Văn mẫu lớp 11: Thuyết minh về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí | Kết nối tri thức

Văn mẫu lớp 11: Thuyết minh về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí | Kết nối tri thức được trình bày khoa học, chi tiết qua đó giúp các bạn có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay và sáng tạo. Các bạn xem và tải về ở bên dưới.

Thuyết minh bài thơ Đọc tiểu Thanh kí
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một loạt bài viết về các nhân vật lịch sử mà ở đó nhà
thơ gửi gắm rất nhiều tâm sự. Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ
như thế. Bằng tiếng nói tri âm sâu sắc với một người con gái sống cách mình hơn 300
năm, Nguyễn Du muốn bày tỏ nhiều tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh
hiện tại và vượt thời gian, mang dự cảm của mình tới 300 năm sau để tìm tri âm.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân
đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên
Đường chủ nhân).
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng
về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ
Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai
thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh).
Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu
mực, cổ điển.
Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, tài hoa, nhan sắc nhưng phận bạc. Nàng sống
một cuộc đời ngắn ngủi đầy trái ngang. Di cảo còn sót lại của Tiểu Thanh với những
vần thơ bị đốt dở là bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy, mà người đa cảm như
Nguyễn Du khi đọc nó đã không thể cầm lòng. Nỗi “thổn thức” đã khiến thi nhân viết
nên những dòng tuyệt tác trong Đọc Tiểu Thanh kí.
Trước hết Độc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Nguyễn Du.
Bài thơ đã mở ra bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến thiên dâu bể của cuộc đời:
Tây$Hồ$cảnh$đẹp$hoá$$hoang.
Cảnh đẹp trước đây (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ xuất phát
từ một thành ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành
nương dâu). Dẫu biết rằng: sinh - hoá, trụ - diệt,... vốn là lẽ thường, vốn là quy luật sao
vẫn thấy có gì xót xa? Nhất là nơi ấy lại gắn với cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh,
một cuộc đời gợi bao nỗi cảm thương qua những vần thơ cháy dở.
Độc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai đã hé
mở: trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc, một mình viếng người đã khuất (độc điếu) qua một
tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại.
Người chết cô đơn mà người viếng cùng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau.
Câu thơ với cách nói hàm súc đã vượt qua thời gian và sinh tử để tri âm.
Hai câu thơ tiếp vươn rộng tới nhiều lớp nghĩa:
Son$phấn$$thần$chôn$vẫn$hận$
Văn$chương$không$mệnh$đốt$còn$vương.
“Son phấn” là biểu tượng của sắc đẹp, còn “văn chương” là bằng chứng của tài năng.
Cái đẹp, cái tài ở đời là bất tử, là không có số mệnh, vậy mà vẫn bị “liên tử hậu”, “lụy
phần dư”, vẫn luôn bị chà đạp phũ phàng, nghiệt ngã. Cuộc đời này quả là nhiều bất
công, ngang trái.
Hận cho số kiếp Tiểu Thanh, hận cho muôn đời, muôn người. Trong cái hận của Tiểu
Thanh có cái hận của muôn người và của bản thân nhà thơ. Thương người và thương
mình. Nỗi hận, nỗi đau thương ấy thật khó mà hỏi trời (Cổ kim hận sự thiên nan vấn)
đành ôm trọn vào lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ là một kết luận mang tính chất triết lí
thấm đẫm nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn tại sao
Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh mà lại da diết đến thế? Nguyễn Du khóc cho người cũng
là khóc cho mình đó thôi.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi niềm trăn trở, dự cảm nhói buốt, cứ day
cứa mãi vào tâm trạng người đọc các thế hệ:
Chẳng$biết$ba$trăm$năm$lẻ$nữa$
Người$đời$ai$khóc$Tố$Như$chăng$?
(Bất$tri$tam$bách$$niên$hậu$
Thiên$hạ$$nhân$khấp$Tố$Như?)
“Ba trăm năm lẻ” là một con số ước lệ chỉ mai sau khi nhà thơ đã chết cũng như hơn ba
trăm năm sau cái chết của Tiểu Thanh vậy. Mai sau liệu có ai khóc cho Tố Như, cùng
Tố Như khóc cho mỗi kiếp người dâu bể? Bài thơ với hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố
Như” ) đã hé mở một cái “tôi” đang cô đơn đến tột độ, một cái “tôi” tự thương, tự đau.
Nguyễn Du thương cho người xưa (quá khứ), thương cho mình và nhiều con người bất
hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho người sau phải khóc mình nữa
(tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc
về kiếp người.
Hãy cứ đọc trực tiếp bài thơ từ phiên âm chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu réo rắt đau
thương cố kìm, cố nén của nó ta sẽ chạm được phần nào tới tiếng lòng của thi nhân.
Bài thơ vượt lên cả những bản ai điếu thông thường bởi Nguyễn Du đâu chỉ viếng m
cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại
và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn cả đến hậu thế. Phải thật
tinh, thật sâu mới hiểu và cảm được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ bởi với thiên
tài của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc cao độ, mỗi từ đều có độ nén, sức
nặng và sức bật để tạo nên những cộng hưởng trong lòng người.
Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều thứ nhưng những bài thơ được chất ra từ máu và
nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được luyện bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du
chắc chắn thời gian càng giúp thi phẩm đứng vững trong lòng người.
| 1/3

Preview text:

Thuyết minh bài thơ Đọc tiểu Thanh kí
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một loạt bài viết về các nhân vật lịch sử mà ở đó nhà
thơ gửi gắm rất nhiều tâm sự. Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ
như thế. Bằng tiếng nói tri âm sâu sắc với một người con gái sống cách mình hơn 300
năm, Nguyễn Du muốn bày tỏ nhiều tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh
hiện tại và vượt thời gian, mang dự cảm của mình tới 300 năm sau để tìm tri âm.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân
đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng
về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ
Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai
thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh).
Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, tài hoa, nhan sắc nhưng phận bạc. Nàng sống
một cuộc đời ngắn ngủi đầy trái ngang. Di cảo còn sót lại của Tiểu Thanh với những
vần thơ bị đốt dở là bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy, mà người đa cảm như
Nguyễn Du khi đọc nó đã không thể cầm lòng. Nỗi “thổn thức” đã khiến thi nhân viết
nên những dòng tuyệt tác trong Đọc Tiểu Thanh kí.
Trước hết Độc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Nguyễn Du.
Bài thơ đã mở ra bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến thiên dâu bể của cuộc đời:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang.
Cảnh đẹp trước đây (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ xuất phát
từ một thành ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành
nương dâu). Dẫu biết rằng: sinh - hoá, trụ - diệt,... vốn là lẽ thường, vốn là quy luật sao
vẫn thấy có gì xót xa? Nhất là nơi ấy lại gắn với cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh,
một cuộc đời gợi bao nỗi cảm thương qua những vần thơ cháy dở.
Độc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai đã hé
mở: trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc, một mình viếng người đã khuất (độc điếu) qua một
tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại.
Người chết cô đơn mà người viếng cùng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau.
Câu thơ với cách nói hàm súc đã vượt qua thời gian và sinh tử để tri âm.
Hai câu thơ tiếp vươn rộng tới nhiều lớp nghĩa:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
“Son phấn” là biểu tượng của sắc đẹp, còn “văn chương” là bằng chứng của tài năng.
Cái đẹp, cái tài ở đời là bất tử, là không có số mệnh, vậy mà vẫn bị “liên tử hậu”, “lụy
phần dư”, vẫn luôn bị chà đạp phũ phàng, nghiệt ngã. Cuộc đời này quả là nhiều bất công, ngang trái.
Hận cho số kiếp Tiểu Thanh, hận cho muôn đời, muôn người. Trong cái hận của Tiểu
Thanh có cái hận của muôn người và của bản thân nhà thơ. Thương người và thương
mình. Nỗi hận, nỗi đau thương ấy thật khó mà hỏi trời (Cổ kim hận sự thiên nan vấn)
đành ôm trọn vào lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ là một kết luận mang tính chất triết lí
thấm đẫm nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn tại sao
Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh mà lại da diết đến thế? Nguyễn Du khóc cho người cũng
là khóc cho mình đó thôi.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi niềm trăn trở, dự cảm nhói buốt, cứ day
cứa mãi vào tâm trạng người đọc các thế hệ:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
“Ba trăm năm lẻ” là một con số ước lệ chỉ mai sau khi nhà thơ đã chết cũng như hơn ba
trăm năm sau cái chết của Tiểu Thanh vậy. Mai sau liệu có ai khóc cho Tố Như, cùng
Tố Như khóc cho mỗi kiếp người dâu bể? Bài thơ với hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố
Như” ) đã hé mở một cái “tôi” đang cô đơn đến tột độ, một cái “tôi” tự thương, tự đau.
Nguyễn Du thương cho người xưa (quá khứ), thương cho mình và nhiều con người bất
hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho người sau phải khóc mình nữa
(tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc về kiếp người.
Hãy cứ đọc trực tiếp bài thơ từ phiên âm chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu réo rắt đau
thương cố kìm, cố nén của nó ta sẽ chạm được phần nào tới tiếng lòng của thi nhân.
Bài thơ vượt lên cả những bản ai điếu thông thường bởi Nguyễn Du đâu chỉ viếng mộ
cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại
và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn cả đến hậu thế. Phải thật
tinh, thật sâu mới hiểu và cảm được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ bởi với thiên
tài của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc cao độ, mỗi từ đều có độ nén, sức
nặng và sức bật để tạo nên những cộng hưởng trong lòng người.
Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều thứ nhưng những bài thơ được chất ra từ máu và
nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được luyện bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du
chắc chắn thời gian càng giúp thi phẩm đứng vững trong lòng người.