-
Thông tin
-
Quiz
Văn mẫu lớp 8: Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Ông đồ - Ngữ văn 8
Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh ông đồ già trong thời kì hoàng kim và suy tàn của Nho học, từ đó bày tỏ mong muốn thế hệ sau hãy biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 8 255 tài liệu
Ngữ Văn 8 1.4 K tài liệu
Văn mẫu lớp 8: Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Ông đồ - Ngữ văn 8
Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh ông đồ già trong thời kì hoàng kim và suy tàn của Nho học, từ đó bày tỏ mong muốn thế hệ sau hãy biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!





Tài liệu khác của Ngữ Văn 8
Preview text:
Văn mẫu lớp 8: Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Ông đồ (8 mẫu)Bài
thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 1
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên đã đem đến cho em nhiều ấn tượng sâu sắc. Hình ảnh ông
đồ vốn rất quen thuộc trong xã hội xưa, vốn là những người có học thức, tài năng và được trọng
vọng. Nhưng trong xã hội hiện tại, ông đồ đang dần bị lãng quên. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh
ông đồ từ quá khứ đến hiện tại. Trong quá khứ, ông đồ xuất hiện trên phố với hoa đào, với mực
tàu giấy đỏ và viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/Như
phượng múa rồng bay” khiến mọi người xem tấm tắc khen ngợi: “Hoa tay thảo những nét/Như
phượng mùa rồng bay”. Đó là một thời vàng son khi ông đồ được trân trọng. Nhưng một thời
vàng son đã không còn, mỗi năm mỗi vắng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ nữa. Hình
ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của
chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Để rồi năm nay đào lại nở, nhưng không còn
thấy ông đồ nữa. Câu hỏi tu từ “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ” giống như một
lời than trách cho số phận. Bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ nhưng qua đó
toát lên niềm cảm thương trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của
nhà thơ. Khi đọc bài thơ, tôi cảm thấy thấu hiểu và trân trọng hơn về ông đồ.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 2
Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên đã để lại cho tôi nhiều suy tư. Hình ảnh ông đồ vốn rất đỗi
quen thuộc trong xã hội xưa, họ là những người có học thức, tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm
Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối. Ông viết câu đối
mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” khiến
người xem tấm tắc khen ngợi, trân trọng: “Hoa tay thảo những nét/Như phượng mùa rồng bay”.
Nhưng thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng không
có ai hay. Những vật dụng quen thuộc như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên
sầu” được tác giả nhân hóa nhằm gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được
biết đến. Ở cuối bài thơ, câu hỏi tu từ “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” giống
như một lời than trách cho số phận của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống.
Bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của “ông đồ”, từ đó toát lên niềm cảm thương chân
thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 3
Bài thơ Ông đồ là một bài thơ chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học
đã từng rất rực rỡ. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi ông đồ
còn được trọng dụng, Khi tết đến xuân về, hoa đào đua nhau khoe sắc thắm, phố phường đông
vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện bên hè phố bán đôi câu đối để mọi người trưng trong nhà như
một văn hóa không thể thiếu ngày đầu năm mới. Những nét chữ thanh thoát như phượng múa
rồng bay, gửi gắm cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng, theo thời gian, phong tục treo
câu đối ngày tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như nốt trầm trong khúc ca ngày xuân,
cho thấy sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm xưa nay đã là khách
qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình đem lại chút vui cho
mọi người trong dịp tết đến xuân về nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người khiến những vật
vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn
với nét đẹp truyền thống về nền văn hóa nho học, nay dần bị lãng quên “Lá vàng bay trên
giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đấy nhưng chẳng mấy ai còn để ý, lá vàng rơi giữa
ngày xuân trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Hạt mưa bụi nhạt nhòa
bay trong cái se lạnh như khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần trôi vào dĩ vãng. Ta
như cảm nhận được qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất một nỗi xót thương, nỗi
niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ cho một thời đã qua. Và câu hỏi cuối bài thơ như lời tự vấn
cũng là hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở
đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ khép lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai
một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm của lòng
người, để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 4
của ông đồ đã in sâu vào tâm trí Vũ Đình Liên và hiện hình thành bức tranh thơ giản dị mà sinh
động. Trong khổ đầu, cặp từ “mỗi…lại” xuất hiện tuần hoàn, song hành cho ta thấy sự lặp đi lặp
lại đã trở thành nếp, thành quy luật quen thuộc. Hoa đào từ lâu đã trở thành sứ giả báo tin xuân.
Bởi vậy nói “hoa đào nở” cũng là nhắc ta cái thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ và
năm mới đang đến gần. Cứ khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu, giấy đỏ
bên phố nhộn nhịp người đi lại sắm tết. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm
một góc nhỏ thôi “trên phố” nhưng trong bức tranh thơ này, ông đồ lại trở thành tâm điểm. điềm
đạm và lặng lẽ, ông đồ hoà nhập vào sự náo nức, rộn ràng của cuộc đời bằng chính những cái
quý giá nhất mà ông có. Một bức tranh ngày tết mà ông đồ chính là trung tâm. Đoạn thơ giới
thiệu được trọn vẹn không gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện tiếp tục ở những
khổ thơ sau: “Bao nhiêu người thuê viết/Tấm tắc ngợi khen tài/Hoa tay thảo những nét/Như
phượng múa rồng bay”. Từ phố đông, không gian được thu hẹp lại quanh chỗ ông đồ ngồi viết
chữ. Câu thơ ấm ran sự sống bởi từ chỉ số lượng có tính chất phiếm định “bao nhiêu” và tính từ
“tấm tắc” biểu đạt sự thán phục, ngợi ca, trân trọng. Thời gian được tính bằng hoa đào nở y tín
hiệu báo xuân, sắc màu được dệt nên bởi sắc đào tươi thắm, giấy đỏ rực rỡ, nhịp sống được tính
bằng phố đông người qua, tình cảm của người đời được biểu hiện bằng hình ảnh: “Bao nhiêu
người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài”. Nổi bật trên phông nền rực rỡ, tươi vui đó là chân dung
ông đồ, người nghệ sĩ trong niềm thán phục, ngưỡng mộ của mọi người. Hoa đào đến đây đã
nhường chỗ cho hoa tay y bàn tay tài hoa của ông đồ đưa đến đâu mà như gấm hoa nở ra đến đó.
Nét chữ từ bàn tay như có phép tiên của ông được so sánh như phượng múa rồng bay. Đây là
hình ảnh so sánh đẹp, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa trong ngôn ngữ của Vũ Đình Liên gợi tả
nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng mà cao nhã, có hồn như phượng múa, rồng bay.
Nét chữ ấy dường như cũng chấp chới bay lên giữa hào quang của trời xuân, của sắc đào tươi
thắm. Đây là một nét vẽ đẹp, ngợi ca ông đồ, một tài năng nghệ thuật.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 5
Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên quả thật rất sâu sắc. Ông đồ là những nhà nho, không đỗ đạt
cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học “chữ nghĩa thánh hiền”. Ông đã có những tháng ngày
đẹp, những kỉ niệm đẹp. Hoa đào nở tươi đẹp. Giấy đỏ đẹp, mực Tàu đen nhánh. Nét chữ bay
lượn tài hoa. Nhưng thời thế đã đổi thay. Hán học lụi tàn trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Xưa “phố đông người qua”, nay “mỗi năm mỗi vắng”. Xưa kia “Bao nhiêu người thuê viết”, bây
giờ “Người thuê viết nay đâu?”. Một câu hỏi cất lên nhiều ngơ ngác, cảm thương. Nỗi sầu, nỗi
tủi từ lòng ông đồ như làm cho mực khô và đọng lại trong "nghiên sấu", như làm cho giấy đỏ
nhạt nhòa “buồn không thắm”. Nỗi buồn từ lòng người thấm sâu, tỏa rộng vào không gian cảnh
vật. Khép lại bài thơ là một câu hỏi diễn tả một nỗi buồn trống vắng, thương tiếc, xót xa. Hoa
đào lại nở. Ông đồ già đi đâu về đâu. Thương ông đồ cũng là thương một lớp người đã vĩnh viễn
lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hóa lụi tàn dưới ách thống trị
của ngoại bang. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh
gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 6
Với giọng kể và lời thơ miêu tả hiện lên ảnh hình ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng cảnh vật quanh ông
đã khác xưa. Ông đồ bỗng trở nên đơn côi, lạc lõng đến tội nghiệp giữa cái xô bồ, ồn ào của nền
văn minh lạnh lùng kiểu đô thị dù ông vẫn muốn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đấy, ông vẫn
kiên gan bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi, lạc bước. Giấy đỏ, nghiên mực, hành trang gắn liền
với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ, ủ ê trong nỗi buồn ế
khách của ông đồ.Giấy bẽ bàng, buồn tủi, đỏ mà cứ phai dần, nhạt nhẽo không thắm lên được,
mực không được bút lòng chấm vào, mực cũng đọng lại như giọt lệ khóc. Với thủ pháp nhân hóa
giàu sức gợi, Vũ Đình Liên đã diễn tả thật tinh tế nỗi buồn không nói không cất lên được, từ lòng
người đã thấm cả vào những vật vô tri khiến mực tàu, giấy đỏ cùng trĩu nặng nỗi buồn.Người
buồn, cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên nghiên mực, giấy đỏ mà
còn lan tỏa, mênh mang khắp không gian, khiến bức tranh xuân năm ấy mang gam màu xám
lạnh, u buồn. Lá vàng rơi không nghe tiếng, mưa bụi bay không ướt áo ai, mà nghe như có từng
thu chết, từng thu chết cuốn ra đi theo hình bóng một lớp người. Quá khứ vàng son của ông đồ
nay đâu còn nữa. Ông và những người như ông dường như đang lỡ nhịp, lạc bước giữa mênh
mông, gió cuốn, sóng xô của cơn bão táp đô thị hóa. Ông chỉ là cái bóng vô hồn, tiều tụy đáng
thương của một thời tàn.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 7
Năm nay đào lại nở, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng người ta đã không còn thấy ông đồ già, mà
nay ông đồ xưa ông đã nhập vào những người muôn năm cũ, ông đã thuộc về những gì quá khứ
xa xôi, chỉ còn vương vấn hồn ở đâu bây giờ. Với kiểu kết cấu đầu cuối vô cùng độc đáo như đã
liên kết hai mảng thời gian quá khứ và hiện tại lại với nhau vô cùng tinh tế. Hình ảnh ông đồ cứ
mờ dần, mờ dần rồi mất hút trên con đường vô tận của thời gian. Chính vì thế hai câu kết khép
lại bài thơ giống như tiếng gọi hồn cất lên thăm thẳm, day dứt: "Những người muôn năm cũ
/Hồn ở đâu bây giờ?". Ông đồ không còn nhưng hồn có nghĩa là linh hồn ông vẫn còn phảng
phất đâu đây. Hồn, cách gọi đến chính xác lạ lùng những gì đã qua không thể mất, hồn là bất tử
vì thác là thể phách, còn là tinh anh. Hồn có lẽ cũng có thể hiểu là vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hoá
Việt chỉ có thăng trầm chứ không bao giờ mất.
Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Ông đồ - Mẫu 8
Bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên đã mang đến cho em những rung cảm sâu sắc. Với
hai khổ thơ đầu, trong không khí hân hoan, vui tươi của Tết, ông Đồ xuất hiện với “mực tàu, giấy
đỏ”. Mỗi khi hoa đào nở, người đi chơi xuân lại thấy hình bóng ông đồ già viết câu đối. Họ
thưởng thức và tấm tắc khen ngợi những nét chữ “như phượng bay, rồng múa” của ông. Tuy
nhiên, thời Nho học ngày một suy tàn khiến người ta dần lãng quên hình bóng ông đồ già ngồi
trên phố với "giấy đỏ", với "nghiên mực". Hình bóng của ông hiện lên thật cô đơn, buồn tủi trong
tiết trời lạnh lẽo, ảm đạm "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay". Đối lập khung cảnh
tươi vui, náo nhiệt ở hai khổ thơ đầu, hai khổ thơ sau đã cho ta thấy những xót thương của tác giả
trước cảnh ông đồ tài năng nhưng lại lẻ loi, đìu hiu "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai
hay". Thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi. Mùa xuân đến trong sắc hồng của hoa đào nhưng lại thiếu
vắng hình bóng thân thuộc xưa kia. Câu hỏi tu từ cuối bài thơ như một lời đau xót trước số phận,
cuộc đời của ông đồ, cho những giá trị Nho học đang dần mai một. Với ngôn ngữ trong sáng,
nhịp điệu linh hoạt cùng các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh đã mang đến cho người đọc
những cảm xúc sâu lắng về một thế hệ tài hoa không được coi trọng do thời thế thay đổi. Bài thơ
đã khắc họa thành công hình ảnh ông đồ già trong thời kì hoàng kim và suy tàn của Nho học, từ
đó bày tỏ mong muốn thế hệ sau hãy biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.