Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du của Ru-xô
hay nhất
Dàn ý phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Đi bộ ngao du” trích trong “Ê-min hay Về
giáo dục” của nhà văn, nhà triết học, nhà hoạt động hội Pháp - Ru-xô
Khái quát nội dung đoạn trích: Đoạn trích sự chia sẻ của chính tác giả
về cuộc sống với những lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
II. Thân bài:
Luận điểm 1: Đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn:
- Theo tác giả, lợi ích đầu tiên của việc đi bộ ngao du, đó được đi một cách tự do,
theo sở thích của bản thân mình không phải lệ thuộc, phụ thuộc vào ai, bất
điều gì.
“Thích dừng lúc nào thì dừng…muốn hoạt động nhiều ít thế nào tùy”.
“Quan sát khắp nơi”.
Đi bất cứ đâu mình thích.
“Chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay xe trạm…”.
Những dẫn chứng, luận cứ được đưa ra lần lượt, logic, ràng, không rườm rà,
lòng vòng.
Đi bộ ngao du giúp ta thể thoải mái, tự do điều khiển mọi thứ theo sở thích của
mình, tự do thưởng ngoạn bất kỳ nơi nào ta thấy hứng thú. Chính điều đó sẽ
khiến ta trưởng thành hơn, chín chắn hơn nhìn mọi thứ xung quanh một cách
toàn diện, chủ quan.
Luận điểm 2: Đi bộ ngao du giúp đầu óc linh hoạt hơn, sáng suốt hơn:
Tác giả đưa ra những “nhân chứng” thật, đó các nhà khoa học,
bác học nổi tiếng như Ta-lét, Pla-tông, Pi-ta-go.
Một loạt câu hỏi được đặt ra để khẳng định kiến thức thực tế giá trị
hơn nhiều những đồ đạc trưng bày trong một căn phòng kín những
con người bảo thủ vẫn gọi “phòng sưu tập”. Qua đó khích lệ mọi
người mở mang kiến thức thực tế, tăng cường trải nghiệm, kỹ năng
bằng cách đi bộ ngao du.
Tiếp tục đưa ra những dẫn chứng xác thực, mang tính thuyết phục cao, tác giả
một lần nữa khẳng định lợi ích của việc đi bộ ngao du so với học hành trên sách vở
giáo điều trong khía cạnh tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học cuộc sống.
Luận điểm 3: Đi bộ ngao du không chỉ làm con người mở mang đầu óc còn giúp
tinh thần sảng khoái, vui vẻ:
- Để chứng minh luận điểm này, tác giả đã dùng phép so sánh:
Những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt - những người đi bộ, kết quả “mơ
màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ” - “vui vẻ, khoan khoái hài
lòng với tất cả”.
Đi bộ ngao du khi trở về nghiễm nhiên mọi thứ tưởng như cùng bình
thường, giản dị lại khiến ta cảm thấy nhớ thương, thích thú hài lòng.
- Một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng của chính tác giả: “hân hoan biết
bao”, “ngon lành thế!”, “thích thú biết bao”, “ngủ ngon giấc biết bao”. Tâm trạng của
tác giả nhưng lại dùng ngôi kể “ta” vừa thể hiện cái nhìn chủ quan, vừa ý nghĩa
như một lời khuyên, một trải nghiệm đầy thú vị “tôi” muốn chia sẻ cho tất cả mọi
người.
Luận điểm 4: Nghệ thuật:
Lập luận chặt chẽ, sức thuyết phục, lẽ sinh động kết hợp với thực
tiễn kinh nghiệm tác giả đã tích lũy được.
Sự linh hoạt trong ngôi kể, khi “tôi”, khi “ta” càng làm tăng sức thuyết
phục cho bài viết.
Giọng điệu nhẹ nhàng, pha chút hóm hỉnh, không khô khan như tâm
sự, hồi tưởng.
III. Kết bài:
Như vậy, qua đoạn trích, chúng ta thấy Ru-xô một con người giản dị,
quý trọng tự do yêu thiên nhiên.
Đây một lối sống đẹp chúng ta cần phải học hỏi.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 1
Ru-xô một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông rất nhiều tác phẩm
hay làm say độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của
ông ta thể kể tên, đó chính tác phẩm "Ê- min hay về giáo dục". Cuốn tiểu
thuyết này nội dung bàn về chuyện giáo dục một em tên Ê- min, nhà văn đã
tưởng tượng đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương
trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này "Đi bộ
ngao du".
Trong trích đoạn "Đi bộ ngao du", nhà văn Ru-xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ,
cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương
tiện khác. Trước hết, đi bộ thể đi mọi nơi ta mong muốn, không phải lệ thuộc
vào ai, vào phương tiện gì: " Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng,
ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào tùy". Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta
được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính lợi
ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. đã ngao du thì yếu tố chủ động phải được
đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức
khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những phu trạm.
Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất cái gì, ta được tự
do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: " Ta quan
sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những thấy hay hay;
ta dừng lại tất cả các khía cạnh...." . quan trọng nhất không bị lệ thuộc: "Tôi
chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những phu trạm. Đi bộ ngao du
ta sẽ hội khám phá những điều mới mẻ, thể tự tìm cho mình những con
đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách:
"Tôi chẳng cần chọn những lối đi sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua
bất cứ nơi nào con người thể đi qua; tôi xem tất cả những con người thể
xem...."
Đi bộ ngao du thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại
thể dùng ngựa: " Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được thấy chán rồi, lúc đó tôi đi
ngựa" tuy nhiên, đó chỉ suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu
Ê min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ
tìm một thứ đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân
được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại thể tiếp tục
chuyến hành trình của mình: "...Ở chốn nào em cũng thứ để giải trí. Em vào nhà
một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi".
Luận điểm thứ hai nhà văn Ru-xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao
du sáng suốt, hữu ích. Đó chính thông qua việc đi bộ thì ta thể hội để
trau dồi những vốn tri thức vốn hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó
những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta lét, Pla- tông Pi- ta- go. Họ
đều những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi
bộ, họ phát hiện ra nhiều điều thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm
đại. Đi bộ ngao du, vừa để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên
thông qua vùng đất mình đi qua, ta thể thêm cho mình những kinh nghiệm,
học hỏi thêm được nhiều thứ thú, ích phù hợp với những vấn đề mình quan
tâm.
Ê- min nhờ vào việc đi bộ những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay
ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập: "Nhưng phòng sưu tập của
Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy cả
trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm
sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy..."
Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các
bắp trên thể dịp phát triển, từ đó sức khỏe của con người cũng thể
được cải thiện: " sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ", hòa mình vào
trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó
yêu đời luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày
cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán
nghĩa.
Như vậy, đoạn trích "Đi bộ ngao du" của nhà văn Ru-xô đã đưa ra những luận điểm
chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này
hết sức chặt chẽ, sức thuyết phục lại những dẫn chứng cụ thể, sinh động
trong thực tiễn, dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích
này ta cũng thấy được Ru-xô còn một nhà văn giản dị, quý trọng tự do yêu
thiên nhiên.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 2
Đi bộ ngao du một văn bản mang tính chất nghị luận, được trích trong tiểu thuyết
Ê-min hay về giáo dục. Tác phẩm được coi thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung
đề cập đến việc giáo dục một em từ khi mới ra đời cho đến lúc lớn khôn. Đoạn
trích Đi bộ ngao du (Ngữ văn 8 Tập 2) đã chứng minh rất muốn ngao du thì phải
đi bộ. Đồng thời bằng thực tiễn cuộc sống tác giả đã từng trải, kết hợp với lẽ,
hợp tình hợp lý, nhà văn đã làm nổi bật được lợi ích của việc đi bộ ngao du lại
không hề tốn kém về vật chất. Đúng như lời nhận định Đi bộ ngao du cái thú
không mất tiền.
Đi bộ ngao du không ngoài mục đích làm cho nhân vật được một chút thư giãn,
thanh thản cả đầu óc tâm hồn. Mở đầu phần chính một phát hiện bất ngờ,
nghe như đùa nhưng lại sự thật. Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú
vị hơn đi ngựa: đó đi bộ. Bởi nhờ đi bộ con người được giải phóng, được
tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt
hàng ngày người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tưởng.
một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người vừa tìm ra một chân
bất ngờ không mấy ai quan tâm, để ý. Đại từ ta”ở bài ý chỉ chủ thể được tự
do, tự do theo ý thích của mình, tự do hành động theo ý mình, chẳng phụ thuộc vào
ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người
được cởi trói khỏi những ràng buộc với xung quanh.
Còn cái tôi của nhà văn lúc này cả một thế giới tự do, được tháo cũi sổ lồng
tha hồ bay nhảy. Này nhé: về ý thích, ta ưa, ta muốn nhiều hay ít thế nào tùy,
về hành động cũng tha hồ như thế, nào ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất
cả những thấy hay hay; ta dừng lại tất cả mọi khía cạnh. Đó nhận thức.
cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chắp cánh bởi tự do. Cái duy nhất
lúc người viết phụ thuộc chính bản thân, một bản thân không còn vướng
cản, để tha hồ hưởng thụ tất cả tự do con người thể hưởng thụ. Cách lập
luận của đoạn văn rất chặt chẽ, kết hợp cả hai cách trình bày vừa song hành vừa
móc xích.
Song hành trong cách bộc lộ chủ thể tự do: Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc
nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào tùy…. Móc xích dưới hình thức
câu hỏi tự mình giải đáp: Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi theo men sông,
một khu rừng rậm ư, tôi đi vào dưới bóng cây…. Đưa ra những giả định Nếu tôi
mệt… nhưng Ê-min mệt lắm đâu; em to khỏe; sao em thể mệt được
chứ. Sự phân tích mình ra làm con người khác bằng cách hỏi đáp (cũng chỉ
con người ấy) tác dụng làm cho lời văn đa sắc thái sinh động hơn, không đơn
điệu, nghe như một tiếng reo thầm khi cần giãi bày, chia sẻ. Chính thế đoạn
văn đã cuốn hút người đọc, người nghe.
Đi bộ ngao du không những giúp con người ta được tự do, thoải mái, không phụ
thuộc vào ai, còn hội để cho con người trau dồi được tri thức một cách hồn
nhiên. Ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường, thiên nhiên qua cách đi bộ
ngao du, người ta tiếp cận một trường học lớn. Đó cả một kho tàng, những
kiến thức nông nghiệp về tự nhiên như những cơn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ
con người khao khát. Một câu hỏi đặt ra học bằng cách nào? Không còn cách
nào khác phải gần gũi thiên nhiên, hóa mình với thiên nhiên như Ta- lét, Pla-tông
Pi-ta-go, khó thể tin được rằng người yêu mến nông nghiệp chút ít lại
không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua cách
thức trồng trọt những đặc sản ấy?
Các cách học này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên
sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những hình tượng
trưng trong các phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học đã đành, khác xa với các
phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa.
Bởi cái họ tưởng đủ nhưng sự thật chỉ một nửa của sự thật thôi! Cái sự
thật của thiên nhiên phải phòng sưu tập của Ê-min. Bởi phòng sưu tập của
trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều được đặt đúng chỗ của nó. Các nhà tự nhiên học đã
thổi linh hồn vào cho nó.
Đi bộ ngao du còn cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Biết bao hứng thú khác
nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khỏe được tăng
cường, tính khí trở nên vui vẻ. Câu văn vừa chuyển ý vừa sắc thái tươi tắn như.
Nhờ đi bộ ngao du con người vốn già đi, nay trẻ lại, tâm trạng u buồn nay trở
nên vui vẻ. Đi bộ ngao du còn một liều thuốc bổ, một loại tiên dược diệu kỳ
nào tốn kém đâu? Để so sánh được hai hình thức ngao du: đi xe đi bộ nhà
văn không đặt mình vào trong các cuộc đi bộ ngao du đứng một góc nhìn quan
sát rất khách quan: Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm
nhưng màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn
vui vẻ, khoan khoái hài lòng với tất cả. Hai trạng thái ấy sự vận động hay
không vận động tạo ra?
Tiếp theo, bằng giọng điệu hân hoan, chủ quan, rất nhiều khả năng chia
sẻ đồng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ
nối tiếp bước kia thật đều đặn, thanh thản, cởi mở tươi tắn: Ta hân hoan biết bao
khi về gần đến nhà. Một bữa cơm đạm bạc sao vẻ ngon lành đến thế. Ta
thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái
giường tồi tàn. Một loạt các câu cảm thán với các điệp từ biết bao đã đẩy lùi sự
thiếu thốn của vật chất, nhường chỗ cho những khoan khoái tự thân thể tâm
hồn các cuộc đi bộ ngao du mang lại. Như vậy ta thể khẳng định rằng: Đi bộ
ngao du thế giới của trẻ mãi không già.
Cuối cùng bài văn khép lại: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta thể phóng bằng
xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết như vậy khéo,
thiết thực, vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không hơn
cũng không kém như thế. Phải chăng đó một ý tưởng khiêm nhường trước sự
khoa trương, ồn ào theo kiểu quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ giới hạn mục đích
chừng mực của thôi. Không thể tung trong tất cả các loại hành trình.
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận y dưới hình thức nói chơi. Tuy đùa
không bổ. Bài viết đã chứng minh cho ích lợi của việc đi bộ ngao du: cách
con người được giải phóng tự do; cách giúp cho con người trau dồi tri thức một
cách hồn nhiên đó cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe không cần phải
chi phí tốn kém. Đó chẳng phải cái thú không mất tiền sao?.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 3
Em vẫn hay tự hỏi rằng, sao thấy buổi sáng người ta không dành thêm thời
gian cho giấc ngủ của mình lại chọn cách dậy thật sớm để đi bộ. cho đến khi
đọc những trang văn của Ru-xô, một nhà triết học người Pháp, em mới thấm thía
hơn vai trò của việc đi bộ đối với đời sống mỗi người qua tác phẩm "Đi bộ ngao du"
Theo Ru -xô, việc đi bộ việc cùng thiết yếu với nhiều tác dụng mang lại lợi
ích lớn. Thứ nhất, đi bộ như một cách để ngao du không bị ràng buộc bởi ai
hay bất kỳ thứ khác. Đi bộ giúp ta tự do hơn trên cuộc hành trình của chính mình,
muốn nghỉ ngơi hay dừng chân chốn nào cũng được. Khi đi bộ thể sẽ trở nên
linh hoạt hơn, không bị giới hạn bởi điều cả, thể quan sát được khắp mọi nơi,
nhìn mọi vật một cách toàn diện. Đặc biệt, khi đi bộ giúp con người hưởng thụ mọi
điều, được giải trí mọi lúc chẳng biết mệt mỏi hay chán nản, mọi nơi đều
những nét thú vị riêng, một sức hút riêng thôi thúc sự tìm tòi :"Tôi nhìn thấy một
dòng sông ư, tôi đi men theo sông; một khi rừng ư, tôi đi vào dưới bóng cây; một
hang động ư, tôi đến thăm quan, một mỏ đá ư, tôi xem xét một khoáng sản.... Em
vào nhà một người thợ, em làm việc; em vận động hai cánh tay để cho bàn chân
nghỉ ngơi". Đi bộ như một sự rong chơi thoải mái nhất, đầy thú vị tiện ích nhất,
không một môn thể thao nào thể thay thế được.
Thứ hai, đi bộ chính cách giúp mở mang vốn trí thức, tầm hiểu biết của con
người. Tác giả khẳng định: "Đi bộ ngao du đi như Ta-lét, Pla-tông Pi-ta-go" tức
việc đi bộ không chỉ để ngao du phải mang lại cho ta tri thức phong phú, dồi
dào hơn, gắn với tự nhiên thực tiễn hơn. Không nhà khoa học nào không
đi bộ như một cách quan sát tỉ mỉ, khám phá bản chất của hiện tượng, của sự vật
trong thiên nhiên. "Ai người yêu mến nông nghiệp... không tìm các nguyên liệu
hoá thạch". Những hiểu biết về nông nghiệp, khoáng sản, cây trồng, hoa lá... đều
thông qua đi bộ để tìm hiểu, sưu tập.
Đi bộ cuộc hành trình giúp ta chiếm lĩnh vốn trí thức đầy thú vị mới lạ, cách
để khám phá tự nhiên cùng hữu hiệu, xác thực. Khác với các triết gia phòng
khách với những hiểu biết hời hợt, qua loa trên thuyết, thiếu ý niệm về tự nhiên thì
kẻ đi bộ sẽ đào sâu vào thực tiễn nhất, khám phá những tầng sâu bản chất nhất của
sự vật, bởi vậy ông tin rằng phòng sưu tập của Ê-min chính một trái đất
mọi vật đều được sắp xếp hợp nhất.
Thứ ba, điều thiết yếu nhất đi bộ mang lại cho con người sức khoẻ - nhân tố
cùng quan trọng trong sự sống con người. Đồng thời, giúp tinh thần trở nên phấn
chấn vui vẻ cùng không một phương tiện nào thể mang lại được. Khác
xa với vẻ cáu kỉnh, buồn đơn của những kẻ quyền cao ngồi trong xe ngựa êm
kia thì đi bộ giúp cho con người thư giãn, bữa cơm ngon lành hơn, giấc ngủ ngon
sâu hơn. Tất thảy, giúp ta rất nhiều trong rèn luyện sức khỏe nuôi dưỡng tinh
thần thoải mái mỗi ngày.
Ru-xô bằng ngòi bút duy, kinh nghiệm của mình đã đưa ra những quan điểm
đúng đắn với lập luận chặt chẽ, những hình ảnh dẫn chứng cùng sinh động,
thuyết phục gắn với thực tế cuộc sống, giọng điệu tự nhiên,gần gũi đã cho thấy
được điều thiết yếu của việc đi bộ ngao du. Học xong bài học, ta thấy một tâm hồn
yêu tự do khao khát khám phá tự nhiên của tác giả.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 4
Giăng Giắc Ru-xô (Jean-Jacques Rousseau, 1712 - 1778) nhà văn Pháp nổi tiếng
thế kỉ XVIII. Ông sinh ra trong một gia đình,nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ. Mồ côi
mẹ sớm nên ông chỉ được đi học từ năm mười hai đến năm mười bốn tuổi, sau đó
rời gia đình, lang thang nhiều nơi, trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhờ thông
minh, năng khiếu bẩm sinh chịu khó học hỏi, Ru-xô đã trở thành nhà triết học,
nhà văn tên tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Luận về khoa học nghệ
thuật (1750), Luận về sự bất bình đẳng (1755), tiểu thuyết Giuy-ly hay nàng
Hê-lôi-dơ mới (1761), tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục (1762), Những mộng
của một người dạo chơi độc (1777 - 1778)…
Luận điểm triết học Ru-xô hay bàn tới sự đối lập giữa con người tự nhiên
con người hội. Theo ông, con người sinh ra vốn lương thiện, tự do sung
sướng, nhưng hội phong kiến đã biến con người thành độc ác, lệ khổ cực.
Triều đình phong kiến Pháp thế kỉ XVIII thẳng tay đàn áp những tưởng tiến bộ
của Ru-xô, ông bị truy khắp nơi. Mười một năm sau khi ông qua đời, cách mạng
sản 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến suy tàn tồn tại lâu đời. tưởng dân chủ
tiến bộ của Ru-xô được đánh giá rất cao. Tượng bán thân Ru-xô được chính phủ
Cách mạng sản Pháp trân trọng đặt trong phòng họp của Quốc hội.
Ê-min hay về giáo dục một thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung đề cập đến
phương pháp giáo dục một con người từ khi mới ra đời cho đến lúc trưởng thành.
Nhà văn đặt tên cho nhân vật Ê-min thầy giáo đảm nhiệm công việc giáo dục
chính ông. Tác phẩm chia thành năm quyển, tương ứng với năm giai đoạn liên
tiếp của quá trình giáo dục.
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Ê-min mới ra đời cho đến khoảng hai, ba tuổi.
Nhiệm vụ của người giáo dục làm sao cho thể em được phát triển tự nhiên.
Giai đoạn thứ hai từ khi Ê-min lên bốn, lên năm cho đến mười hai tuổi. Đây giai
đoạn giáo dục cho em một số nhận thức bước đầu bằng hình thức giáo dục nhẹ
nhàng, không bó. Tiếp theo giai đoạn thứ ba kéo dài khoảng ba năm, Ê-min sẽ
được trang bị những kiến thức khoa học hữu ích, nhưng không phải kiến thức
trừu tượng trong sách vở kiến thức cụ thể tiếp thu được từ thực tiễn sinh động
của cuộc sống thiên nhiên.
Năm mười lăm tuổi, Ê-min học một nghề lao động chân tay gia đã hướng dẫn
em học nghề thợ mộc. Giai đoạn thứ từ năm mười sáu đến năm hai mươi tuổi,
Ê-min được giáo dục về đạo đức tôn giáo. Giai đoạn thứ năm, Ê-min đã trưởng
thành. Anh gặp Xô-phi, một gái nết na được giáo dục từ theo những nguyên
tắc tương tự. Hai người yêu nhau. Trước khi cưới, Ê-min đi du lịch hai năm để cho
đạo đức nghị lực được thử thách cũng dịp mở mang hiểu biết về hội
rộng lớn xung quanh.
Bài Đi bộ ngao du trích trong quyển V quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay
Về giáo dục. Văn bản này do tác giả sách giáo khoa dịch đặt nhan đề.
Để thuyết phục mọi người rằng nếu ngao du thì nên đi bộ, tác giả đã lập luận bằng
ba đoạn văn, mỗi đoạn trình bày một luận điểm: Đi bộ ngao du được tự do thưởng
ngoạn. Đi bộ ngao du dịp để trau dồi, mở mang tri thức. Đi bộ ngao du làm cho
tính tình trở nên vui vẻ.
Tác giả đã dùng lẽ dẫn chứng để thuyết phục bạn đọc về lợi ích của việc đi bộ
ngao du. Lập luận của bài văn hết sức chặt chẽ. Tác giả lấy thực tiễn sinh động để
chứng minh rằng muốn ngao du cần phải đi bộ. Bài văn còn thể hiện Ru-xô một
con người giản dị nhưng sâu sắc, quý trọng tự do yêu mến thiên nhiên.
đoạn thứ nhất, tác giả nhấn mạnh rằng đi bộ ngao du cách con người được
tự do đến mức tối đa. Từ một việc làm bình thường hằng ngày, tác giả đã nâng lên
thành một mục đích cao siêu của tinh thần, tưởng. Trong đoạn văn này, tác giả
chủ yếu sử dụng câu trần thuật để kể lại những điều thú vị của người ngao du bằng
cách đi bộ.
Tác giả kể chuyện bằng ngôi thứ nhất lấy những kinh nghiệm của bản thân trong
việc đi bộ ngao du để thuyết phục mọi người: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi
ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó đi bộ. Ta ra đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào
thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay
sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những thấy hay hay… một dòng sông…;
một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản…. Xem tất cả
những con người thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay
phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do con người thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý
thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai.
Khi quả quyết rằng: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa:
đó đi bộ, tác giả khẳng định mình người ưa thích ngao du bằng đi bộ muốn
mọi người cũng nên thích đi bộ ngao du như mình. Các cụm từ ta ưa đi, ta thích
dừng, ta muốn hoạt động, tôi hưởng thụ xuất hiện liên tục để nhấn mạnh cảm giác
tự do nhân; từ đó tác giả muốn thuyết phục bạn đọc tin vào lợi ích to lớn của việc
đi bộ ngao du. Đó cách tốt nhất để con người hòa hợp với thiên nhiên tuyệt mỹ.
Căn cứ vào lời lẽ phân tích, giảng giải của vị gia cho cậu Ê-min thì đi bộ ngao
du quả thú vị nhất trần đời, đem lại cho con người cảm giác sảng khoái của
tự do tuyệt đối. trên đời, còn sung sướng hơn được tự do? Ta chủ bản thân
ta, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhờ vậy ta thỏa
mãn được những nhu cầu đặt ra trước chuyến đi.
đoạn thứ hai, tác giả chứng minh đi bộ ngao du dịp để con người trau dồi, mở
mang tri thức:
Đi bộ ngao du đi như Ta-lét, Pla-tông Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết
gia thể quyết định ngao du cách khác không xem xốt những tài nguyên nơi
mình giẫm chân lên trải đất phô bày phong phú ra trước mắt.
Đi bộ ngao du cách để con người nâng cao tầm hiểu biết, bồi đắp vốn sống thực
tế. Thiên nhiên cuộc đời một trường học lớn, kho tàng kiến thức phong phú,
đa dạng: Ai người yêu mến nông nghiệp chút ít lại không muốn biết các sản
vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua cách thức trồng trọt những đặc
sản ấy? Ai người chút ít hứng thú với tự nhiên học lại thể quyết định đi
ngang một khoảnh đất không xem xét nó, một lèn đá không ghè vài mẩu,
những quả núi không sưu tập hoa lá, những hòn sỏi không tìm các hóa
thạch!
Kiến thức về mọi lĩnh vực của tự nhiên giống như những ngọn gió mát lành ùa vào
tâm hồn trí tuệ con người. Học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình
với thiên nhiên khác xa với cách học giáo điều, hình thức trong trường lớp, qua sách
vở. Thiên nhiên sống động không giống với những hình chết cứng trưng bày
trong phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học các phòng sưu tập sang trọng của
vua chúa cũng không thể so sánh. Bởi những thứ họ trong tay cứ tưởng
đầy đủ thật ra chỉ một phần rất nhỏ của thiên nhiên thôi. Còn sự vật chỉ thực
sự linh hồn khi đúng chỗ mà. Tạo hóa đã an bài cho trong một tổng thể thiên
nhiên hài hòa sinh động, một sự sắp xếp thần tình không một nhà khoa học
tài giỏi nào thể sắp xếp tốt hơn.
Vốn tôn thờ chủ nghĩa tự nhiên nên Ru-xô đả kích không thương tiếc thứ chủ nghĩa
tự nhiên giả hiệu của giai cấp phong kiến quý tộc đương thời:… các ngài nghiên cứu
tự nhiên học trong các phòng sưu tập; họ các thứ linh tinh; họ biết gọi tên nhưng
chẳng một ý niệm về tự nhiên cả.
Nhưng phòng sưu tập của Ê-min thì phong phú hơn các phòng sưu tập của vua
chúa; phòng sưu tập ấy cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó… mọi
thứ đâu ra đấy. Đô-băng-tông chắc cũng không thể làm tốt hơn.
Ru-xô mỉa mai những kẻ nghiên cứu tự nhiên giả hiệu khẳng định Ê-min giàu
hơn cả vua chúa anh bộ sưu tập khổng lồ giá cả trái đất.
đoạn cuối, Ru-xô nhận xét: "Đi bộ ngao du tác dụng rất tốt đối với sức khỏe
tinh thần".
Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy. Không kể
sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Tôi thường thấy những kẻ ngồi
trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng màng buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ;
còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái hài lòng với tất cả. Ta
hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc sao vẻ ngon
lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao
trong một cái giường tồi tàn! Khi ta muốn đến một nơi nào đó, ta thể phóng bằng
xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ.
Đi bộ ngao du làm cho con người phát triển toàn diện. Chân đi, mắt nhìn, tai nghe,
óc phân tích, nhận xét trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp
trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ tâm hồn
rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn
biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào!
Đối với Ru-xô, tự do mục tiêu quan trọng hàng đầu. Suốt đời, ông đấu tranh
chống lại chế độ phong kiến để đem lại quyền sống tự do cho mọi người.
Thuở nhỏ, Ru-xô không được học hành nên ông càng khát khao hiểu biết. Ông luôn
nỗ lực tự học, Lập luận sắc sảo của ông không phải thuyết tiếp thu trong sách vở
kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn cuộc sống muôn màu. Đi bộ ngao du cách
tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Nhờ đi bộ ngao du con người vốn già đi theo
quy luật thời gian sẽ được hồi xuân, gương mặt tươi tắn, thân thể tràn đầy sức
sống. Đi bộ ngao du một liều thuốc bổ công hiệu, một loại tiên dược thần
chẳng tốn tiền mua. Khi trình bày luận điểm thứ ba, nhà văn đứng một góc nhìn
khách quan để quan sát phân tích, so sánh hai hình thức ngao du: đi xe đi bộ.
Trong thời đại văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ nhanh hơn, đỡ vất vả hơn
nhưng rốt cuộc, giá trị của thành tựu khoa học thuật cũng chỉ thế. Còn đi bộ
(trong trường hợp ngao du, nghĩa không cần tốc độ) thì ích cho tính tình, sức
khỏe nhiều hơn. Ru-xô nhận xét về hai thái cực trái ngược nhau: Tôi thường thấy
những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng màng, buồn cáu kỉnh hoặc
đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái hài lòng với tất
cả.
Đoạn văn được viết bằng một giọng điệu hân hoan đậm tính chủ quan nhưng vẫn
được mọi người đồng tình. Những câu văn ngắn gióng như những bước chân đi bộ,
bước nọ nối tiếp bước kia thong thả, ung dung: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến
nhà I Một bữa cơm đạm bạc sao vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại
ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cài giường tồi tàn! Trong các
chuyến đi bộ ngao du, điều kiện ăn ngủ tuy đơn thiếu thốn nhưng những thú vui
tình thần lành mạnh, bổ ích sẽ đem đến cho tâm hồn ta sự sảng khoái biên. Nếu
cuộc đời được nối tiếp bằng những cuộc đi bộ ngạo du như thế thì chắc chắn ta sẽ
trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường nên tránh được sự khoa trương
ồn ào. Mục đích của đi bộ ngao du cũng giới hạn, không thể áp dụng trong tất
cả các loại hành trình: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta thể phóng bằng xe
ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết luận như thố khéo
léo, thiết thực. Trong tác phẩm, những chỗ tác giả xưng ta những chỗ xưng
tôi. Tác giả xưng ta khi luận chung xưng tôi khi nói về cảm nhận của mình trước
cuộc sống. Cũng lúc những trải nghiệm riêng ấy lại được thể hiện dưới dạng
kể chuyện về người học trò Ê-min, tuy rằng Ê-min chỉ nhân vật do ông tưởng
tượng ra thôi.
Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa luận trừu tượng vốn sống thực tế của bản thân
nên áng văn nghị luận này của Ru-xô không hề khô khan ngược lại rất sinh
động, giàu sức thuyết phục. Ru-xô một con người giản dị, quý trọng tự do yêu
mến thiên nhiên. Bóng dáng của núi sông, đồng ruộng, hoa lá, cỏ cây hiện lên khá
đậm nét trong bài Đi bộ ngao du, đó nét đặc biệt làm cho bài văn nghị luận này trở
nên nhẹ nhàng, tươi mát đầy sức sống.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 5
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức "nói chơi". Thiên phiếm
luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên nét đặc thù. Tác dụng của
không ngoài mục đích làm cho nhân vật được một chút thư giãn, thảnh thơi cả
đầu óc tâm hồn. Tuy chỉ nói chơi không bổ. Đoạn văn chứng minh cho
lợi ích của việc đi bộ.
vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của
người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các
phương tiện của văn minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào
(ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,...). Câu hỏi đây cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với
người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn
ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa đối thoại với người nghe một cách từ tốn,
hồn nhiên, không nặng nề, áp đật.
Mở đầu một phát hiện bất ngờ khái quát, rồi sau đó những luận điểm chứng
minh, chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa.
Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy một tác
phẩm nào trong thứ văn chương được gọi nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế
hay sao?
Thứ nhất: đi bộ ngao du cách con người được giải phóng, được tự do. Từ một
khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày
người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tưởng. một tiếng
reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân bất ngờ không
mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ "ta" chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành
động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được
cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được "cởi trói" khỏi những
ràng buộc với xung quanh. "Cái tôi" của nhà văn lúc này cả một thế giới tự do,
được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta "ưa", ta muốn "nhiều ít thế nào thì tuỳ
về hành động cũng tha hồ như thế. Nào "Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất
cả những thấy hay hay, ta dừng lại tất cả mọi khía cạnh". Câu văn, rồi cả đoạn
vãn say người chính thế tự do con người ta được. nhận thức,
cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chắp cánh bởi tự do. Cái duy nhất
lúc này người viết phụ thuộc chính bản thân, một bản thân không còn
vướng cản để tha hồ "hưởng thụ tất cả sự tự do con người thể hưởng thụ".
Cách lập luận của đoạn văn vừa song hành vừa móc xích. Song hành trong
cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi tự mình giải đáp.
Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý "Nếu tôi mệt..." đã lập tức một
"cái tôi" khác trả lời - trong quan hệ hô, ứng vang lên : "Nhưng Ê-min mệt lắm
đâu; em to khoẻ; sao em thể mệt được chứ?" Sự phân thân tách mình ra
làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi đáp cũng chỉ con người
ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát
ngôn một chiều, đơn điệu. hấp dẫn được người đọc, người nghe. như một
tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.
Đi bộ ngao du cách con người trau dồi được tri thức một cách hồn nhiên ngoài
trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên - qua cách đi bộ ngao du
người ta tiếp cận - một trường học lớn. Đó cả một kho tàng. Những kiến thức
về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ
con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình với
thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên
sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những hình tượng
trưng trong các phòng sưu lập của "các ngài tự nhiên học" đã đành, một trời một
vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào
hàng vua chúa. Bởi cái họ tưởng đủ nhưng chỉ một nửa của sự thật
thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng phải linh hồn của nó, nghĩa nơi "mọi
vật đều đúng chỗ" như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà sinh
động, một sự sắp xếp không một nhà khoa học tài giỏi nào thể sắp xếp tốt
hơn.
Đi bộ ngao du cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Cách trình bày luận điểm
này độc đáo chỗ: tác giả đặt trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc
tăng cường sức khỏe, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ
sung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề: "Biết
bao hứng thú khác nhau tạ tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức
khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ". Câu văn tươi tắn như trạng thái cải
lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương
mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ
ngao du một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần nào tốn kém đâu ?
Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà văn không tự thể nghiệm mình trong
các cuộc đi bộ ngao du đứng một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết
so sánh hai hình thức ngao du: đi xe đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất
nhiên đi xe tốt hơn đi bộ nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của
thành tựu khoa học thuật vãn minh cũng chỉ thế. Còn đi bộ (trong trường hợp
ngao du, nghĩa không cần tốc độ) thì ích cho tính tình, thể hơn nhiều. Đây
hai thái cực trái ngược nhau : "Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt
chạy rất êm nhưng màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi
bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái hài lòng với tất cả". Hai trạng thái ấy sự
vận động hay không vận động tạo ra, không lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức
thuyết phục của đoạn văn góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì
đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, chủ quan, cũng rất
nhiều khả năng được chia sẻ, đồng cảm.
Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia
thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: "Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà ! Một
bữa cơm đạm bạc sao vẻ ngon lành thế ! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào
bàn ăn ! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn". Điều kiện ăn ngủ
tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không
ngăn cản được những khoan khoái tự thân, thể tâm hồn cuộc đi bộ
ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du
như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho biến thành giọng
điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ giới hạn mục đích
chừng mực của thôi. Không thể tung trong tất cả các loại hành trình:
"Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta
muốn ngao du, thì cần phải đi bộ". Kết như thế khéo, rất thiết thực, vừa tầm.
Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém không hơn như thế.
Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra
một con người văn hoá. Ây một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do yêu mến
thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời của tác giả không nên chỉ
nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi
mắng đánh đập,... nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ không được học hành
nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường
thể lực từ đã bệnh tật, ốm yếu hay sao?
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 6
Ê-min hay bàn về giáo dục một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Ru-xô.
Tác phẩm được sáng tác năm 1762, nói về vấn đề giáo dục thể lực trí tuệ con
người. Đoạn trích Đi bộ ngao du được trích từ cuốn thứ 5 khi E-min đã khôn lớn,
trưởng thành. Với đoạn trích này, tác giả muốn khẳng định đi bộ ý nghĩa, vai trò
cùng lớn đối với mỗi chúng ta.
Văn bản Đi bộ ngao du nêu lên vấn đề chính lợi ích của việc đi bộ. Để làm sáng tỏ
luận điểm này, người viết đã đưa ra ba lập luận lớn: Đi bộ đem lại cho chúng ta sự
tự do, đi bộ cũng dịp giúp con người trau dồi tri thức cuối cùng đi bộ làm cho ta
thêm phần khỏe mạnh. mỗi lập luận này ông đã đưa ra những dẫn chứng hết
sức phong phú thuyết phục.
Trước hết đi bộ đem đến cho chúng ta sự tự do, thoải mái, khi đi ngựa sẽ không
bao giờ chúng ta cảm nhận được điều đó: “Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc
nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào tùy… ta quay sang phải, sang
trái…”. Quả thực đi bộ đem đến cho ta tất cả sự chủ động, giải phóng con người,
khiến ta không phụ thuộc vào bất cứ điều gì. Giọng văn trong đoạn hứng khởi, tràn
đầy năng lượng, giúp người đọc tin tưởng hơn nữa vào những lợi ích của việc đi bộ.
“Tôi đi bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy”, “Tôi chẳng phụ thuộc vào con ngựa
hay phụ trạm” “Tôi hưởng thụ tất cả sự tự do con người thẻ hương thụ”…
Sự tự do chắp cánh cho con người thỏa mãn mọi nhu cầu mong muốn của mình.
Không chỉ đem đến sự tự do, thoải mái, đi bộ còn cung cấp cho chúng ta nguồn tri
thức dồi dào, phong phú. Để chứng minh luận điểm này, ông đã lấy những dẫn
chứng từ thực tiễn cuộc sống. Những nhà khoa học nổi tiếng thế giới như Ta-lét,
Pla-tông,… đều dùng đi bộ để quan sát, tìm tòi khám phá thế giới. Đi bộ còn giúp
ta khám phá những đặc sản nông nghiệp, sưu tập những viên đá, hòn sỏi, xem xét
các giống cây trồng,… cả thế giới bao la kia sẽ được ta chiếm lĩnh qua những hành
trình đi bộ đầy thú. Đặc biệt, tác giả lối so sánh rất thú vị để khẳng định tính
chính xác của những lẽ: ông so sánh phòng khách của những nhà tự nhiên học
cũng chẳng thể phong phú bằng phòng sưu tập của Ê-min, hơn thế, họ sưu tập
chẳng hề ý niệm về những thứ mình đang trưng bày. Với phép so sánh đầy
sức thuyết phục ấy càng củng cố hơn nữa niềm tin cho người đọc về công dụng của
việc đi bộ
Cuối cùng đi bộ đem lại sức khỏe cho con người. Không chỉ sức khỏe được tăng
cường tính khí còn trở nên hoạt bát, vui vẻ, còn điều tuyệt vời hơn thế. đây
tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp so sánh, nhưng người đi xe thường buồn bã, cáu
kỉnh còn như Ê-min tung tăng trên đôi chân của mình lại luôn vui vẻ, khoan khoái.
Với cách viết thâm trầm, giản dị, giọng văn thay đổi linh hoạt, tác giả đã cho thấy
những lợi ích, vai trò to lớn của việc đi bộ. Đi bộ cách tốt nhất để con người phát
triển toàn diện cả về thể lực trí lực. Bài văn tuy đã ra đời hàng thế kỉ những vẫn
giữ nguyên ý nghĩa giá trị của nó.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 7
Ru-xô một nhà văn cùng giản dị, quý trọng tự do đặc biệt rất yêu thiên
nhiên. Chính thế, bài “Đi bộ ngao du” của ông đã làm cho người đọc hiểu được lợi
ích của việc đi bộ bằng những cách lập luận chặt chẽ, lẽ xác thực.
Thật vậy, đi bộ một môn thể thao mang lại rất nhiều lợi ích cho con người. Khi đi
bộ, ta hoàn toàn được tự do, tùy theo thích của mình, không hề bị lệ thuộc vào bất
cứ ai, bất cứ cái gì. Điều chủ động nhất ta thích đi đâu thì đi, dừng lúc nào thì
dừng hay hoạt động nhiều ít thế nào tùy ta. Không những thế, ta thể quan
sát khắp nơi, thể ngắm những ta yêu thích: “Quay sang phải, sang trái, ta
xem tất cả những ta thấy hay hay. Bất cứ đâu ta thích, ta lưu lại đấy, lúc nào chán,

Preview text:

Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du của Ru-xô hay nhất
Dàn ý phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du I. Mở bài:
● Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Đi bộ ngao du” trích trong “Ê-min hay Về
giáo dục” của nhà văn, nhà triết học, nhà hoạt động xã hội Pháp - Ru-xô
● Khái quát nội dung đoạn trích: Đoạn trích là sự chia sẻ của chính tác giả
về cuộc sống với những lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. II. Thân bài:
Luận điểm 1: Đi bộ ngao du được tự do thưởng ngoạn:
- Theo tác giả, lợi ích đầu tiên của việc đi bộ ngao du, đó là được đi một cách tự do,
theo sở thích của bản thân mình mà không phải lệ thuộc, phụ thuộc vào kì ai, bất kì điều gì.
● “Thích dừng lúc nào thì dừng…muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy”.
● “Quan sát khắp nơi”.
● Đi bất cứ đâu mình thích.
● “Chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã xe trạm…”.
⇒ Những dẫn chứng, luận cứ được đưa ra lần lượt, logic, rõ ràng, không rườm rà, lòng vòng.
⇒ Đi bộ ngao du giúp ta có thể thoải mái, tự do điều khiển mọi thứ theo sở thích của
mình, tự do thưởng ngoạn bất kỳ nơi nào ta thấy có hứng thú. Chính điều đó sẽ
khiến ta trưởng thành hơn, chín chắn hơn và nhìn mọi thứ xung quanh một cách toàn diện, chủ quan.
Luận điểm 2: Đi bộ ngao du giúp đầu óc linh hoạt hơn, sáng suốt hơn:
● Tác giả đưa ra những “nhân chứng” có thật, đó là các nhà khoa học,
bác học nổi tiếng như Ta-lét, Pla-tông, Pi-ta-go.
● Một loạt câu hỏi được đặt ra để khẳng định kiến thức thực tế có giá trị
hơn nhiều những đồ đạc trưng bày trong một căn phòng kín mà những
con người bảo thủ vẫn gọi là “phòng sưu tập”. Qua đó khích lệ mọi
người mở mang kiến thức thực tế, tăng cường trải nghiệm, kỹ năng bằng cách đi bộ ngao du.
⇒ Tiếp tục đưa ra những dẫn chứng xác thực, mang tính thuyết phục cao, tác giả
một lần nữa khẳng định lợi ích của việc đi bộ ngao du so với học hành trên sách vở
giáo điều trong khía cạnh tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học cuộc sống.
Luận điểm 3: Đi bộ ngao du không chỉ làm con người mở mang đầu óc mà còn giúp
tinh thần sảng khoái, vui vẻ:
- Để chứng minh luận điểm này, tác giả đã dùng phép so sánh:
● Những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt - những người đi bộ, kết quả là “mơ
màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ” - “vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”.
● Đi bộ ngao du khi trở về nghiễm nhiên mọi thứ tưởng như vô cùng bình
thường, giản dị lại khiến ta cảm thấy nhớ thương, thích thú và hài lòng.
- Một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng của chính tác giả: “hân hoan biết
bao”, “ngon lành thế!”, “thích thú biết bao”, “ngủ ngon giấc biết bao”. Tâm trạng của
tác giả nhưng lại dùng ngôi kể “ta” vừa thể hiện cái nhìn chủ quan, vừa có ý nghĩa
như một lời khuyên, một trải nghiệm đầy thú vị mà “tôi” muốn chia sẻ cho tất cả mọi người.
Luận điểm 4: Nghệ thuật:
● Lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục, lí lẽ sinh động kết hợp với thực
tiễn kinh nghiệm mà tác giả đã tích lũy được.
● Sự linh hoạt trong ngôi kể, khi “tôi”, khi “ta” càng làm tăng sức thuyết phục cho bài viết.
● Giọng điệu nhẹ nhàng, pha chút hóm hỉnh, không khô khan mà như tâm sự, hồi tưởng. III. Kết bài:
● Như vậy, qua đoạn trích, chúng ta thấy Ru-xô là một con người giản dị,
quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.
● Đây là một lối sống đẹp mà chúng ta cần phải học hỏi.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 1
Ru-xô là một nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông có rất nhiều tác phẩm
hay làm say mê độc giả trên toàn thế giới, một trong những tác phẩm nổi tiếng của
ông mà ta có thể kể tên, đó chính là tác phẩm "Ê- min hay về giáo dục". Cuốn tiểu
thuyết này có nội dung bàn về chuyện giáo dục một em bé tên là Ê- min, nhà văn đã
tưởng tượng và đặt tên- từ khi mới sinh ra đời đến tuổi trưởng thành. Trong chương
trình giáo dục, chúng ta cũng được học một trích đoạn của tác phẩm này là "Đi bộ ngao du".
Trong trích đoạn "Đi bộ ngao du", nhà văn Ru-xô đã chỉ ra lợi ích của việc đi bộ,
cũng như những lợi thế của việc đi bộ so với đi ngựa cũng như dùng các phương
tiện khác. Trước hết, đi bộ có thể đi mọi nơi mà ta mong muốn, không phải lệ thuộc
vào ai, vào phương tiện gì: " Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng,
ta muốn hoạt động nhiều hay ít thế nào là tùy". Như vậy, việc đi bộ khiến cho ta
được tự do về con người, được làm theo những ý muốn của mình, đây chính là lợi
ích lớn nhất của việc đi bộ ngao du. Và đã là ngao du thì yếu tố chủ động phải được
đặt lên hàng đầu, đi ngựa sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các yếu tố đường xá, sức
khỏe của ngựa, không phải phụ thuộc vào những gã phu trạm.
Đi bộ ngao du thì ta không bị phụ thuộc vào bất cứ thứ gì, bất kì cái gì, ta được tự
do về con người, tự do về tâm hồn, làm toàn bộ những việc theo ý thích: " Ta quan
sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay;
ta dừng lại ở tất cả các khía cạnh...." . Và quan trọng nhất là không bị lệ thuộc: "Tôi
chẳng phải phụ thuộc vào những con ngựa hay những gã phu trạm. Đi bộ ngao du
ta sẽ có cơ hội khám phá những điều mới mẻ, có thể tự tìm cho mình những con
đường riêng biệt, điều này rất phù hợp với những con người ưa tìm tòi, thử thách:
"Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua
bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì con người có thể xem...."
Đi bộ ngao du có thể thỏa sức khám phá, tìm tòi, nhưng một lúc nào đó mệt thì lại có
thể dùng ngựa: " Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được và thấy chán rồi, lúc đó tôi đi
ngựa" tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của tác giả. Còn đối với nhân vật của mình, cậu
bé Ê – min thì lại khác, cậu kiên cường hơn, bản lĩnh hơn rất nhiều, nếu mệt em sẽ
tìm một thứ gì đó để giải trí, hoặc tìm lấy công việc để tay làm việc còn đôi chân
được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ ngơi, đôi chân bớt mỏi mệt thì em lại có thể tiếp tục
chuyến hành trình của mình: "...Ở chốn nào em cũng có thứ để giải trí. Em vào nhà
một người thợ làm việc; em vận động hai cánh tay để đôi bàn chân nghỉ ngơi".
Luận điểm thứ hai mà nhà văn Ru-xô nêu để minh chứng cho quan điểm đi bộ ngao
du là sáng suốt, hữu ích. Đó chính là thông qua việc đi bộ thì ta có thể có cơ hội để
trau dồi những vốn tri thức vốn vô hạn. Nhà văn nêu ra những dẫn chứng cụ thể, đó
là những tấm gương của việc đi bộ ngao du như: Ta – lét, Pla- tông và Pi- ta- go. Họ
đều là những nhà toán học, nhà triết học nổi tiếng của thế giới. Thông qua việc đi
bộ, họ phát hiện ra nhiều điều lí thú, tiền đề cho những phát minh, những quan điểm
vĩ đại. Đi bộ ngao du, vừa là để du ngoạn, thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên mà
thông qua vùng đất mình đi qua, ta có thể có thêm cho mình những kinh nghiệm,
học hỏi thêm được nhiều thứ lí thú, có ích phù hợp với những vấn đề mà mình quan tâm.
Ê- min nhờ vào việc đi bộ mà có những kiến thức sâu rộng, mang về nhiều thứ hay
ho trên đường đi để về nhà làm thành một bộ sưu tập: "Nhưng phòng sưu tập của
Ê- min thì phong phú hơn phòng làm việc của các vua chúa, phòng sưu tập ấy là cả
trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm
sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy..."
Ngoài ra, việc đi bộ ngao du còn rất có lợi cho sức khỏe. Thông qua việc đi bộ, các
cơ bắp trên cơ thể có dịp phát triển, từ đó mà sức khỏe của con người cũng có thể
được cải thiện: " sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ", hòa mình vào
trong không khí của tự nhiên, con người cũng sống lạc quan hơn, tự tại hơn từ đó
yêu đời và luôn vui vẻ, khác với những kẻ luôn ngồi trong xe ngựa nhưng cả ngày
cáu kỉnh, không tìm được mục đích sống, cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán và vô nghĩa.
Như vậy, đoạn trích "Đi bộ ngao du" của nhà văn Ru-xô đã đưa ra những luận điểm
chặt chẽ, chứng minh cho những lợi ích của việc đi bộ ngao du. Những lập luận này
hết sức chặt chẽ, có sức thuyết phục lại có những dẫn chứng cụ thể, sinh động
trong thực tiễn, và dẫn chứng từ chính bản thân của tác giả. Thông qua đoạn trích
này ta cũng thấy được Ru-xô còn là một nhà văn giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 2
Đi bộ ngao du là một văn bản mang tính chất nghị luận, được trích trong tiểu thuyết
Ê-min hay về giáo dục. Tác phẩm được coi là thiên luận văn – tiểu thuyết, nội dung
đề cập đến việc giáo dục một em bé từ khi mới ra đời cho đến lúc lớn khôn. Đoạn
trích Đi bộ ngao du (Ngữ văn 8 – Tập 2) đã chứng minh rất rõ muốn ngao du thì phải
đi bộ. Đồng thời bằng thực tiễn cuộc sống mà tác giả đã từng trải, kết hợp với lý lẽ,
hợp tình hợp lý, nhà văn đã làm nổi bật được lợi ích của việc đi bộ ngao du mà lại
không hề tốn kém về vật chất. Đúng như lời nhận định Đi bộ ngao du là cái thú không mất tiền.
Đi bộ ngao du không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn,
thanh thản cả đầu óc và tâm hồn. Mở đầu phần chính là một phát hiện bất ngờ,
nghe như đùa nhưng lại là sự thật. Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú
vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Bởi vì nhờ có đi bộ mà con người được giải phóng, được
tự do. Từ một khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt
hàng ngày mà người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng.
Nó là một tiếng reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người vừa tìm ra một chân lý
bất ngờ mà không mấy ai quan tâm, để ý. Đại từ ta”ở bài có ý chỉ chủ thể được tự
do, tự do theo ý thích của mình, tự do hành động theo ý mình, chẳng phụ thuộc vào
ai. Đoạn văn diễn tả được cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người
được cởi trói khỏi những ràng buộc với xung quanh.
Còn cái tôi của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó được tháo cũi sổ lồng
tha hồ mà bay nhảy. Này nhé: về ý thích, ta ưa, ta muốn nhiều hay ít thế nào là tùy,
về hành động cũng tha hồ như thế, nào ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất
cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh. Đó là nhận thức. Nó
cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chắp cánh bởi tự do. Cái duy nhất
lúc mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không có gì còn vướng
cản, để tha hồ hưởng thụ tất cả tự do mà con người có thể hưởng thụ. Cách lập
luận của đoạn văn rất chặt chẽ, kết hợp cả hai cách trình bày vừa song hành vừa móc xích.
Song hành trong cách bộc lộ chủ thể tự do: Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc
nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy…. Móc xích dưới hình thức
câu hỏi và tự mình giải đáp: Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi theo men sông,
một khu rừng rậm ư, tôi đi vào dưới bóng cây…. Đưa ra những giả định Nếu tôi
mệt… nhưng Ê-min có mệt lắm đâu; em to khỏe; và sao em có thể mệt được cơ
chứ. Sự phân tích mình ra làm con người khác bằng cách hỏi và đáp (cũng chỉ là
con người ấy) có tác dụng làm cho lời văn đa sắc thái và sinh động hơn, không đơn
điệu, nghe nó như một tiếng reo thầm khi cần giãi bày, chia sẻ. Chính vì thế đoạn
văn đã cuốn hút người đọc, người nghe.
Đi bộ ngao du không những giúp con người ta được tự do, thoải mái, không phụ
thuộc vào ai, mà còn là cơ hội để cho con người trau dồi được tri thức một cách hồn
nhiên. Ngoài trường lớp, ngoài sách vở thông thường, thiên nhiên – qua cách đi bộ
ngao du, mà người ta tiếp cận là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng, những
kiến thức nông nghiệp về tự nhiên như những cơn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ
mà con người khao khát. Một câu hỏi đặt ra học bằng cách nào? Không còn cách
nào khác phải gần gũi thiên nhiên, hóa mình với thiên nhiên như Ta- lét, Pla-tông và
Pi-ta-go, và khó có thể tin được rằng người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại
không muốn biết các sản vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách
thức trồng trọt những đặc sản ấy?
Các cách học này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên
sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng
trưng trong các phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học đã đành, khác xa với các
phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào hàng vua chúa.
Bởi cái mà họ tưởng có đủ nhưng sự thật chỉ là một nửa của sự thật mà thôi! Cái sự
thật của thiên nhiên phải là phòng sưu tập của Ê-min. Bởi nó là phòng sưu tập của
trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều được đặt đúng chỗ của nó. Các nhà tự nhiên học đã
thổi linh hồn vào cho nó.
Đi bộ ngao du còn là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Biết bao hứng thú khác
nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khỏe được tăng
cường, tính khí trở nên vui vẻ. Câu văn vừa chuyển ý vừa có sắc thái tươi tắn như.
Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại, tâm trạng u buồn nay trở
nên vui vẻ. Đi bộ ngao du còn là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược diệu kỳ mà
nào có tốn kém gì đâu? Để so sánh được hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ nhà
văn không đặt mình vào trong các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn quan
sát rất khách quan: Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm
nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn
vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Hai trạng thái ấy là sự vận động hay không vận động tạo ra?
Tiếp theo, bằng giọng điệu hân hoan, dù có chủ quan, nó có rất nhiều khả năng chia
sẻ và đồng cảm. Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ
nối tiếp bước kia thật đều đặn, thanh thản, cởi mở và tươi tắn: Ta hân hoan biết bao
khi về gần đến nhà. Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành đến thế. Ta
thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái
giường tồi tàn. Một loạt các câu cảm thán với các điệp từ biết bao đã đẩy lùi sự
thiếu thốn của vật chất, nhường chỗ cho những khoan khoái tự thân ở cơ thể và tâm
hồn mà các cuộc đi bộ ngao du mang lại. Như vậy ta có thể khẳng định rằng: Đi bộ
ngao du là thế giới của trẻ mãi không già.
Cuối cùng bài văn khép lại: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng
xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết như vậy là khéo,
là thiết thực, là vừa tầm. Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không hơn
và cũng không kém như thế. Phải chăng đó là một ý tưởng khiêm nhường trước sự
khoa trương, ồn ào theo kiểu quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích
có chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình.
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận y dưới hình thức nói chơi. Tuy đùa mà
không vô bổ. Bài viết đã chứng minh cho ích lợi của việc đi bộ ngao du: là cách mà
con người được giải phóng tự do; là cách giúp cho con người trau dồi tri thức một
cách hồn nhiên và đó là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe mà không cần phải
chi phí gì tốn kém. Đó chẳng phải là cái thú không mất tiền sao?.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 3
Em vẫn hay tự hỏi rằng, vì sao thấy vì buổi sáng người ta không dành thêm thời
gian cho giấc ngủ của mình mà lại chọn cách dậy thật sớm để đi bộ. Và cho đến khi
đọc những trang văn của Ru-xô, một nhà triết học người Pháp, em mới thấm thía
hơn vai trò của việc đi bộ đối với đời sống mỗi người qua tác phẩm "Đi bộ ngao du"
Theo Ru -xô, việc đi bộ là việc vô cùng thiết yếu với nhiều tác dụng và mang lại lợi
ích lớn. Thứ nhất, đi bộ như là một cách để ngao du mà không bị ràng buộc bởi ai
hay bất kỳ thứ gì khác. Đi bộ giúp ta tự do hơn trên cuộc hành trình của chính mình,
muốn nghỉ ngơi hay dừng chân ở chốn nào cũng được. Khi đi bộ cơ thể sẽ trở nên
linh hoạt hơn, không bị giới hạn bởi điều gì cả, có thể quan sát được khắp mọi nơi,
nhìn mọi vật một cách toàn diện. Đặc biệt, khi đi bộ giúp con người hưởng thụ mọi
điều, được giải trí mọi lúc mà chẳng biết mệt mỏi hay chán nản, mọi nơi đều có
những nét thú vị riêng, một sức hút riêng thôi thúc sự tìm tòi :"Tôi nhìn thấy một
dòng sông ư, tôi đi men theo sông; một khi rừng ư, tôi đi vào dưới bóng cây; một
hang động ư, tôi đến thăm quan, một mỏ đá ư, tôi xem xét một khoáng sản.... Em
vào nhà một người thợ, em làm việc; em vận động hai cánh tay để cho bàn chân
nghỉ ngơi". Đi bộ như một sự rong chơi thoải mái nhất, đầy thú vị và tiện ích nhất,
không một môn thể thao nào có thể thay thế được.
Thứ hai, đi bộ chính là cách giúp mở mang vốn trí thức, tầm hiểu biết của con
người. Tác giả khẳng định: "Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go" tức
là việc đi bộ không chỉ để ngao du mà phải mang lại cho ta tri thức phong phú, dồi
dào hơn, gắn với tự nhiên và thực tiễn hơn. Không có nhà khoa học nào mà không
đi bộ như một cách quan sát tỉ mỉ, khám phá bản chất của hiện tượng, của sự vật
trong thiên nhiên. "Ai là người yêu mến nông nghiệp... không tìm các nguyên liệu
hoá thạch". Những hiểu biết về nông nghiệp, khoáng sản, cây trồng, hoa lá... đều
thông qua đi bộ để tìm hiểu, sưu tập.
Đi bộ là cuộc hành trình giúp ta chiếm lĩnh vốn trí thức đầy thú vị và mới lạ, là cách
để khám phá tự nhiên vô cùng hữu hiệu, xác thực. Khác với các triết gia phòng
khách với những hiểu biết hời hợt, qua loa trên lý thuyết, thiếu ý niệm về tự nhiên thì
kẻ đi bộ sẽ đào sâu vào thực tiễn nhất, khám phá những tầng sâu bản chất nhất của
sự vật, bởi vậy mà ông tin rằng phòng sưu tập của Ê-min chính là một trái đất mà
mọi vật đều được sắp xếp hợp lý nhất.
Thứ ba, điều thiết yếu nhất là đi bộ mang lại cho con người sức khoẻ - nhân tố vô
cùng quan trọng trong sự sống con người. Đồng thời, nó giúp tinh thần trở nên phấn
chấn và vui vẻ vô cùng mà không một phương tiện nào có thể mang lại được. Khác
xa với vẻ cáu kỉnh, buồn bã cô đơn của những kẻ quyền cao ngồi trong xe ngựa êm
kia thì đi bộ giúp cho con người thư giãn, bữa cơm ngon lành hơn, giấc ngủ ngon và
sâu hơn. Tất thảy, nó giúp ta rất nhiều trong rèn luyện sức khỏe và nuôi dưỡng tinh
thần thoải mái mỗi ngày.
Ru-xô bằng ngòi bút và tư duy, kinh nghiệm của mình đã đưa ra những quan điểm
đúng đắn với lập luận chặt chẽ, những hình ảnh dẫn chứng vô cùng sinh động,
thuyết phục và gắn với thực tế cuộc sống, giọng điệu tự nhiên,gần gũi đã cho thấy
được điều thiết yếu của việc đi bộ ngao du. Học xong bài học, ta thấy một tâm hồn
yêu tự do và khao khát khám phá tự nhiên của tác giả.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 4
Giăng Giắc Ru-xô (Jean-Jacques Rousseau, 1712 - 1778) là nhà văn Pháp nổi tiếng
thế kỉ XVIII. Ông sinh ra trong một gia đình,nghèo, cha làm thợ sửa đồng hồ. Mồ côi
mẹ sớm nên ông chỉ được đi học từ năm mười hai đến năm mười bốn tuổi, sau đó
rời gia đình, lang thang nhiều nơi, trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhờ thông
minh, có năng khiếu bẩm sinh và chịu khó học hỏi, Ru-xô đã trở thành nhà triết học,
nhà văn có tên tuổi. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: Luận về khoa học và nghệ
thuật (1750), Luận về sự bất bình đẳng (1755), tiểu thuyết Giuy-ly hay nàng
Hê-lôi-dơ mới (1761), tiểu thuyết Ê-min hay về giáo dục (1762), Những mơ mộng
của một người dạo chơi cô độc (1777 - 1778)…
Luận điểm triết học mà Ru-xô hay bàn tới là sự đối lập giữa con người tự nhiên và
con người xã hội. Theo ông, con người sinh ra vốn lương thiện, tự do và sung
sướng, nhưng xã hội phong kiến đã biến con người thành độc ác, nô lệ và khổ cực.
Triều đình phong kiến Pháp thế kỉ XVIII thẳng tay đàn áp những tư tưởng tiến bộ
của Ru-xô, ông bị truy nã khắp nơi. Mười một năm sau khi ông qua đời, cách mạng
tư sản 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến suy tàn tồn tại lâu đời. Tư tưởng dân chủ
tiến bộ của Ru-xô được đánh giá rất cao. Tượng bán thân Ru-xô được chính phủ
Cách mạng tư sản Pháp trân trọng đặt trong phòng họp của Quốc hội.
Ê-min hay về giáo dục là một thiên luận văn tiểu thuyết, nội dung đề cập đến
phương pháp giáo dục một con người từ khi mới ra đời cho đến lúc trưởng thành.
Nhà văn đặt tên cho nhân vật là Ê-min và thầy giáo đảm nhiệm công việc giáo dục
chính là ông. Tác phẩm chia thành năm quyển, tương ứng với năm giai đoạn liên
tiếp của quá trình giáo dục.
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Ê-min mới ra đời cho đến khoảng hai, ba tuổi.
Nhiệm vụ của người giáo dục là làm sao cho cơ thể em bé được phát triển tự nhiên.
Giai đoạn thứ hai từ khi Ê-min lên bốn, lên năm cho đến mười hai tuổi. Đây là giai
đoạn giáo dục cho em một số nhận thức bước đầu bằng hình thức giáo dục nhẹ
nhàng, không gò bó. Tiếp theo là giai đoạn thứ ba kéo dài khoảng ba năm, Ê-min sẽ
được trang bị những kiến thức khoa học hữu ích, nhưng không phải là kiến thức
trừu tượng trong sách vở mà là kiến thức cụ thể tiếp thu được từ thực tiễn sinh động
của cuộc sống và thiên nhiên.
Năm mười lăm tuổi, Ê-min học một nghề lao động chân tay và gia sư đã hướng dẫn
em học nghề thợ mộc. Giai đoạn thứ tư từ năm mười sáu đến năm hai mươi tuổi,
Ê-min được giáo dục về đạo đức và tôn giáo. Giai đoạn thứ năm, Ê-min đã trưởng
thành. Anh gặp Xô-phi, một cô gái nết na được giáo dục từ bé theo những nguyên
tắc tương tự. Hai người yêu nhau. Trước khi cưới, Ê-min đi du lịch hai năm để cho
đạo đức và nghị lực được thử thách và cũng là dịp mở mang hiểu biết về xã hội rộng lớn xung quanh.
Bài Đi bộ ngao du trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay
Về giáo dục. Văn bản này do tác giả sách giáo khoa dịch và đặt nhan đề.
Để thuyết phục mọi người rằng nếu ngao du thì nên đi bộ, tác giả đã lập luận bằng
ba đoạn văn, mỗi đoạn trình bày một luận điểm: Đi bộ ngao du được tự do thưởng
ngoạn. Đi bộ ngao du là dịp để trau dồi, mở mang tri thức. Đi bộ ngao du làm cho
tính tình trở nên vui vẻ.
Tác giả đã dùng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục bạn đọc về lợi ích của việc đi bộ
ngao du. Lập luận của bài văn hết sức chặt chẽ. Tác giả lấy thực tiễn sinh động để
chứng minh rằng muốn ngao du cần phải đi bộ. Bài văn còn thể hiện rõ Ru-xô là một
con người giản dị nhưng sâu sắc, quý trọng tự do và yêu mến thiên nhiên.
Ở đoạn thứ nhất, tác giả nhấn mạnh rằng đi bộ ngao du là cách mà con người được
tự do đến mức tối đa. Từ một việc làm bình thường hằng ngày, tác giả đã nâng lên
thành một mục đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Trong đoạn văn này, tác giả
chủ yếu sử dụng câu trần thuật để kể lại những điều thú vị của người ngao du bằng cách đi bộ.
Tác giả kể chuyện bằng ngôi thứ nhất và lấy những kinh nghiệm của bản thân trong
việc đi bộ ngao du để thuyết phục mọi người: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi
ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ra đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào
thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ. Ta quan sát khắp nơi; ta quay
sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay… một dòng sông…;
một khu rừng rậm; một hang động…; một mỏ đá… các khoáng sản…. Xem tất cả
những gì con người có thể xem…; chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã
phu trạm. Hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ… Ta làm chủ ý
thích, làm chủ hành động, làm chủ bản thân, không phụ thuộc vào ai.
Khi quả quyết rằng: Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du thú vị hơn đi ngựa:
đó là đi bộ, tác giả khẳng định mình là người ưa thích ngao du bằng đi bộ và muốn
mọi người cũng nên thích đi bộ ngao du như mình. Các cụm từ ta ưa đi, ta thích
dừng, ta muốn hoạt động, tôi hưởng thụ xuất hiện liên tục để nhấn mạnh cảm giác
tự do cá nhân; từ đó tác giả muốn thuyết phục bạn đọc tin vào lợi ích to lớn của việc
đi bộ ngao du. Đó là cách tốt nhất để con người hòa hợp với thiên nhiên tuyệt mỹ.
Căn cứ vào lời lẽ phân tích, giảng giải của vị gia sư cho cậu bé Ê-min thì đi bộ ngao
du quả là thú vị nhất trần đời, vì nó đem lại cho con người cảm giác sảng khoái của
tự do tuyệt đối. Mà trên đời, còn gì sung sướng hơn được tự do? Ta là chủ bản thân
ta, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhờ vậy mà ta thỏa
mãn được những nhu cầu đặt ra trước chuyến đi.
Ở đoạn thứ hai, tác giả chứng minh đi bộ ngao du là dịp để con người trau dồi, mở mang tri thức:
Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết
gia có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xốt những tài nguyên nơi
mình giẫm chân lên và trải đất phô bày phong phú ra trước mắt.
Đi bộ ngao du là cách để con người nâng cao tầm hiểu biết, bồi đắp vốn sống thực
tế. Thiên nhiên và cuộc đời là một trường học lớn, là kho tàng kiến thức phong phú,
đa dạng: Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản
vật đặc trưng cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc
sản ấy? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học mà lại có thể quyết định đi
ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó, một lèn đá mà không ghè vài mẩu,
những quả núi mà không sưu tập hoa lá, những hòn sỏi mà không tìm các hóa thạch!
Kiến thức về mọi lĩnh vực của tự nhiên giống như những ngọn gió mát lành ùa vào
tâm hồn và trí tuệ con người. Học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình
với thiên nhiên khác xa với cách học giáo điều, hình thức trong trường lớp, qua sách
vở. Thiên nhiên sống động không giống với những mô hình chết cứng trưng bày
trong phòng sưu tập của các ngài tự nhiên học và các phòng sưu tập sang trọng của
vua chúa cũng không thể so sánh. Bởi những thứ mà họ có trong tay cứ tưởng là
đầy đủ thật ra chỉ là một phần rất nhỏ của thiên nhiên mà thôi. Còn sự vật chỉ thực
sự có linh hồn khi ở đúng chỗ mà. Tạo hóa đã an bài cho nó trong một tổng thể thiên
nhiên hài hòa và sinh động, một sự sắp xếp thần tình mà không một nhà khoa học
tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.
Vốn tôn thờ chủ nghĩa tự nhiên nên Ru-xô đả kích không thương tiếc thứ chủ nghĩa
tự nhiên giả hiệu của giai cấp phong kiến quý tộc đương thời:… các ngài nghiên cứu
tự nhiên học trong các phòng sưu tập; họ có các thứ linh tinh; họ biết gọi tên nhưng
chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả.
Nhưng phòng sưu tập của Ê-min thì phong phú hơn các phòng sưu tập của vua
chúa; phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều ở đúng chỗ của nó… mọi
thứ đâu ra đấy. Đô-băng-tông chắc cũng không thể làm tốt hơn.
Ru-xô mỉa mai những kẻ nghiên cứu tự nhiên giả hiệu và khẳng định Ê-min giàu có
hơn cả vua chúa vì anh có bộ sưu tập khổng lồ vô giá là cả trái đất.
Ở đoạn cuối, Ru-xô nhận xét: "Đi bộ ngao du có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và tinh thần".
Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy. Không kể
sức khỏe được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Tôi thường thấy những kẻ ngồi
trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ;
còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Ta
hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon
lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao
trong một cái giường tồi tàn! Khi ta muốn đến một nơi nào đó, ta có thể phóng bằng
xe ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ.
Đi bộ ngao du làm cho con người phát triển toàn diện. Chân đi, mắt nhìn, tai nghe,
óc phân tích, nhận xét và trái tim cảm thụ những điều mới lạ, những cảnh đẹp gặp
trên đường. Thân thể được rèn luyện, thử thách, sẽ trở nên mạnh mẽ và tâm hồn
rộng mở lộng gió bốn phương. Lúc ấy, ta sẽ cảm thấy cuộc đời xung quanh hấp dẫn
biết chừng nào, đáng sống biết chừng nào!
Đối với Ru-xô, tự do là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Suốt đời, ông đấu tranh
chống lại chế độ phong kiến để đem lại quyền sống tự do cho mọi người.
Thuở nhỏ, Ru-xô không được học hành nên ông càng khát khao hiểu biết. Ông luôn
nỗ lực tự học, Lập luận sắc sảo của ông không phải lí thuyết tiếp thu trong sách vở
mà là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn cuộc sống muôn màu. Đi bộ ngao du là cách
tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi theo
quy luật thời gian sẽ được hồi xuân, gương mặt tươi tắn, thân thể tràn đầy sức
sống. Đi bộ ngao du là một liều thuốc bổ công hiệu, một loại tiên dược thần kì mà
chẳng tốn tiền mua. Khi trình bày luận điểm thứ ba, nhà văn đứng ở một góc nhìn
khách quan để quan sát và phân tích, so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ.
Trong thời đại văn minh, tất nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn
nhưng rốt cuộc, giá trị của thành tựu khoa học kĩ thuật cũng chỉ có thế. Còn đi bộ
(trong trường hợp ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, sức
khỏe nhiều hơn. Ru-xô nhận xét về hai thái cực trái ngược nhau: Tôi thường thấy
những kẻ ngồi trong cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã cáu kỉnh hoặc
đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả.
Đoạn văn được viết bằng một giọng điệu hân hoan dù đậm tính chủ quan nhưng vẫn
được mọi người đồng tình. Những câu văn ngắn gióng như những bước chân đi bộ,
bước nọ nối tiếp bước kia thong thả, ung dung: Ta hân hoan biết bao khi về gần đến
nhà I Một bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại
ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cài giường tồi tàn! Trong các
chuyến đi bộ ngao du, điều kiện ăn ngủ tuy đơn sơ thiếu thốn nhưng những thú vui
tình thần lành mạnh, bổ ích sẽ đem đến cho tâm hồn ta sự sảng khoái vô biên. Nếu
cuộc đời được nối tiếp bằng những cuộc đi bộ ngạo du như thế thì chắc chắn ta sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường nên tránh được sự khoa trương
ồn ào. Mục đích của đi bộ ngao du cũng có giới hạn, không thể áp dụng nó trong tất
cả các loại hành trình: Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe
ngựa trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ. Kết luận như thố là khéo
léo, thiết thực. Trong tác phẩm, có những chỗ tác giả xưng ta và có những chỗ xưng
tôi. Tác giả xưng ta khi lí luận chung và xưng tôi khi nói về cảm nhận của mình trước
cuộc sống. Cũng có lúc những trải nghiệm riêng tư ấy lại được thể hiện dưới dạng
kể chuyện về người học trò Ê-min, tuy rằng Ê-min chỉ là nhân vật do ông tưởng tượng ra mà thôi.
Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí luận trừu tượng và vốn sống thực tế của bản thân
nên áng văn nghị luận này của Ru-xô không hề khô khan mà ngược lại rất sinh
động, giàu sức thuyết phục. Ru-xô là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu
mến thiên nhiên. Bóng dáng của núi sông, đồng ruộng, hoa lá, cỏ cây hiện lên khá
đậm nét trong bài Đi bộ ngao du, đó là nét đặc biệt làm cho bài văn nghị luận này trở
nên nhẹ nhàng, tươi mát và đầy sức sống.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 5
Đi bộ ngao du như một thiên phiếm luận, dưới hình thức "nói chơi". Thiên phiếm
luận ấy đặt trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết nên có nét đặc thù. Tác dụng của
nó không ngoài mục đích làm cho nhân vật có được một chút thư giãn, thảnh thơi cả
đầu óc và tâm hồn. Tuy chỉ là nói chơi mà không vô bổ. Đoạn văn chứng minh cho
lợi ích của việc đi bộ.
Ở vào thời điểm của thế kỉ XVIII, đây là một phát hiện bất ngờ. Cách đi (đi bộ) của
người chân đất, cách đi hành xác nhọc nhằn lại trở thành một thú chơi hơn hẳn các
phương tiện của văn minh (đi ngựa) hay bất cứ của các thành tựu khoa học nào
(ôtô, tàu hoả, tàu thuỷ,...). Câu hỏi ở đây là cách nhà văn nói thật hay nói chơi, với
người đọc cứ lởn vởn trong đầu. Cần tìm ra đáp số, phải theo dõi bài văn. Bài văn
ấy lại như một cuộc đàm đạo, nghĩa là đối thoại với người nghe một cách từ tốn,
hồn nhiên, không có gì nặng nề, áp đật.
Mở đầu là một phát hiện bất ngờ và khái quát, rồi sau đó là những luận điểm chứng
minh, mà chứng minh ấy lại nằm trong một hệ thống nói chơi nửa thực nửa đùa.
Chính từ giọng điệu ấy đã tạo ra sức thuyết phục độc đáo không tìm thấy ở một tác
phẩm nào trong thứ văn chương được gọi là nghiêm túc cả. Thì không đúng như thế hay sao?
Thứ nhất: đi bộ ngao du là cách mà con người được giải phóng, được tự do. Từ một
khái niệm về phương diện thông thường của vật chất, của sinh hoạt hằng ngày mà
người viết đã nâng lên một cái đích cao siêu của tinh thần, tư tưởng. Nó là một tiếng
reo thú vị biết bao! Nhà văn giống như người tìm ra một chân lý bất ngờ mà không
mấy ai quan tâm, để ý. Một chữ "ta" chủ thể, chủ thể của ý thích, chủ thể của hành
động, chủ thể của bản thân mình, chẳng phụ thuộc vào ai. Đoạn văn diễn tả được
cái hứng khởi tràn đầy trong bối cảnh tự do khi con người được "cởi trói" khỏi những
ràng buộc với xung quanh. "Cái tôi" của nhà văn lúc này là cả một thế giới tự do, nó
được tháo cũi sổ lồng. Này nhé: về ý thích, ta "ưa", ta muốn "nhiều ít thế nào thì tuỳ
về hành động cũng tha hồ như thế. Nào "Ta quay sang phải, sang trái, ta xem xét tất
cả những gì thấy hay hay, ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh". Câu văn, rồi cả đoạn
vãn say người chính là ở tư thế tự do mà con người ta có được. Nó là nhận thức, nó
cũng bay lượn như một nỗi niềm lần đầu được chắp cánh bởi tự do. Cái duy nhất
lúc này mà người viết phụ thuộc là chính bản thân, một bản thân không gì còn
vướng cản để tha hồ "hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ".
Cách lập luận của đoạn văn vừa là song hành vừa là móc xích. Song hành trong
cách bộc lộ một chủ thể tự do, móc xích dưới hình thức câu hỏi và tự mình giải đáp.
Vừa trần thuật giả định trong một câu chưa trọn ý "Nếu tôi mệt..." đã lập tức có một
"cái tôi" khác trả lời - trong quan hệ hô, ứng vang lên : "Nhưng Ê-min có mệt gì lắm
đâu; em to khoẻ; và sao em có thể mệt được cơ chứ?" Sự phân thân tách mình ra
làm hai con người khác kết hợp với sự hội nhập (hỏi và đáp cũng chỉ là con người
ấy) đã làm nên sắc thái đa dạng, sinh động của lời văn, không rơi vào tình thế phát
ngôn một chiều, đơn điệu. Nó hấp dẫn được người đọc, người nghe. Nó như một
tiếng reo thầm khi nhu cầu cần giãi bày, chia sẻ.
Đi bộ ngao du là cách mà con người trau dồi được tri thức một cách hồn nhiên ngoài
trường lớp, ngoài sách vở thông thường. Thiên nhiên - qua cách đi bộ ngao du mà
người ta tiếp cận - là một trường học lớn. Đó là cả một kho tàng. Những kiến thức
về nông nghiệp, về tự nhiên như những ngọn gió ùa vào qua cái cửa sổ trí tuệ mà
con người khao khát. Cách học hỏi bằng cách gần gũi với thiên nhiên, hòa mình với
thiên nhiên này khác xa, khác hẳn với cách học giáo điều, hình thức. Thiên nhiên
sống động, thiên nhiên toàn cảnh hoàn toàn không giống với những mô hình tượng
trưng trong các phòng sưu lập của "các ngài tự nhiên học" đã đành, nó một trời một
vực cả với các phòng sưu tập của những quý ngài, những đấng bậc quyền uy vào
hàng vua chúa. Bởi cái mà họ có tưởng là đủ nhưng chỉ là một nửa của sự thật mà
thôi. Còn sự thật của thiên nhiên hùng vĩ phải có linh hồn của nó, nghĩa là nơi "mọi
vật đều ở đúng chỗ" như Trái Đất đã an bài tạo nên một tổng thể hài hoà và sinh
động, một sự sắp xếp mà không một nhà khoa học tài giỏi nào có thể sắp xếp tốt hơn.
Đi bộ ngao du là cách tốt nhất để tăng cường sức khỏe. Cách trình bày luận điểm
này độc đáo ở chỗ: tác giả đặt nó trong ý nghĩa kép của cuộc đi bộ ngao du. Việc
tăng cường sức khỏe, do cách đặt vấn đề ấy như một tác dụng phụ, tác dụng bổ
sung, một công đôi việc. Câu văn vừa như một chuyển ý vừa như nêu vấn đề: "Biết
bao hứng thú khác nhau tạ tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức
khoẻ được tăng cường, tính tình trở nên vui vẻ". Câu văn tươi tắn như trạng thái cải
lão hoàn đồng. Nhờ đi bộ ngao du mà con người vốn già đi, nay trẻ lại cùng gương
mặt tươi cười đến mức chính người trong cuộc không còn nhận ra mình nữa. Đi bộ
ngao du là một liều thuốc bổ, một loại tiên dược thần kì mà nào có tốn kém gì đâu ?
Trong việc trình bày luận điểm thứ ba này, nhà văn không tự thể nghiệm mình trong
các cuộc đi bộ ngao du mà đứng ở một góc nhìn khách quan, quan sát. Người viết
so sánh hai hình thức ngao du: đi xe và đi bộ. Trong thời đại khoa học văn minh, tất
nhiên đi xe tốt hơn đi bộ vì nó nhanh hơn, đỡ vất vả hơn. Nhưng rốt cuộc cái giá của
thành tựu khoa học kĩ thuật vãn minh cũng chỉ có thế. Còn đi bộ (trong trường hợp
ngao du, nghĩa là không cần tốc độ) thì có ích cho tính tình, cơ thể hơn nhiều. Đây
là hai thái cực trái ngược nhau : "Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt
chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi
bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả". Hai trạng thái ấy là sự
vận động hay không vận động tạo ra, không có gì là lạ lùng khó hiểu cả. Nếu sức
thuyết phục của đoạn văn ở góc độ quan sát nói trên được dễ dàng thừa nhận thì
đoạn viết tiếp theo bằng một giọng điệu hân hoan, dù là chủ quan, nó cũng có rất
nhiều khả năng được chia sẻ, đồng cảm.
Những câu văn ngắn giống như những bước chân đi bộ, bước nọ nối tiếp bước kia
thật thanh thản, cởi mở, tươi cười: "Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà ! Một
bữa cơm đạm bạc mà sao có vẻ ngon lành thế ! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào
bàn ăn ! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn". Điều kiện ăn ngủ
tuy thật đơn sơ, thậm chí còn thiếu thốn của đời sống vật chất bình thường không
ngăn cản được những khoan khoái tự thân, ở cơ thể và tâm hồn mà cuộc đi bộ
ngao du đem lại. Cuộc đời ta được nối tiếp nhau bằng những cuộc đi bộ ngao du
như thế chắc sẽ trẻ mãi không già.
Bài văn khép lại bằng một ý tưởng khiêm nhường tránh cho nó biến thành giọng
điệu khoa trương, ồn ào, quảng cáo. Đi bộ ngao du chỉ có giới hạn ở mục đích có
chừng mực của nó mà thôi. Không thể tung hô nó trong tất cả các loại hành trình:
"Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngựa trạm; nhưng khi ta
muốn ngao du, thì cần phải đi bộ". Kết như thế là khéo, là rất thiết thực, vừa tầm.
Kết quả của cuộc đi bộ ngao du được xác định không kém và không hơn như thế.
Thông qua một bài văn được viết theo lối văn nhật dụng đời thường, ta thấy hiện ra
một con người có văn hoá. Ây là một Ru-xô giản dị, quý trọng tự do và yêu mến
thiên nhiên. Nhưng khi gắn bài văn vào hoàn cảnh đời tư của tác giả không nên chỉ
nhấn mạnh một chiểu, chẳng hạn, khi còn thơ ấu, ông thường bị chủ xưởng chửi
mắng đánh đập,... nên khao khát tự do, hoặc cũng từ nhỏ vì không được học hành
nên ông khao khát kiến thức. Nếu theo cái đà lập luận đó thì ông thích tăng cường
thể lực vì từ bé đã bệnh tật, ốm yếu hay sao?
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 6
Ê-min hay bàn về giáo dục là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Ru-xô.
Tác phẩm được sáng tác năm 1762, nói về vấn đề giáo dục thể lực và trí tuệ con
người. Đoạn trích Đi bộ ngao du được trích từ cuốn thứ 5 khi E-min đã khôn lớn,
trưởng thành. Với đoạn trích này, tác giả muốn khẳng định đi bộ có ý nghĩa, vai trò
vô cùng lớn đối với mỗi chúng ta.
Văn bản Đi bộ ngao du nêu lên vấn đề chính là lợi ích của việc đi bộ. Để làm sáng tỏ
luận điểm này, người viết đã đưa ra ba lập luận lớn: Đi bộ đem lại cho chúng ta sự
tự do, đi bộ cũng là dịp giúp con người trau dồi tri thức và cuối cùng đi bộ làm cho ta
thêm phần khỏe mạnh. Và ở mỗi lập luận này ông đã đưa ra những dẫn chứng hết
sức phong phú và thuyết phục.
Trước hết đi bộ đem đến cho chúng ta sự tự do, thoải mái, mà khi đi ngựa sẽ không
bao giờ chúng ta cảm nhận được điều đó: “Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc
nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy… ta quay sang phải, sang
trái…”. Quả thực đi bộ đem đến cho ta tất cả sự chủ động, giải phóng con người,
khiến ta không phụ thuộc vào bất cứ điều gì. Giọng văn trong đoạn hứng khởi, tràn
đầy năng lượng, giúp người đọc tin tưởng hơn nữa vào những lợi ích của việc đi bộ.
“Tôi đi bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy”, “Tôi chẳng phụ thuộc vào con ngựa
hay gã phụ trạm” “Tôi hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thẻ hương thụ”…
Sự tự do chắp cánh cho con người thỏa mãn mọi nhu cầu mong muốn của mình.
Không chỉ đem đến sự tự do, thoải mái, đi bộ còn cung cấp cho chúng ta nguồn tri
thức dồi dào, phong phú. Để chứng minh luận điểm này, ông đã lấy những dẫn
chứng từ thực tiễn cuộc sống. Những nhà khoa học nổi tiếng thế giới như Ta-lét,
Pla-tông,… đều dùng đi bộ để quan sát, tìm tòi và khám phá thế giới. Đi bộ còn giúp
ta khám phá những đặc sản nông nghiệp, sưu tập những viên đá, hòn sỏi, xem xét
các giống cây trồng,… cả thế giới bao la kia sẽ được ta chiếm lĩnh qua những hành
trình đi bộ đầy lí thú. Đặc biệt, tác giả có lối so sánh rất thú vị để khẳng định tính
chính xác của những lí lẽ: ông so sánh phòng khách của những nhà tự nhiên học
cũng chẳng thể phong phú bằng phòng sưu tập của Ê-min, hơn thế, họ sưu tập mà
chẳng hề có ý niệm về những thứ mà mình đang trưng bày. Với phép so sánh đầy
sức thuyết phục ấy càng củng cố hơn nữa niềm tin cho người đọc về công dụng của việc đi bộ
Cuối cùng đi bộ đem lại sức khỏe cho con người. Không chỉ sức khỏe được tăng
cường mà tính khí còn trở nên hoạt bát, vui vẻ, còn điều gì tuyệt vời hơn thế. Ở đây
tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp so sánh, nhưng người đi xe thường buồn bã, cáu
kỉnh còn như Ê-min tung tăng trên đôi chân của mình lại luôn vui vẻ, khoan khoái.
Với cách viết thâm trầm, giản dị, giọng văn thay đổi linh hoạt, tác giả đã cho thấy rõ
những lợi ích, vai trò to lớn của việc đi bộ. Đi bộ là cách tốt nhất để con người phát
triển toàn diện cả về thể lực và trí lực. Bài văn tuy đã ra đời hàng thế kỉ những vẫn
giữ nguyên ý nghĩa và giá trị của nó.
Phân tích tác phẩm Đi bộ ngao du - Mẫu 7
Ru-xô là một nhà văn vô cùng giản dị, quý trọng tự do và đặc biệt là rất yêu thiên
nhiên. Chính vì thế, bài “Đi bộ ngao du” của ông đã làm cho người đọc hiểu được lợi
ích của việc đi bộ bằng những cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác thực.
Thật vậy, đi bộ là một môn thể thao mang lại rất nhiều lợi ích cho con người. Khi đi
bộ, ta hoàn toàn được tự do, tùy theo thích của mình, không hề bị lệ thuộc vào bất
cứ ai, bất cứ cái gì. Điều chủ động nhất là ta thích đi đâu thì đi, dừng lúc nào thì
dừng hay hoạt động nhiều ít thế nào là tùy ở ta. Không những thế, ta có thể quan
sát khắp nơi, có thể ngắm những gì mà ta yêu thích: “Quay sang phải, sang trái, ta
xem tất cả những gì ta thấy hay hay. Bất cứ đâu ta thích, ta lưu lại đấy, lúc nào chán,