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây
dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số
phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất
công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người.
Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà
Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần
giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù
của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của
người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo trạng đanh thép đối
với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực
nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thức
tỉnh lương tri của con người.
Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui
vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi
già, đói rét, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại
mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời
trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn
nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một
cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng
yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao
khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.
“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị
Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu
một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác,
cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng
cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để
qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương
thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí
Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không
thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã
bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm
sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà
trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được
kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính
mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt.
Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên
tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm
người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất
công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp
cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng
vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực
dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 - 1951), một ngòi bút bậc
thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khiễng của kẻ say rượu vừa đi
vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những
đứa không chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể về
lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ
hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến
năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Bá Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba
vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bá Kiến cho người bắt Chí
giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá
Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành
hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất
hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào
nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ
đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù
lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có
mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dụng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50
đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho
vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi.
Cũng bắt đầu từ đây, Chí trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của
Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng
không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai
ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp
lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là
người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ
tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm
một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền
lành thời trai trẻ bỗng thức dậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị
cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được
bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn
chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí
Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi
Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó",
tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân thật của Chí cứ thế đến nhà
Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh
say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, bao kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có
lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép
lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò
gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”.
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn
nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm
vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có
thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân
vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá
Kiến, Thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ thuật xây
dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của
truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam
trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu
xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được
nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng
tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bồi thêm
bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng
tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò
gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng
để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình
có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điều này gì nếu không phải là khả năng tái
sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ
còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt
vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi
trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành phần lời trần thuật được xáo trộn,
lắp ghép, đan xen không tuân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu
bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu
hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử
một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã
đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của
nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn
soi quét, lách sâu vào thế giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy
chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở
đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như
thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn
cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách
tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có
nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ
nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội
dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
Vấn đề số phận con người, về những bi kịch đày đọa đến cùng cực đã trở thành một
đề tài quen thuộc trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Với ngòi bút phản ánh
hiện thực sâu sắc, khai thác tấn bi kịch tinh thần của những kiếp đời “chết ngay trong
lúc sống”, Nam Cao đã để lại cho người đời sau những kiệt tác như Đời thừa, Sống
mòn, Một bữa no... Trong đó, không thể nào không nhắc đến “Chí Phèo” – một sáng
tác được xem là kết tinh của thực trạng nhân phẩm bị hủy hoại đến tàn khốc, của nỗi
đau khôn nguôi ở kiếp người.
Về nội dung, Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng xoay quanh cuộc đời của một nhân vật
chính cùng tên. Toàn bộ tác phẩm khắc họa quá trình tha hóa nhân phẩm, quá trình
trượt dài lương thiện của Chí. Xuất phát điểm là một anh nông dân hiền lành, chỉ biết
cuốc mướn làm thuê với ước mơ giản dị: “Hình như một thời hắn đã ao ước có một
gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Rồi dưới xã hội “quần
ngư tranh thực” ấy, anh nông dân kia rơi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa để trở
thành một tên chuyên rạch mặt ăn vạ, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nam Cao đã
chú trọng phơi bày mâu thuẫn giai cấp, phơi bày bộ mặt kinh tởm của những người đã
gây ra cho đời một thung lũng đau thương nhuộm đầy máu và nước mắt. Lí Kiến là
“một con hổ biết cười”, một con rắn đầy nọc độc, bản chất thối tha, dâm đãng, háo sắc,
thủ đoạn mưu mô “mềm nắn, rắn buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố
cùng liều thân”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”…
Ta thấy ở tác phẩm, thông qua việc khắc họa nhân vật, đặc biệt là Chí Phèo, Nam Cao
đã thể hiện được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Chí Phèo là đại diện tiêu
biểu cho hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật này được
xây dựng trên những đặc điểm tính cách tiêu biểu: hiền lành, thật thà; chăm chỉ, cần
cù; thiết tha lương thiện nhưng cuối cùng lại bị cự tuyệt quyền làm người một cách
đau đớn. Chí ngật ngưỡng bước ra trang sách bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”,
bằng bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ để phải cam
chịu cảnh tủi nhục “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác,
năm hai mươi tuổi thì làm canh điển cho nhà Bá Kiến”, bằng những lần rạch mặt ăn
vạ… để rồi nhờ Thị mà thức tỉnh và cũng chính sự thức tỉnh ấy dẫn đến hành động trả
thù, đem đến một kết quả thương tâm: Ý thức lương thiện trỗi dậy trong hoàn cảnh bi
kịch và khi ý thức ấy hồi sinh mạnh mẽ thì sinh mạng con người phải mất đi.
Sự kiện có tính chất tạo và chuyển biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo là sự xuất hiện
của Thị Nở. Tuy nhiên, Nam Cao không miêu tả sự xuất hiện ấy một cách ngọt ngào
cũng không ưu ái cho cuộc tình kia một cái cục đẹp, một giấc mơ hạnh phúc đền trả
cho những con người bất hạnh. Nam Cao lạnh lùng và dửng dưng với tất cả “Nam Cao
lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc”, tuy thế nhưng “thật
ra mặt anh lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”, do đó, cuộc tình của họ được xem là một
trong những cuộc tình đẹp nhất trong văn học Việt Nam, không chỉ tình yêu mà còn là
tình người. Sau một đêm ở vườn chuối và được Thị Nở - một người đàn bà xấu xí và
gàn dở chăm sóc, Chí Phèo đã nghe lương tri trỗi dậy từ bên trong. Từ một thằng săng
đá, “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơn cơn, hai
con mắt gườm gườm trông gớm chết”, hắn đã thấy được những hình ảnh đầu tiên,
những âm thanh đầu tiên của cuộc đời của một con người – một con người thực sự.
Đó là hình ảnh mặt trời bên ngoài, là tia nắng rực rỡ, là tiếng chim hót ngoài kia vui
vẻ quá, là tiếng cười nói của những người đi chợ, là tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá… Chao ôi bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu thanh âm thường hằng của cuộc
sống mà đến giờ anh mới thấy, mới nghe, mới nhận ra “bởi vì chưa bao giờ anh hết
say”. Hắn đã tư lự giật mình về quá khứ, hiện tại và tương lai của chính mình:
“Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó phía sau quá khứ rợn người”
Bát cháo hành có lẽ là một trong những chi tiết nổi bật nhất trong truyện ngắn. Đúng
như Pautopxki đã từng nói: “Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm”. Với ba lần xuất
hiện, bát cháo hành đã thực hiện ngoạn mục cú lội ngược dòng cho nhân cách Chí
Phèo, từ một tên lưu manh bị tha hóa trở về con đường thèm khát lương thiện, thèm
khát hạnh phúc đời thường. Lần đầu tiên cầm bát cháo hành trên tay, hắn đã thấy mắt
mình hình như ươn ướt bởi “xưa nay nào có ai tự nhiên cho hắn cái gì”, hắn phải dọa
nạt, phải giật cướp, phải làm cho người ta khiếp sợ. Đấy là bát cháo là của tình thương,
của tình người, của một kẻ gàn dở duy nhất không chối từ hắn ở cái làng Vũ Đại kia.
Tương tự ở Đời thừa, nếu như ấm nước còn ấm của Từ thức tỉnh Hộ thì ở đây, bát
cháo hành đã làm thay đổi kiếp sống của Chí Phèo. Lần thứ hai là sau khi hắn bị Thị
Nở từ chối, bị định kiến xã hội chà đạp, hắn ngẩn người ra và đã ngửi thấy hương
cháo hành. Lần thứ ba thoang thoảng thấy hương cháo hành là ngay sau đó, khi Thị
chì chiết và bỏ đi, hắn ngay lập tức đã muốn giết cả gia đình nhà “con đĩ Nở” kia.
Nhưng Chí đã không làm vậy, Chí đã gục đầu vào men rượu, uống cho tới say mèm đi
và ôm mặt khóc rưng rức, nhưng lạ là hơi rượu không sặc sụa mà chỉ có hương cháo
hành thoảng qua. Qua đó ta thấy, bát cháo hành là liều thuốc đã cứu rỗi lấy lương tâm
quỷ dữ, dù cho sự thức tỉnh về sau phải dẫn tới những cái chết tàn khốc không kém.
Chí đã thực sự tỉnh táo, thực sự nhận ra những mất mát đau đớn: mất người tình, mất
cơ hội duy nhất để trở về cuộc sống lương thiện. Một kẻ tưởng như phải sống trọn đời
là quỷ dữ, chỉ cần nhờ một bát cháo hành nhỏ nhoi, một hương cháo hành ấm áp đã có
thể quay về khao khát bản tính con người mới đủ thấy, sức cảm hóa của tình thương lớn đến nhường nào.
Một chi tiết khác quan trọng không kém đó là cái lò gạch cũ – một địa điểm ghi dấu
những thân phận bi kịch như lời nguyền của số phận. Là nơi bắt đầu cuộc đời bị
khước từ của Chí Phèo cũng là nơi hứa hẹn một cuộc đời khác, một thằng Chí Phèo
con với cuộc đời bị bóp nát chẳng kém khi hình ảnh cái lò gạch cũ chợt hiện ra trong
đầu thị: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và
vắng người lại qua…” Chí Phèo sau khi thức tỉnh thực sự, sau khi nhận ra kẻ đã dồn
đẩy mình vào đường cùng của sự sống, khiến hắn mất mát cả nhân hình lẫn nhân tính
đã đến nhà Bá Kiến đòi lại món nợ “lương thiện”. Câu hỏi day dẳng: “Ai cho tao
lương thiện?” có lẽ sẽ ám ảnh người đọc muôn đời. Giết chết Bá Kiến chính là sự giải
thoát cho bản thân. Tự vẫn chính là hành động để hắn cứu lấy chính mình. Nhưng đến
khi con người ấy chết đi, xã hội vẫn loại bỏ hắn đến cùng. Người ta vui mừng trước
cái chết của tên Bá Kiến và thằng Chí Phèo. Đau đớn đến thế là cùng! Một thảm kịch
tang thương kết thúc cho một số phận bùn nhơ. Thảm kịch ấy kết thúc một đời người
nhưng nỗi đau giai cấp vẫn còn được tái hiện trong những sáng tác khác của Nam Cao.
Cái chết của Lão Hạc còn được người ta xót thương, tiền đồ tối tăm của chị Dậu còn
khiến cho bao giọt nước mắt mặn đắng xót xa rơi xuống còn cái chết của Chí Phèo
chung cục chỉ đổi lấy sự hả hê, mỉa mai của dân làng Vũ Đại.
Chí Phèo là tác phẩm chẳng những thành công trên cả phương diện nội dung đã nói ở
trên mà còn nổi bật trên phương diện nghệ thuật. Ngôn từ sắc, lạnh trong khắc họa
nhân vật nhưng ấp ủ bên trong là một trái tim ấm, nóng luôn sôi sục yêu thương đã thể
hiện được sự đa chiều trong tính cách nhân vật. Lối kể chuyện hấp dẫn, để cho nhân
vật thản nhiên bước vào bằng những tiếng chửi chớ không phải bằng sự dàn dựng
truyền thống, giới thiệu chi tiết ban đầu đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc.
Những chi tiết được chọn lọc, xây dựng kỹ lưỡng, khéo léo đã đi từ tác phẩm văn
chương vào hiện thực đời thường. Đặc biệt là kết cấu truyện vòng tròn – một điểm
sáng trong cách viết của cả một giai đoạn văn học đương thời.
Tóm lại, Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán
trước cách mạng tháng Tám. Đó là lời tố cáo xã hội đanh thép, là tiếng kêu thống thiết
cứu lấy nhân tính con người vẫn còn âm vang cho đến ngày nay:
“Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống
Nào có dài chi một kiếp người
Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách
Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai?
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực
dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 - 1951), một ngòi bút bậc
thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi
vừa chửi. Hắn chửi tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa
khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể về lai
lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ
hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến
năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba
vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bí Kiến cho người bắt Chí
giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá
Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xong ra hành
hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất
hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào
nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ
đó, khi nào hết tiền hắn ,lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù
lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có
mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50
đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho
vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi.
Cũng bắt đầu từ đây, Chí trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của
Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng
không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai
ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp
lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là
người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người điên trong cổ
tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm
một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền
lành thời trai trẻ bỗng thức dậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rôi Chí bị
cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được
bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn
chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí
Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mằng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi
Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, Khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó",
tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Những bước chân khật khưởng của Chí cứ thế
đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong
cơn tình say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có
lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép
lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò
gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn
nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm
vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có
thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân
vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá
Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ, thuật xây
dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của
truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam
trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu
xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được
nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng
tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm
bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng
tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò
gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng
để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình
có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái
sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ
còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt
vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi
trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phần lời trần thuật được xáo trộn,
lắp ghép, đan xen không tuân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu
bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu
hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử
một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã
đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của
nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn
soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy
chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở
đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như
thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn
cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách
tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có
nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ
nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội
dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.