Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất - Triết học Mac - Lenin | Đại học Văn Lang
Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất - Triết học Mac - Lenin | Đại học Văn Lang giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học
Preview text:
VẬT CHẤT VÀ PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng của chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù
vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với những tiến bộ khoa học và thực tiễn.
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về phạm trù vật chất:
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp – La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ đã xuất
hiện chủ nghĩa duy vật với quan niệm chất phác về giới tự nhiên, về vật chất. Nhìn chung,
các nhà duy vật thời Cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể của nó và xem
chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính
đang tồn tại ở thế giới bên ngoài, chẳng hạn, nước, lửa, không khí; Kim, mộc, thủy , hỏa, thổ (Ngũ hành – TQ) v.v…
Anaximander – một nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong
một vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là
Aperion. Theo ông, Aperion luôn ở trong trạng thái vận động và từ đó nảy sinh ra những
mặt đối lập chất chứa trọng nó như nóng và lạnh, khô và ướt v.v… Đây là một cố gắng
muốn thoát ly cách nhìn trực quan về vật chất, muốn tìm một bản chất sâu sắc hơn đang ẩn
dấu phía sau các hiện tượng cảm tính bề ngoài các sự vật.
Hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại Lơxíp và Đêmôcrít đều cho rằng vật chất là nguyên tử, là
những hạt nhỏ nhất không thể phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự
phong phú của chúng về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn
vật. quan niệm này không những thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết học trong
quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như một dự báo
khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV – XVIII mang hình thức chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy
móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết học và khoa học tự nhiên thời kì Phục Hưng
và Cận đại tiếp tực nghiên cứu khẳng định trên lập trường duy vật. Đặc biệt những thành
công kì diệu của Niutơn trong vật lí học cổ điển và việc khoa học vật lý thực nghiệm chứng
minh được sự tồn tại của nguyên tử ngày càng làm cho quan niệm trên đây được củng cố thêm.
Song, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên nhìn chung các nhà triết học
duy vật thời kỳ cận đại đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn. Họ
thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý
không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần
túý cơ học; xem vật chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau,
không có mối liên hệ nội tại với nhau... Cũng có một số nhà triết học thời kỳ này cố gắng
vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử nhưng không nhiều và không thể làm thay đối
căn bản cái nhìn cơ học về thế giới, không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới về phạm trù vật chất.
Cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và sự phá sản của
các cơ quan điểm duy vật siêu hình về vật chất:
I. Những phát hiện khoa học và lung lay của chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani.
- Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử.
- Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến
mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử.
- Năm 1898 - 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie,
nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium.
- Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và năm 1916, Thuyết Tương đối Tổng quát của A
Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự
vận động của vật chất.
Thế giới vật chất không có và không thể có những vật thể không có kết cấu không thể
có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến để đặc trưng chung cho vật chất. Điều
này đã khẳng định dự đoán thiên tài của V.I. Lênin: “điện tử cũng vô cùng tận như nguyên
tử, tự nhiên là vô tận” là hoàn toàn đúng đắn
II. Sự sụp đổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình và sự đi lên của chủ nghĩa duy tâm
Không ít nhà khoa học và triết học đã hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn củachủ
nghĩa duy vật → Nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã,
bị mất đi; có hiện tượng không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường, cũng có nghĩ
là vật chất chỉ còn là năng lượng, sóng phi vật chất...
→Khách thể biến mất, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn lại là cảm giác cùng tư duy của
chúng ta để tổ chức những cảm giác đó.
→Một số nhà khoa học tự nhiên từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang chủ nghĩa tương đối và
rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
→Nhân cơ hội một số nhà khoa học và triết học đang hoài nghi về của nghĩ duy vật, nên
một số nhà khoa học, triết học duy tâm đã phủ nhận quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
*Trong bối cảnh như vậy: V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp đó và chỉ rõ:
Vật lý học không bị khủng hoảng, mà đó là dấu hiệu của một cuộc cáchmạng trong khoa học tự nhiên.
Cái bị tiêu tan không phải là nguyên tử, không phải vật chất tiêu tan mà chỉcó giới hạn
hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan.
Những phát hiện, phát minh có giá trị to lớn của vật lý học không hề bác bỏvật chất mà chỉ
làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chết của con người về vật chất.
→ Những giới hạn vượt quá tầm hiểu biết của con người không thể giải thích được bằng
phương pháp luận duy vật siêu hình thì cần phải thay đổi sang một phương pháp tư duy mới
trong triết học và khoa học tự nhiên và khoa học nói chung đó là biện chứng duy vật.
Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật chất:
C. MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN:
Vật chất, với tính cách là vật chất, một sáng tạo thuần túy của tư duy, và là một trừu tượng
thuần túy, không có sự tồn tại cảm tính.
- Bản thân phạm trù vật chất cũng không phải là sự sáng tạo tuỳ tiện của tư duy con người,
mà trái lại, là kết quả của “con đường trừu tượng hoá” của tư duy con người về các sự vật,
hiện tượng “có thể cảm biết được bằng các giác quan.
- Xét về thực chất, nội hàm của các phạm trù triết học nói chung, của phạm trù vật chất nói
riêng chẳng qua chỉ là “sự tóm tắt trong chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung” của
tính phong phú, muôn vẻ nhưng có thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự vật,
hiện tượng của thế giới vật chất.
- Các sự vật, hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một
đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại, độc lập không lệ thuộc vào ý thức. LÊNIN:
- Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
“Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận
đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”
Theo V.I.Lênin, trong đời sống xã hội thì "khách quan không phải theo ý nghĩa là một xã hội
những sinh vật có ý thức, những con người, có thể tồn tại và phát triểnkhông phụ thuộc vào
sự tồn tại của những sinh vật có ý thức (...), mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
V.I.Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình
thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn
biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà bàn đến
nó trong mối quan hệ với ý thức của con người.
Trong đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là
cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái
phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường nhất nguyên duy vật của
V.I.Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh
thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...), lại luôn luôn có nguồn gốc
từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung
của chúng) chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng
đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác-Lênin
+ Giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống
CNDT, thuyết không thể biết, CNDV siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư
sản hiện dại về phạm trù này
+ Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
+ Tạo sự liên kết giữa CNDVBC và CNDV lịch sử thành 1 hệ thống lí luận thống nhất, góp
phần tạo nên nền tảng lí luận khoa học cho việc phân tích 1 cách duy vật biện chứng các vấn đề của CNDV lịch sử.
Phương thức tồn tại của vật chất:
Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Ví dụ: có những vận động có thể quan sát thấy bằng mắt thường: lá rơi, diều bay; có nh)ng
vận động ko thể thấy: tư duy, dòng suy nghĩ.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của nó với các hình dạng phong phú, muôn vẻ, vô tận. Ví dụ: để biết một cái cây còn
sống hay đã chết dựa vào quá trình vận động sinh học, cụ thể hơn là quá trình trao đổi chất
của tế bào. => sự trao đổi chất là biểu hiện tồn tại về mặt sinh học của cây.
+ Con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong
quá trình vận động.=> để có thể nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng khách quan, cần
quan sát cả quá trình vận động của nó.
- Vận động là một thuộc tính cố hữu (vốn có) của vật chất
Vận động và vật chất ko tách rời nhau. Không có vật chất nào mà không vận động, cũng như
không có vận động nào mà không gắn liền với vật chất.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là tự thân vận động không do một lực lượng phi
vật chất nào tạo ra, nó tồn tại v nh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm về
tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các nhà khoa học tự nhiên
chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Theo quy luật này, vận động
của vật chất được bảo toàn cả về số lượng và chất lượng.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất bao gồm: Vận động cơ học, vận động vật
lý, vận động hoá học, vận động sinh học, vận động xã hội.
+ Vận động cơ học: ví dụ: người chạy từ điểm A đến điểm B.
+ Vận động vật lý. Ví dụ: sự chuyển động của các electron trong dòng điện
+ Vận động hoá học. Ví dụ: vỏ tàu bị oxi hóa sau thời gian dài di chuyển trên biển
+ Vận động sinh học. Ví dụ: quá trình trao đổi chất trong cơ thể sinh vật
+ Vận động xã hội: Ví dụ: đấu tranh giành độc lập dân tộc, đấu tranh đòi bình đẳng
-Khác nhau do sự quy định kết cấu vật chất của sự vật, hiện tượng
+ Các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh
trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp;
+ Hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về
hình thức vận động thấp. Việc quy giản hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp
có thể dẫn đến sai lầm.
* Vận động và đứng im
- đứng im là hiện tượng có tính tương đối, khi xem xét sự vật, hiện tượng trong một mối quan hệ nhất định.
Ví dụ: khi di chuyển trên đường, con người đứng im so với xe, nhưng chuyển động so với vật ven đường
* Không gian và thời gian
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quáng tính, chỉ sự tồn tại xét về vị
trí, kết cấu, quy mô và sự cùng tồn tại, trật tự giữa các sự vật, hiện tượng. Không gian có
tính ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao)
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp
của các quá trình. Thời gian chỉ có tính một chiều (từ quá khứ tới tương lai).=> Không thể
thay đổi quá khứ, nhưng có thể học từ quá khứ, sống ở hiện tại và hướng về tương lai.
- Tính chất của không gian, thời gian:
+ Tính khách quan: Không gian - thời gian là thuộc tính của vật chất, vật chất tồn tại khách
quan, nên không gian - thời gian cũng tồn tại khách quan.
+ Tính không tách rời nhau và không tách rời phương thức vận động: Không gian và thời
gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng
không tách rời nhau.=> thực chất không gian và thời gian là một thể thống nhất không gian -
thời gian. Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
+ Tính vĩnh cửu và vô tận: Vật chất là vĩnh cửu và vô tận, nên không gian - thời gian cũng
vĩnh cửu, vô tận theo mọi phía.
Tính thống nhất vật chất của thế giới:
A, Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới:
Sự tồn tại của thế giới là hết sức phong phú về dạng, loại. Có tồn tại vật chất và tồn tại tinh
thần. Có tồn tại khách quan và tồn tại chủ quan. Có tồn tại của tự nhiên và tồn tại của xã hội
nhưng quy luật phát triển của lịch sử tư tưởng triết học vừa cho phép lại vừa đòi hỏi con
người không thể dừng lại ở việc khẳng định hay phủ định tồn tại nói chung, mà phải đi đến
quan niệm về bản chất của tồn tại. Theo đó hình thành hai trường phái đối lập trong việc giải
quyết vấn đề này chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản
chất của nó là vật chất trái lại các nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ có thế giới tinh thần
mới tồn tại nên bản chất của tồn tại cũng là tinh thần
B, Thế giới thống nhất ở tính vật chất:
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học, chủ nghĩa
duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Điều đó thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
-Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất có trước
tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
-Các sự vật trong thế giới đều có những dạng tồn tại khác nhau của thế giới vật chất, nó có
mối liên hệ với nhau và cũng bị chi phối bởi các quy luật khách quan.
-Thế giới đó tồn tại vĩnh viễn, không ai sinh ra và không mất đi, vô hạn và vô tận, chúng vận
động, chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ:
-Vật lý học hiện đại đã chứng minh sự tồn tại khách quan của các hạt cơ bản
-Khoa học đã chứng minh sự thống nhất vật chất của thế giới bị gì ở sự thống nhất giữa vô cơ và hữu cơ
-Sinh vật học đã chứng minh thực vật động vật và cơ thể con người có thành phần vô cơ không khác nhau
Thế giới bao gồm cả tự nhiên và xã hội về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất.
Ph. Ăngghen kết luận: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là tính vật chất của nó, mà tính
vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm cho ảo
thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên