lOMoARcPSD| 48302938
1
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Phần 1: Nội dung chính của bài
Đặt vấn đề:
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản, nền tảng của triết học, mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức nguyên gốc, đồng thời là xuất phát điểm
quan trọng để nhận thức giải quyết tất cả các nguyên lý, quy luật, phạm trù của
triết học Mác - Lênin.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở thế giới quan phương
pháp luận giải quyết có hiệu quả mối quan hệ khách quan, chủ quan trong đời sống
xã hội.
1 . Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C. Mác về
phạm trù vật chất
- Các nhà triết học duy tâm: Phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất
cho rằng cơ sở của mọi sự tồn tại là bản nguyên tinh thần nào đó.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới tự
nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của do “sự tha hóa” của “tinh thần thế
giới”.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật,
hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của
ý thức.
- Các nhà triết học duy vật trước Mác: khẳng định thế giới vật chất tồn tại
khách quan không lthuộc vào ý thức con người. Nhưng đồng nhất vật chất với một
hay một số vật thể cụ thể, yếu tố cụ thể nào đó.
+ Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: Các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật
chất với những dạng cụ thể ca nó.
* Thales coi bản nguyên của thế giới là “nước”. (Theo ông, mọi sự vật đều được
sinh ra từ nước, khi phân hủy lại biến thành nước. Mọi sự vật có sinh ra mất đi,
chỉ có nước là tn tại mãi mãi).
* Heraclítus cho rằng bản nguyên của thế giới “lửa” * Anaximenes bản
nguyên của thế giới là “không khí”.
* Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại thuộc về các nhà nguyên tử
luận Lơxíp (khoảng 500 - 440 trước CN) Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 trước CN).
Ông cho rằng, thế giới được tạo thành bởi các nguyên tử. Nguyên tử theo ông
những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn, phong phú về hình dạng,
tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII: Nền khoa học tự nhiên thực nghiệm
châu Âu nhờ ứng dụng được những thành tựu vật học toán học đã phát triển
một cách mạnh mẽ. Quan điểm siêu hình - máy móc chi phối những hiểu biết triết
học về vật chất. Vì vậy, các nhà triết học và khoa học đã nhìn thế giới như một bức
tranh cơ học. Thể hiện:
* Đồng nhất vật chất với khối lượng hoặc nguyên tử.
lOMoARcPSD| 48302938
2
* Coi vận động của vật chất chỉ biểu hiện của vận động học; nguồn gốc
vận động nằm ngoài vật chất; tách rời vận động, không gian, thời gian với vật chất.
b) Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và
sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã m phá sản các quan điểm duy vật siêu hình vvật
chất.
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X ( khả năng xuyên qua nhiều vật
ngày nay được ứng dụng trong chụp ảnh y tế, nghiên cứu tinh thể, hay kiểm tra hành
hành khách trong an ninh hàng không…) (từ đó khẳng định nguyên tử thể bị
thẩm thấu).
- Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. (Phóng xạ hiện
tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi phát ra các bức xạ hạt
nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ) đã bác bỏ quan niệm về sự bất biến của
nguyên tử.
- Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được nó là một trong
những thành phần cấu tạo nên nguyên tử (điều đó chng tỏ nguyên tử thể phân
chia được). Nhphát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của
nguyên tử được chứng minh bằng thực nghiệm.
- Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải
bất biến, mà thay đổi phụ thuộc vào tốc độ vận động của nó.
- Năm 1905, Anhxtanh phát minh ra thuyết tương đối hẹp năm 1916, ông
đưa ra thuyết tương đối tổng quát, chứng minh được không gian, thời gian, khối
lượng không phải là bất biến. Nó là đặc trưng chung cho vật chất.
Như vậy, từ phát minh khoa học trên chứng minh nguyên tử cấu trúc phức
tạp và không phải là nhỏ nhất có thể bị phân ra và chuyển hóa. Do đó, những
quan niệm đương thời về giới hạn cuối cùng của vật chất nguyên tử hay khối lượng
đã bị sụp đổ. Đây chính hội để CNDT lợi dụng, cho rằng “vật chất” của CNDV
đã tiêu tan, nền tảng của CNDV đã sụp đổ, một số nhà triết học duy vật hoang mang
trượt dần sang chủ nghĩa duy tâm.
Đây chính cuộc khủng hoảng vật học hiện đại n V.I. Lênin khẳng
định, thực chất của “là sự đảo lộn của những quy luật những nguyên
cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ
nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”.
c) Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy m, thuyết bất khả tri phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C. Mác Ph. Ăngghen đã đưa ra những tưởng
rất quan trọng về vật chất.
V.I. Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa
học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn
hoặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật
chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ phát triển quan niệm duy
vật biện chứng về phạm trù vật chất.
lOMoARcPSD| 48302938
3
Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V.I. Lênin đặc
biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa
những tư tưởng của C. Mác Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã định nghĩa vật chất với
tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên
phương diện nhận thức luận bản. V.I. Lênin viết: “không thể đem lại cho hai khái
niệm nhận thức luận này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai
khái niệm đó, cái nào được coi là có trước”.
Triết học duy vật đứng trước yêu cầu cần bảo vệ và phát triển. Trong bối cảnh
lịch sử đó, năm 1908 trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” của V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất.
Định nghĩa phạm trù vật chất của V.I. Lênin được phát biểu như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. (V.I Lênin, Toàn tập, tập 18 ,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 151).
Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
- Thnhất, vật chất thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
+ Vật chất với cách phạm trù triết học, dùng để phân biệt với các phạm
trù khoa học cụ thể.
Phạm trù triết học những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất ca toàn bộ thế giới hiện thực
(bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy)
Đã phạm trù thì đều sản phẩm của tư duy được khái quát thiện thực,
nhưng vật chất là phạm trù triết học ngoại diên rộng lớn, vô cùng, tận; còn các
phạm trù của khoa học cụ thể có phạm vi hẹp, giới hạn nhất định.
dụ: Các phạm trù của các khoa học cụ thể như: các phạm tnguyên tử, phân
tử của hóa sinh; phạm ttế bào của sinh học; phạm trù mô của mô học; các phạm
trù cơ quan, hệ cơ quan, sinh vật, các quần thể loài của sinh lý học, các phạm trù hệ
sinh thái các loài, sinh quyển của sinh thái học; phạm trù giải phẫu mỹ thuật, giải
phẫu nhân chủng, giải phẫu nhân trắc, giải phẫu thể dục thể thao, giải phẫu so sánh
của giải phẫu y học; Còn phạm trù triết học như phạm trù vật chất, ý thức, vận động,
không gian, thời gian…
Như vậy, phạm trù khoa học cụ thể khác với phạm trù của triết học ở phạm vi
phản ánh. Các phạm trù của khoa học cụ thể phạm vi phản ánh chỉ dừng lại một
lĩnh vực cụ thể của thế giới, còn phạm trù triết học phạm vi phản ánh của bao
quát toàn bộ thế giới hiện thực (bao gồm tự nhiên, xã hội và tư duy).
+ Vật chất với cách phạm trù triết học, vừa mang tính trừu tượng vừa mang
tính cụ thể.
Từ việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cụ thể, cảm tính tồn tại trong thế giới
khách quan con người khái quát những thuộc tính chung, phổ biến của chúng thể
hiện trong phạm trù, là tồn tại khách quan và độc lập với tư duy của con người.
lOMoARcPSD| 48302938
4
Nói như Ph. Ăngghen “Ta có thể ăn được trái cam, trái đào những trái cây cụ
thể nhưng không thể ăn được trái cây” vì nó là một khái niệm của sự trừu tượng hóa
chỉ các loại trái cây nói chung.
Vì vây, khi nghiên cứu vấn đề này của phạm trù triết học chúng ta cần chú ý:
Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi phồng tính trừu tượng mà quên đi tính cụ thể thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Ngược lại, chỉ thấy nh hiện thực cụ thể sẽ đồng nhất
giữa vật chất và vật thể (của chủ nghĩa duy vật siêu hình).
+ Vật chất là thực tại khách quan: Thuộc tính TTKQ là thuộc tính cơ bản của
vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt vật chất với ý thức. Vật chất nói chung là tất cả
những gì tồn tại khách quan độc lập bên ngoài ý thức con người, không phụ thuộc
vào ý thức con người và loài người.
Nội dung này cũng khẳng định, thuộc tính TTKQ là thuộc tính của vật chất, là
tiêu chuẩn bản duy nhất để phân biệt cái là vật chất, cái không phải vật
chất ( Nghĩa là, tất cả những tồn tại khách quan độc lập bên ngoài ý thức con
người, không phụ thuộc vào ý thức con người là thuộc về phạm trù vật chất).
Như chúng ta đã thấy, mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, tnhững cái
đã biết đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện
tượng cùng “kỳ lạ”, tồn tại trong tự nhiên hay trong hội cũng đều tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều
là các dạng cụ thể của vật chất.
dụ: Cái bàn, ghế, quạt, phấn, bảng… đây rất nhiều thuộc tính khác nhau
(có thể thuộc tính về trọng lượng nặng nhẹ, khối lượng to, nhỏ, màu sắc, hình
dáng khác nhau) nhưng tất cả cái bàn, ghế, quạt...có thuộc tính chung nhất là tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức ca chúng ta.
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem
lại cho con người cảm giác.
Vật chất thực tại khách quan chính nguồn gốc khách quan, nguyên nhân
sinh ra ý thức, ý thức chlà sphản ánh hiện thực khách quan. Do đó, vật chất
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức. (Ở đây Lênin đã giải
quyết mặt thứ nhất vấn đề bản của triết học đó vật chất ý thức cái nào
trước, cái nào có sau, cái nào quyết địnhi nào).
V.I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện
tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực ca mình dưới dạng các thực
thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
Mặc dù không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khi tác động lên
giác quan của con người đều được các gc quan con người nhận biết; cái phải
qua dụng cụ khoa học, thậm chí cái bằng dụng cụ khoa học nhưng cũng chưa biết;
cái đến nay vẫn chưa dụng cụ khoa học để biết được; song, nếu tồn tại
khách quan, hiện thực bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con
người thì nó vẫn là vật chất.
Vì vậy, quan điểm này chống lại quan điểm chủ nghĩa duy tâm khi cho rằng ý
thức quyết định vật chất, hay vật chất do lực lượng siêu nhiên sinh ra.
lOMoARcPSD| 48302938
5
- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Chỉ một thế giới duy nhất thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy
luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng - hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng
tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...) lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng
vật chất và những được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng)
chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang
tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan.
Vì vậy, về nguyên tắc không đối tượng vật chất nào là không nhận thức được,
chỉ có những đối tượng vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
Do đó, giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học: Con người có
khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Với quan điểm y, Lênin chỉ ra rằng vật chất tồn tại khách quan, nhưng không
phải tồn tại một cách thần tồn tại dưới dạng những sự vật, hiện tượng cụ
thể. Bằng các giác quan (phương thức nhận thức khác nhau như chụp lại, chép lại)
của con người chúng ta có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Như vậy với nội dung này, Lênin đã giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản
của triết học; vừa chứng minh được khả năng nhận thức của con người, vừa bác bỏ
“thuyết không thể biết” phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác – Lênin
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề bản của triết
học.
- Khắc phục được quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất của chnghĩa duy
vật trước Mác. Đồng thời, chống lại quan niệm sai lầm vvật chất của chủ nghĩa
duy tâm và thuyết không thể biết.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới phải tôn trọng hành
động theo quy luật khách quan. Chống chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, bất chấp quy luật khách quan.
d) Phương thức tồn tại của vật chất
* Vận động
Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là mọi sự biến đổi nói chung.
Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy” .
- Vai trò của vận động với vật chất: Vận động phương thức tồn tại của vật
chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất không thể không thuộc tính vận động. Vận động của vật
chất diễn ra tự thân.
+ Vật chất chỉ thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động
biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận.
lOMoARcPSD| 48302938
6
Đó là, chỉ trong vận động và thông qua vận động thì các dạng vật chất mới
thể hiện được đặc tính của mình.
Ví dụ: Trong thực tế cho thấy rất rõ là phẩm chất, năng lực của một con người
cụ thể chỉ được thể hiện thông qua hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn của người đó.
Hay đặc tính của một căn bệnh cụ thể nào đó chỉ được thể hiện thông qua các
giai đoạn biển đổi của từ khới phát cho tới bùng phát cho tới lui bệnh khỏi
bệnh.
Chính vậy mà con người chỉ có thể nhận thức được các sự vật vật chất thông
qua sự vận động ca . Về vấn đề này Ăngghen đã viết rằng: “Các hình thức các
dạng khác nhau của vật chất chỉ thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc
tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một vật thể không vận động thì không
có gì nói cả”. [ M.A. toàn tập Nxb CTQG. Hà Nội, 1994, Tập 2, tr 743].
+ Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu
diệt.
Đó là, sức mạnh làm cho vật chất vận động không phải nằm ngoài vật chất như
quan điểm duy m hoặc siêu hình về vận động là sức mạnh làm cho vật chất vận
động là của bản thân vật chất. Sức mạnh đó là do sự tác động lẫn nhau của chính các
thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất gây nên sự vận động. Do đó, vận động của
vật chất không do ai sáng tạo ra tiêu diệt được, vận động của vật chất được bảo
toàn cả về số lượng và chất lượng. Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn cùng vật
chất.
Ví dụ: Sự vận động của nguyên tử là do sự tương tác giữa hạt nhân và điện tử
trong bản thân nguyên tử
Sự vận động phát triển của một thể sống do sự tương tác giữa các
quan, các quá trình diễn ra trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường.
Sự vận động phát triển của một xã hội là do sự tương tác của chính các yếu tố
cấu thành một cơ thể xã hội.
- Những hình thức vận động cơ bản ca vật chất
+ Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy
mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của
thời đại mình, Ăngghen đã chia vận động ca vật chất thành năm hình thức cơ bản:
Vận động cơ giới: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian
Vận động vật lý: Đó vận động của các phân tử, điện tử, các hạt bản, các
quá trình nhiệt, điện …
Vận động hoá: Đó là quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
Vận động sinh vật: Đó là sự biến đổi của các cơ thể sống, biến đổi của cấu trúc
gien…
Vận động hội: Đó sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá..,
sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội.
+ Các hình thức vận động trên có quan hệ với nhau như sau :
Thứ nhất, các hình thức vận động trên các trình độ từ thấp đến cao, tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất.
lOMoARcPSD| 48302938
7
Thứ hai, chúng khác nhau về chất. Nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó, các hình thức vận động cao xuất hiện trên sở các hình thức vận động thấp,
bao hàm trong các hình thức vận động thấp hơn. Các hình thức vận động thấp
không có khả năng bao hàmnh thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy mọi sự
quy giản các hình thức vận động cao vhình thức vận động thấp đều sai lầm. Giữa
hai hình thức vận động cao thấp thể hình thức vận động trung gian, đó
những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức
vận động.
Thứ ba, trong sự tồn tại ca mình, mỗi một svật thể nhiều hình thức vận
động khác nhau, nhưng bản thân sự vật ấy bao giờ cũng đ¬ợc đặc trưng, bởi hình
thức vận động cao nhất mà nó có.
- Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối, tạm thời.
+ Đứng im khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện
sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển
hoá của vật chất.
+ Đứng im mang tính chất tương đối tạm thời thể hiện ở chỗ: chỉ xảy ra trong
một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời
điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, một lúc nào đó, chứ không
phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động.
dụ: Tàu hỏa đang đỗ trên sân ga đứng im đó trong mối quan hệ với
đường ray, còn so với mặt trời các thiên thể khác thì vận động theo sự vận
động của quả đất.
Đứng im chsự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành, duy trì
sự tồn tại ổn định của một sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng, vận động nói chung,
tức là sự tác động qua lại của vô số các sự vật, hiện tượng, lại làm cho tất cả các sự
vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, cho nên đứng im chỉ tương đối, tạm thời. Mặc
mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực”
sự tồn tại thực sự của vật chất, điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
* Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.
- Khái niệm không gian và thời gian :
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng nh, sự cùng
tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Như vậy, phạm trù không gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về vị trí, quảng tính (độ dài - ngắn, cao- thấp, hình thức kết
cấu…) mối tương quan với các dạng vật chất khác (ở trên hay dưới, trước hay sau,
phải hay trái…).
lOMoARcPSD| 48302938
8
+ Thời gian hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn
biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Như vậy, phạm trù thời gian sự khái quát các thuộc tính chung của mọi s
vật tồn tại khách quan vsự vận động biến đổi diễn ra nhanh hay chậm, trình tự vận
động, biến đổi diễn ra kế tiếp qua các giai đoạn trước, sau …
- Vai trò của không gian và thi gian
Không gian thời gian là những hình thức tồn tại ca vật chất vận động, được
con người khái quát khi nhận thức thế giới.
+ Không gian và thời gian là những thuộc tính vốn có của vật chất. Không có
không gian thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong
thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian” .
+ Các sự vật vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình qua không gian, thời gian
của nó.
Đó là, chtrong không gian và thời gian của mình thì các sự vật vật chất mới
thể hiện được sự tồn tại của như thế nào. Chính vậy để nhận thức được về
các sự vật vật chất ta phải nhận thức chúng trong không gian thời gian của chúng.
Điều này Ăngghen đã viết: “Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian
thời gian: tồn tại ngoài thời gian cũng hết sức nh¬ư tồn tại ngoài không
gian”.
dụ: Để biết nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thế nào
thì phải nhận thức nó gắn với cả không gian và thời gian của nó.
+ Không gian và thời gian phụ thuộc vào vật chất vận động
Vấn đề này đã được xác nhận bởi những thành tựu của KHTN, đặc biệt là đầu
TK XX thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng, không gian và thời gian
không tự nó tồn tại tách rời vật chất và luôn phụ thuộc vào vật chất vận động.
- Mối quan hệ giữa không gian và thời gian
+ Không gian thời gian hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một
quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể svật, hiện tượng nào thời gian
tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định.
+ Tính chất của không gian sự biến đổi của bao giờ cũng gắn liền với
tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian,
về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.
- Tính chất của không gian và thời gian
+ Vật chất có ba chiều không gian và mt chiều thời gian.
Theo nghĩa chung nhất không gian có 3 chiều: dài, rộng, cao. Còn thời gian chỉ
có 1 chiều: từ quá khứ đến tương lai
Các tính chất của không gian thời gian chính biểu hiện hình thức tồn tại
về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi
lẫn tính chất.
lOMoARcPSD| 48302938
9
Nghĩa là không gian và thời gian không có giới hạn, không có tận cùng về một
phía nào cả, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước- sau, trên - dưới, phải
- trái.
đ) Tính thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Để xem xét về tính thống nhất của thế giới phải thừa nhận stồn tại của nó.
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại phạm trù dùng để chỉ tính thực của thế giới
xung quanh con người. Khẳng định sự tồn tại gạt bỏ những nghi ngờ về tính không
thực, sự hư vô, tức là gạt bỏ sự “không tồn tại”.
Chủ nghĩa duy vật quan niệm tồn tại của thế giới như một chỉnh thể bản
chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ thế giới
tinh thần mới tồn tại nên bản chất của tồn tại cũng là tinh thần.
* Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học khoa học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Một là, ch một thế giới duy nhất và thống nhất thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con
người phản ánh.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau,
biểu hiện chỗ chúng đều những dạng cụ thể của vật chất, sản phẩm của vật
chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật
chất.
Ba là, Thế giới vật chất không do ai sinh ra cũng không tự mất đi, tồn tại
vĩnh viễn, hạn tận. Trong thế giới, các svật, hiện tượng luôn luôn vận
động, biến đổi không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và
kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
Tính thống nhất vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi các thành tựu
khoa học và bởi chính cuộc sống hiện thực của con người.
Những căn cứ khoa học cho luận điểm trên:
Một là, thiên văn học, quang phổ, trụ, chứng minh không thế giới siêu
nhiên nào.
Hai là, sinh vật học từ phát hiện tế bào đến thuyết về gen về các phân tử
ADN và ARN là các bậc thang của quá trình tiến hóa của thế giới vật chất, của thực
vật, động vật cho tới con người.
Ba là, thành tựu mới về thiên văn học, cơ học lượng tử, thuyết tương đối cùng
với sự phát hiện ra trường hạt phản hạt càng chứng minh không thế giới phi
vật chất.
Bốn là, xã hội loài người suy cho cùng cũng là cấp độ đặc biệt của tổ chức vật
chất. hội loài người một bộ phận của thế giới vật chất, nền tảng tự nhiên,
tiến hóa từ giới tự nhiên, kết cấu quy luật vận động khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức của con người. Con người có vai trò năng động sáng tạo trong thế
giới vật chất trên cơ sở dựa vào quy luật của thế giới vật chất.
lOMoARcPSD| 48302938
10
Kết luận: Như vậy thế giới cả TN XH, con người về bản chất vật chất,
thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng
và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. 2 . Nguồn gốc, bản chất
và kết cấu của ý thức
a) Nguồn gốc ca ý thức
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý
thức là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật
chất.
Đại biểu tiêu biểu như Platôn, G. Hêghen đã tuyệt đối hoá vai trò của lý tính,
khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm tuyệt đối” là bản thể, sinh ra toàn bộ thế
giới hiện thực. Ý thức của con người chỉ s“hồi tưởng” về “ý niệm”, hay “tự ý
thức” lại “ý niệm tuyệt đối”.
Đại biểu như G.Béccơli, E.Makhơ lại tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi ý
thức của con người là do cảm giác sinh ra.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình
phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát từ thế giới hiện
thực để lý giải nguồn gốc của ý thức nhưng họ lại đồng nhất vật chất với ý thức.
Chẳng hạn, Phôgơtơ cho rằng óc tiết ra tư tưởng (ý thức) giống như gan tiết ra
mật, như tuyến vị tiết ra dịch vị mà thôi.
Phoiơbắc: Thừa nhận ý thức sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong
bộ óc của con người. Song do không thấy được bản chất xã hội của con người, nên
không thấy được yếu tố xã hội, lịch sử của ý thức. Ông hiểu ý thức một cách chung
chung, trừu tượng, không thấy được bản chất xã hội của ý thức.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Cho rằng ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải
của mọi dạng vật chất, mà thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao
nhất là bộ óc người.
+ Ý thức là thuộc tính của bộ não người - một dạng vật chất có tổ chức cao
cấu trúc tinh vi, phức tạp.
Ý thức luôn tồn tại trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ não người nên
khi bộ óc người bị tổn thương sẽ mất một phần hoặc toàn bộ ý thức.
Bộ não người một tổ chức vật chất sống đặc biệt, cấu trúc tinh vi, phức
tạp bao gồm 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Chúng liên hvới nhau liên hệ với các
giác quan con người, tạo thành vô số các mối liên hệ qua lại với thế giới bên ngoài
thông qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
+ Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ con người hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Phản ánh là thuộc tính chung
của vật chất.
lOMoARcPSD| 48302938
11
Kết quả phản ánh phụ thuộc vào vật tác động vật nhận tác động trong đó bao
givật nhận tác động cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có sự phát triển từ thấp đến cao cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất: Từ phản ánh của thế giới vô sinh đến phản ánh sinh
vật và khi con người hình thành thì xuất hiện phản ánh ý thức.
cơ: Phản ánh -- hóa. Hình thức phản ánh này còn đơn giản, sao chép,
thụ động, chưa có tính chọn lọc.
Ví dụ: Dấu chân trên cát, bắn vào bia, tòa nhà soi bóng trên mặt nước…
Hữu cơ, thực vật (chưa có hệ thần kinh và hệ thần kinh): Phản ánh sinh học,
đã định hướng, sự lựa chọn...Gồm phản ánh mang tính kích thích, tính cảm
ứng và các phản xạ không điều kiện mang tính bẩm sinh.
dụ: Cây hướng về mặt trời, động vật đổi màu da, rễ cây phát triển mạnh về
phía có nhiều phân.
Động vật (có hệ thần kinh trung ương): Phản ánh tâm lý, phản xạ không điều
kiện điều kiện (thí nghiệm Páplốp: Chó thấy đèn sáng chạy ra ăn). một số
loài như chó, khỉ, vượn đã đạt trình độ tâm lí động vật, song tất cả những phản ánh
của động vật bậc cao chỉ thể hiện bản năng sinh tồn.
dụ: điều kiện: ta bắt con khỉ con thì khỉ mẹ rằng lại con, tỏ vẻ tức giận...
huấn luyện chó, cá heo….Không điều kiện: thả vịt mới nở xuống nước biết bơi.
Con người (Não): Đạt trình độ phản ánh cao nhất, phản ánh ý thức.
Nói cách khác, Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất đó óc người. Không phải mọi quan của thể con người hay mọi dạng
vật chất đều có phản ánh ý thức. Chỉ có óc người mới có khả năng tạo ra ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: lao động, ngôn ngữ và quan hệ xã hội
Để ý thức ra đời nguồn gốc tự nhiên là tiền đề quan trọng không thể thiếu song
chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc xã hội của ý thức là: Lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
+ Lao động: Lao động quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung
cấp cho con người những cái cần thiết đsống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả
bản thân con người, làm cho stiến hoá của con vượn thành con người. Bộ não vượn
chuyển dần thành bộ óc người.
Lao động làm cho các giác quan bộ não người ngày càng phát triển hoàn
thiện có khả năng phản ánh năng động sáng tạo đối với thế giới khách quan
Thông qua lao động làm cho con người nhìn xa hơn, tai thính hơn, mủi phát
triển hoàn thiện, từ chổ đi bằng bốn chi chuyển lên đi bằng hai chi, lưng thẳng…
Trình độ hiểu biết ngày càng sâu hơn, ngày càng bản chất hơn, khái quát cao
hơn
Ví dụ: Nắng mưa: Lúc đầu, cho là do 1 vị thần…. ----> các kinh nghiệm:
chuồn chuồn,… cơn đằng đông vừa…..----> nhờ duy, đã nắm được các quy
luật thời tiết, các chỉ số…----> sáng tạo ra máy dự báo thời tiết.
lOMoARcPSD| 48302938
12
Thông qua lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế
giới khách quan bộc lcác thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của được
phản ánh vào não người hình thành nên các tri thức.
→ Lao động còn làm cho con người hình thành được các phương pháp tư duy
khoa học.
+ Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là vỏ vật chất của tư duy,
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Ngôn ngữ bao gồm có 2 yếu tố cơ bản là: tiếng nói, chữ viết
Ngôn ngữ vừa phương tiện để giao tiếp vừa công cụ của duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hoá trong phản ánh hiện thực, ghi nhận sự hiểu biết của
con người về thế giới.
Ngôn ngữ giúp con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao
đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác thế hệ khác, nhờ đó ý thức của loài
người không ngừng phát triển.
Đồng thời, ý thức một hiện tượng tính XH, do đó không phương tiện
trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
+ Quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người.
Các mối quan hệ xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh của ý thức mà còn là
môi trường tồn tại và phát triển của ý thức.
- Mối quan hệ giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên điều kiện cần, còn nguồn gốc hội là điều kiện đủ đ
ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên quên đi mặt hội, hoặc ngược lại chỉ
nhấn mạnh mặt hội quên đi mặt tự nhiên của nguồn gốc ý thức đều dẫn đến
những quan niệm sai lầm, phiến diện của chnghĩa duy tâm hoặc duy vật siêu hình.
b) Bản chất của ý thức
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Ý thức là một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ đó
sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự
phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
+ Xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực
khách quan trong óc người. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
sống của chủ thể phản ánh.
Ví dụ: Cùng một bức tranh phong cảnh nhưng mỗi người khi ngắm nó sẽ
cảm xúc, hiểu biết khác nhau.
lOMoARcPSD| 48302938
13
Cùng một nội dung bài học nhưng mỗi người một cách tiếp cận, khả năng
tiếp thu khác nhau. Và vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn trên từng cương vị, từng
vùng công tác cũng khác nhau.
→ Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà
chỉ là hình ảnh của sự vật ở trong óc người.
Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất phản
ánh luôn tồn tại cảm tính.
+ Về nội dung mà ý thức phản ánh là kch quan, còn hình thức phản ánh là
chủ quan.
Vật chất được phản ánh vào óc người sẽ bị biến đổi tùy thuộc vào các yếu tố
khách quan và chủ quan của mi người. Như đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử
- xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh.
+ Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Một là, ý thức mang tính tích cực, sáng tạo
Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám
phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh.
Phản ánh sáng tạo của ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thứ ba, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Hai là, ý thức mang tính xã hội
Bởi vì, ý thức một hiện tượng hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn xã hội, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh vật
còn chủ yếu chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, nhu cầu giao tiếp xã hội
các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã hi của con người quy định.
+ Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất,
quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn.
Bằng những thao tác của duy trừu tượng đem lại những tri thức mới để chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra “thiên
nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của con người.
Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người, song đây sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực
tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người.
Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình
mang tính hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực.
lOMoARcPSD| 48302938
14
Để thúc đẩy qtrình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội
dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản
chất của ý thức.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy, ý thức
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
c) Kết cấu của ý thức * Các
lớp cấu trúc của ý thức
Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải sự hiểu biết sâu sắc về
sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức.
Ý thức không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó một s
trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Nhận thức không phải một quá trình dễ dàng, phẳng lặng là một qtnh
phản ánh những khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường đi tới
chân lý. Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý
chí, quyết tâm cao. Ý chí chính những cố gắng, nlực, khả năng huy động mọi
tiềm năng trong mi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt
mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan
hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi
dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức cải tạo thế giới.
* Các cấp độ của ý thức
Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận
thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, thức... Tất cả những yếu tố đó cùng
với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời
sống tinh thần của con người.
- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài. Đây một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh
dấu trình độ phát triển của ý thức.
Ví dụ: Tự ý thức trong việc học.
- Tiềm thức những hoạt động tâm diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức chủ thể đã được từ trước nhưng
đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
-+ thức những hiện tượng tâm không phải do trí điều khiển, nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong mt lúc nào đó.
Chẳng hạn: giấc mơ; bị thôi miên; bản năng ham muốn…
* Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
Ngày nay, khoa học công nghệ hiện đại đã những bước phát triển mạnh
mẽ, sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động
bắp, mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của con người.
Ví dụ: máy tính điện tử, “người máy thông minh”, “trí tuệ nhân tạo”.
Song, điều đó không nghĩa máy móc ng ý thức như con người. Ý
thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. “Người máy thông
lOMoARcPSD| 48302938
15
minh” thực ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của đã được con
người lập trình phỏng theo một sthao tác của duy con người. Máy móc chỉ
những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn con người là một thực thể xã
hội năng động được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến hóa lâu dài của giới tự
nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần
trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ con người ý thức mới thực hiện được
qua đó lập trình cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực
chỉ có ở ý thức của con người với tư cách là một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo
thế giới khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do vậy, dù máy móc có hiện đại
đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
3 . Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức tồn tại duy nhất, tuyệt đối, tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh
ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy
được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn
cải tạo hiện thực khách quan.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật
chất.
* Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Đó là, ý thức là thuộc tính phản ánh của bộ óc con người. Đó chính là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Đồng thời, nhờ thông qua lao động và ngôn ngữ là các hoạt
động vật chất của xã hội mà ý thức ra đời
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Đó là, nội dung phản ánh của ý thức không phải do chủ quan con người quyết
định, mà do các sự vật, hiện tượng trong thế vật chất quyết định. Bởi vì, đối
tượng phản ánh của ý thức là các sự vật, hiện tượng vật chất.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bởi vì, vật chất quyết định sự ra đời, quyết định nội dung của ý thức nên
quyết định sự biến đổi phát triển của ý thức. Biểu hiện là khi các sự vật, hiện tượng
vật chất với tính cách là đối tượng phản ánh của ý thức biến đổi phát triển, khi trình
độ phản ảnh ánh của bộ não người phát triển, trình đhoạt động thực tiễn của con
người phát triển thì ý thức cũng có sự biến đổi phát triển theo.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
- một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ
nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung
lOMoARcPSD| 48302938
16
và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng
phát triển đã chứng minh điều đó.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện chỗ, ý thức sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật
chất. Ý thức thể thay đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, stác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con
người. Còn tbản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người da
trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ
đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã xác định.
Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng mt khi thâm nhập vào quần chúng nhân
dân - lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán c
nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng strở thành lực lượng vật
chất, mt khi nó thâm nhập vào quần chúng” .
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chđạo hoạt động, hành động của con
người; thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại.
Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức thể dự báo, tiên đoán một cách chính
xác cho hiện thực, thể hình thành nên những luận định hướng đúng đắn
những luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác
mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại,
ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học,
của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện
khách quan năng lực chquan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng
ta sẽ lại rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa chủ quan, duy m, duy ý chí, phiêu lưu
và không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính
lOMoARcPSD| 48302938
17
năng động chủ quan. Trong nhận thức hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường
lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện,
tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu
không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng
phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán
cho đối tượng cái không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng,
phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên
hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy
ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố
con người, chống tưởng, thái độ thụ động, lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tưởng và giáo
dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố,
bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải
biết kết hợp hài hòa lợi ích nhân, lợi ích tập thể, lợi ích hội; phải động
trong sáng, thái độ thật skhách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức
hành động của mình.
KẾT LUẬN
Học thuyết Mác - Lênin về vật chất và ý thức một bộ phận bản nền tảng
của thế giới quan duy vật biện chứng. Nội dung bản của học thuyết khẳng định
chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, nhưng vật chất không
tồn tại chung chung, trừu tượng tồn tại ới dạng các vật thể cảm tính, thông qua
đó, con người có thể phản ánh và tác động trở lại đối với vật chất.
Giá trị to lớn của học thuyết không chỉ giúp chúng ta xây dựng lập trường nhất
nguyên duy vật, chống chủ nghĩa duy tâm, phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình mà
còn rút ra những kết luận có tính nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức
thực tiễn nói chung và trong hoạt động qn sự nói riêng.
Phần 2: Hướng dẫn tự học
1. Những kiến thức liên quan cần đọc
Học viên tự nghiên cứu Giáo trình Triết học Mác Lênin ( Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.2021, trang 117
- 182.
2. Câu hỏi định hướng
lOMoARcPSD| 48302938
18
2.1. Nêu và phân tích định nghĩa vật chất của V.I Lênin? Từ
đó, rút ra ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận?
2.2. Nêu và phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về
tính thống nhất vật chất của thế giới? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp
luận?
2.3. Trình bày quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò
của vận động đối với vật chất? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
2.4. Trình bày quan điểm của triết học Mác - Lênin về các hình
thức vận động bản của vật chất? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp
luận?
2.5. Nêu quan điểm của triết học Mác - Lênin vnguồn gốc
của ý thức? Phân tích nguồn gốc tự nhiên của ý thức? Từ đó, rút ra ý
nghĩa phương pháp luận?
2.6. Nêu quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc ý
thức? Phân tích nguồn gốc hội của ý thức? Từ đó, rút ra ý nghĩa
phương pháp luận?
2.7. Phân tích điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất của
ý thức? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
3. Tài liệu ôn tập
3.1. Tài liệu chính
Giáo trình Triết học Mác Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị), Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.2021
3.2. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, (Dùng trong các trường đại học, cao
đẳng), Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008.
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48302938
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Phần 1: Nội dung chính của bài Đặt vấn đề:
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản, nền tảng của triết học, mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức là nguyên lý gốc, đồng thời là xuất phát điểm
quan trọng để nhận thức và giải quyết tất cả các nguyên lý, quy luật, phạm trù của triết học Mác - Lênin.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở thế giới quan phương
pháp luận giải quyết có hiệu quả mối quan hệ khách quan, chủ quan trong đời sống xã hội.
1 . Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
a) Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C. Mác về
phạm trù vật chất
- Các nhà triết học duy tâm: Phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất và
cho rằng cơ sở của mọi sự tồn tại là bản nguyên tinh thần nào đó.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới tự
nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do “sự tha hóa” của “tinh thần thế giới”.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật,
hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức.
- Các nhà triết học duy vật trước Mác: khẳng định thế giới vật chất tồn tại
khách quan không lệ thuộc vào ý thức con người. Nhưng đồng nhất vật chất với một
hay một số vật thể cụ thể, yếu tố cụ thể nào đó.
+ Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: Các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật
chất với những dạng cụ thể của nó.
* Thales coi bản nguyên của thế giới là “nước”. (Theo ông, mọi sự vật đều được
sinh ra từ nước, khi phân hủy lại biến thành nước. Mọi sự vật có sinh ra và mất đi,
chỉ có nước là tồn tại mãi mãi).
* Heraclítus cho rằng bản nguyên của thế giới là “lửa” * Anaximenes bản
nguyên của thế giới là “không khí”.
* Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại thuộc về các nhà nguyên tử
luận Lơxíp (khoảng 500 - 440 trước CN) và Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 trước CN).
Ông cho rằng, thế giới được tạo thành bởi các nguyên tử. Nguyên tử theo ông là
những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn, phong phú về hình dạng,
tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII: Nền khoa học tự nhiên thực nghiệm
châu Âu nhờ ứng dụng được những thành tựu vật lý cơ học và toán học đã phát triển
một cách mạnh mẽ. Quan điểm siêu hình - máy móc chi phối những hiểu biết triết
học về vật chất. Vì vậy, các nhà triết học và khoa học đã nhìn thế giới như một bức
tranh cơ học. Thể hiện:
* Đồng nhất vật chất với khối lượng hoặc nguyên tử. 1 lOMoAR cPSD| 48302938
* Coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học; nguồn gốc
vận động nằm ngoài vật chất; tách rời vận động, không gian, thời gian với vật chất.
b) Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và
sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã làm phá sản các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X ( Có khả năng xuyên qua nhiều vật
ngày nay được ứng dụng trong chụp ảnh y tế, nghiên cứu tinh thể, hay kiểm tra hành
lý hành khách trong an ninh hàng không…) (từ đó khẳng định nguyên tử có thể bị thẩm thấu).
- Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. (Phóng xạ là hiện
tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt
nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ) đã bác bỏ quan niệm về sự bất biến của nguyên tử.
- Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được nó là một trong
những thành phần cấu tạo nên nguyên tử (điều đó chứng tỏ nguyên tử có thể phân
chia được). Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của
nguyên tử được chứng minh bằng thực nghiệm.
- Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải
bất biến, mà thay đổi phụ thuộc vào tốc độ vận động của nó.
- Năm 1905, Anhxtanh phát minh ra thuyết tương đối hẹp và năm 1916, ông
đưa ra thuyết tương đối tổng quát, chứng minh được không gian, thời gian, khối
lượng không phải là bất biến. Nó là đặc trưng chung cho vật chất.
Như vậy, từ phát minh khoa học trên chứng minh nguyên tử có cấu trúc phức
tạp và không phải là nhỏ nhất mà nó có thể bị phân ra và chuyển hóa. Do đó, những
quan niệm đương thời về giới hạn cuối cùng của vật chất là nguyên tử hay khối lượng
đã bị sụp đổ. Đây chính là cơ hội để CNDT lợi dụng, cho rằng “vật chất” của CNDV
đã tiêu tan, nền tảng của CNDV đã sụp đổ, một số nhà triết học duy vật hoang mang
trượt dần sang chủ nghĩa duy tâm.
Đây chính là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà như V.I. Lênin khẳng
định, thực chất của nó “là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý
cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ
nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”.
c) Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những tư tưởng
rất quan trọng về vật chất.
V.I. Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa
học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn
hoặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật
chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy
vật biện chứng về phạm trù vật chất. 2 lOMoAR cPSD| 48302938
Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V.I. Lênin đặc
biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa
những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã định nghĩa vật chất với
tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên
phương diện nhận thức luận cơ bản. V.I. Lênin viết: “không thể đem lại cho hai khái
niệm nhận thức luận này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai
khái niệm đó, cái nào được coi là có trước”.
Triết học duy vật đứng trước yêu cầu cần bảo vệ và phát triển. Trong bối cảnh
lịch sử đó, năm 1908 trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” của V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất.
Định nghĩa phạm trù vật chất của V.I. Lênin được phát biểu như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
(V.I Lênin, Toàn tập, tập 18 ,
Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 151).

Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
- Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học, dùng để phân biệt với các phạm trù khoa học cụ thể.
Phạm trù triết học là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực
(bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy)
Đã là phạm trù thì đều là sản phẩm của tư duy được khái quát từ hiện thực,
nhưng vật chất là phạm trù triết học có ngoại diên rộng lớn, vô cùng, vô tận; còn các
phạm trù của khoa học cụ thể có phạm vi hẹp, giới hạn nhất định.
Ví dụ: Các phạm trù của các khoa học cụ thể như: các phạm trù nguyên tử, phân
tử của hóa sinh; phạm trù tế bào của sinh học; phạm trù mô của mô học; các phạm
trù cơ quan, hệ cơ quan, sinh vật, các quần thể loài của sinh lý học, các phạm trù hệ
sinh thái các loài, sinh quyển của sinh thái học; phạm trù giải phẫu mỹ thuật, giải
phẫu nhân chủng, giải phẫu nhân trắc, giải phẫu thể dục thể thao, giải phẫu so sánh
của giải phẫu y học; Còn phạm trù triết học như phạm trù vật chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian…
Như vậy, phạm trù khoa học cụ thể khác với phạm trù của triết học ở phạm vi
phản ánh. Các phạm trù của khoa học cụ thể phạm vi phản ánh chỉ dừng lại ở một
lĩnh vực cụ thể của thế giới, còn phạm trù triết học phạm vi phản ánh của nó bao
quát toàn bộ thế giới hiện thực (bao gồm tự nhiên, xã hội và tư duy).
+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học, vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể.
Từ việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cụ thể, cảm tính tồn tại trong thế giới
khách quan con người khái quát những thuộc tính chung, phổ biến của chúng thể
hiện trong phạm trù, là tồn tại khách quan và độc lập với tư duy của con người. 3 lOMoAR cPSD| 48302938
Nói như Ph. Ăngghen “Ta có thể ăn được trái cam, trái đào là những trái cây cụ
thể nhưng không thể ăn được trái cây” vì nó là một khái niệm của sự trừu tượng hóa
chỉ các loại trái cây nói chung.
Vì vây, khi nghiên cứu vấn đề này của phạm trù triết học chúng ta cần chú ý:
Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi phồng tính trừu tượng mà quên đi tính cụ thể thì
sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Ngược lại, chỉ thấy tính hiện thực cụ thể sẽ đồng nhất
giữa vật chất và vật thể (của chủ nghĩa duy vật siêu hình).
+ Vật chất là thực tại khách quan: Thuộc tính TTKQ là thuộc tính cơ bản của
vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt vật chất với ý thức. Vật chất nói chung là tất cả
những gì tồn tại khách quan độc lập bên ngoài ý thức con người, không phụ thuộc
vào ý thức con người và loài người.
Nội dung này cũng khẳng định, thuộc tính TTKQ là thuộc tính của vật chất, là
tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất ( Nghĩa là, tất cả những gì tồn tại khách quan độc lập bên ngoài ý thức con
người, không phụ thuộc vào ý thức con người là thuộc về phạm trù vật chất).
Như chúng ta đã thấy, mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái
đã biết đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện
tượng vô cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều
là các dạng cụ thể của vật chất.
Ví dụ: Cái bàn, ghế, quạt, phấn, bảng… ở đây có rất nhiều thuộc tính khác nhau
(có thể có thuộc tính về trọng lượng nặng nhẹ, khối lượng to, nhỏ, màu sắc, hình
dáng khác nhau) nhưng tất cả cái bàn, ghế, quạt...có thuộc tính chung nhất là tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức của chúng ta.
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem
lại cho con người cảm giác.
Vật chất là thực tại khách quan chính là nguồn gốc khách quan, nguyên nhân
sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan. Do đó, vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức. (Ở đây Lênin đã giải
quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất và ý thức cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào).
V.I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện
tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực
thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
Mặc dù không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khi tác động lên
giác quan của con người đều được các giác quan con người nhận biết; có cái phải
qua dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa học nhưng cũng chưa biết;
có cái đến nay vẫn chưa có dụng cụ khoa học để biết được; song, nếu nó tồn tại
khách quan, hiện thực ở bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con
người thì nó vẫn là vật chất.
Vì vậy, quan điểm này chống lại quan điểm chủ nghĩa duy tâm khi cho rằng ý
thức quyết định vật chất, hay vật chất do lực lượng siêu nhiên sinh ra. 4 lOMoAR cPSD| 48302938
- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy
luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng
tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...) lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng
vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng)
chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang
tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan.
Vì vậy, về nguyên tắc không đối tượng vật chất nào là không nhận thức được,
chỉ có những đối tượng vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
Do đó, giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học: Con người có
khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Với quan điểm này, Lênin chỉ ra rằng vật chất tồn tại khách quan, nhưng không
phải tồn tại một cách thần bí mà nó tồn tại dưới dạng những sự vật, hiện tượng cụ
thể. Bằng các giác quan (phương thức nhận thức khác nhau như chụp lại, chép lại)
của con người chúng ta có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Như vậy với nội dung này, Lênin đã giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản
của triết học; vừa chứng minh được khả năng nhận thức của con người, vừa bác bỏ
“thuyết không thể biết” phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác – Lênin
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học.
- Khắc phục được quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất của chủ nghĩa duy
vật trước Mác. Đồng thời, chống lại quan niệm sai lầm về vật chất của chủ nghĩa
duy tâm và thuyết không thể biết.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Chống chủ quan, duy ý chí, suy nghĩ giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, bất chấp quy luật khách quan.
d) Phương thức tồn tại của vật chất * Vận động
Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, là mọi sự biến đổi nói chung.
Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy” .
- Vai trò của vận động với vật chất: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Các dạng tồn
tại cụ thể của vật chất không thể không có thuộc tính vận động. Vận động của vật chất diễn ra tự thân.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà
biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận. 5 lOMoAR cPSD| 48302938
Đó là, chỉ có trong vận động và thông qua vận động thì các dạng vật chất mới
thể hiện được đặc tính của mình.
Ví dụ: Trong thực tế cho thấy rất rõ là phẩm chất, năng lực của một con người
cụ thể chỉ được thể hiện thông qua hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của người đó.
Hay đặc tính của một căn bệnh cụ thể nào đó chỉ được thể hiện thông qua các
giai đoạn biển đổi của nó từ khới phát cho tới bùng phát cho tới lui bệnh và khỏi bệnh.
Chính vì vậy mà con người chỉ có thể nhận thức được các sự vật vật chất thông
qua sự vận động của nó. Về vấn đề này Ăngghen đã viết rằng: “Các hình thức và các
dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động, thuộc
tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động, về một vật thể không vận động thì không
có gì nói cả”. [ M.A. toàn tập Nxb CTQG. Hà Nội, 1994, Tập 2, tr 743].
+ Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt.
Đó là, sức mạnh làm cho vật chất vận động không phải nằm ngoài vật chất như
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận động mà là sức mạnh làm cho vật chất vận
động là của bản thân vật chất. Sức mạnh đó là do sự tác động lẫn nhau của chính các
thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất gây nên sự vận động. Do đó, vận động của
vật chất không do ai sáng tạo ra và tiêu diệt được, vận động của vật chất được bảo
toàn cả về số lượng và chất lượng. Vận động của vật chất tồn tại vĩnh viễn cùng vật chất.
Ví dụ: Sự vận động của nguyên tử là do sự tương tác giữa hạt nhân và điện tử
trong bản thân nguyên tử
Sự vận động phát triển của một cơ thể sống là do sự tương tác giữa các cơ
quan, các quá trình diễn ra trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường.
Sự vận động phát triển của một xã hội là do sự tương tác của chính các yếu tố
cấu thành một cơ thể xã hội.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
+ Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy
mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của
thời đại mình, Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản:
Vận động cơ giới: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian
Vận động vật lý: Đó là vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các
quá trình nhiệt, điện …
Vận động hoá: Đó là quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
Vận động sinh vật: Đó là sự biến đổi của các cơ thể sống, biến đổi của cấu trúc gien…
Vận động xã hội: Đó là sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá..,
sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội.
+ Các hình thức vận động trên có quan hệ với nhau như sau :
Thứ nhất, các hình thức vận động trên là các trình độ từ thấp đến cao, tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất. 6 lOMoAR cPSD| 48302938
Thứ hai, chúng khác nhau về chất. Nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp,
bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp hơn. Các hình thức vận động thấp
không có khả năng bao hàm hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy mọi sự
quy giản các hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp đều là sai lầm. Giữa
hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là
những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động.
Thứ ba, trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể có nhiều hình thức vận
động khác nhau, nhưng bản thân sự vật ấy bao giờ cũng đ¬ợc đặc trưng, bởi hình
thức vận động cao nhất mà nó có.
- Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối, tạm thời.
+ Đứng im là khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện
sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
+ Đứng im mang tính chất tương đối tạm thời thể hiện ở chỗ: chỉ xảy ra trong
một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời
điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó, chứ không
phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động.
Ví dụ: Tàu hỏa đang đỗ trên sân ga là đứng im đó là trong mối quan hệ với
đường ray, còn so với mặt trời và các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất.
Đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành, duy trì
sự tồn tại ổn định của một sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng, vận động nói chung,
tức là sự tác động qua lại của vô số các sự vật, hiện tượng, lại làm cho tất cả các sự
vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, cho nên đứng im chỉ tương đối, tạm thời. Mặc
dù mang tính chất tương đối tạm thời, nhưng đứng im lại là hình thức “chứng thực”
sự tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất.
* Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.
- Khái niệm không gian và thời gian :
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng
tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Như vậy, phạm trù không gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về vị trí, quảng tính (độ dài - ngắn, cao- thấp, hình thức kết
cấu…) mối tương quan với các dạng vật chất khác (ở trên hay dưới, trước hay sau, phải hay trái…). 7 lOMoAR cPSD| 48302938
+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn
biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Như vậy, phạm trù thời gian là sự khái quát các thuộc tính chung của mọi sự
vật tồn tại khách quan về sự vận động biến đổi diễn ra nhanh hay chậm, trình tự vận
động, biến đổi diễn ra kế tiếp qua các giai đoạn trước, sau …
- Vai trò của không gian và thời gian
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động, được
con người khái quát khi nhận thức thế giới.
+ Không gian và thời gian là những thuộc tính vốn có của vật chất. Không có
không gian và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong
thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian” .
+ Các sự vật vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình qua không gian, thời gian của nó.
Đó là, chỉ có trong không gian và thời gian của mình thì các sự vật vật chất mới
thể hiện được sự tồn tại của nó là như thế nào. Chính vì vậy để nhận thức được về
các sự vật vật chất ta phải nhận thức chúng trong không gian thời gian của chúng.
Điều này Ăngghen đã viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian: tồn tại ngoài thời gian cũng hết sức vô lý nh¬ư tồn tại ở ngoài không gian”.
Ví dụ: Để biết nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là thế nào
thì phải nhận thức nó gắn với cả không gian và thời gian của nó.
+ Không gian và thời gian phụ thuộc vào vật chất vận động
Vấn đề này đã được xác nhận bởi những thành tựu của KHTN, đặc biệt là đầu
TK XX thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng, không gian và thời gian
không tự nó tồn tại tách rời vật chất và luôn phụ thuộc vào vật chất vận động.
- Mối quan hệ giữa không gian và thời gian
+ Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của
vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một
quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian
tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định.
+ Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với
tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian,
về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian.
- Tính chất của không gian và thời gian
+ Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Theo nghĩa chung nhất không gian có 3 chiều: dài, rộng, cao. Còn thời gian chỉ
có 1 chiều: từ quá khứ đến tương lai
Các tính chất của không gian và thời gian chính là biểu hiện hình thức tồn tại
về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
+ Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất. 8 lOMoAR cPSD| 48302938
Nghĩa là không gian và thời gian không có giới hạn, không có tận cùng về một
phía nào cả, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước- sau, trên - dưới, phải - trái.
đ) Tính thống nhất vật chất của thế giới
* Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Để xem xét về tính thống nhất của thế giới phải thừa nhận sự tồn tại của nó.
Theo nghĩa chung nhất, tồn tại là phạm trù dùng để chỉ tính có thực của thế giới
xung quanh con người.
Khẳng định sự tồn tại là gạt bỏ những nghi ngờ về tính không
thực, sự hư vô, tức là gạt bỏ sự “không tồn tại”.
Chủ nghĩa duy vật quan niệm tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản
chất của nó là vật chất. Trái lại, các nhà triết học duy tâm khẳng định chỉ có thế giới
tinh thần mới tồn tại nên bản chất của tồn tại cũng là tinh thần.
* Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất.
Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Một là, chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật
chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, tồn tại
vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận
động, biến đổi không ngừng và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và
kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
Tính thống nhất vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi các thành tựu
khoa học và bởi chính cuộc sống hiện thực của con người.
Những căn cứ khoa học cho luận điểm trên:
Một là, thiên văn học, quang phổ, vũ trụ, chứng minh không có thế giới siêu nhiên nào.
Hai là, sinh vật học từ phát hiện tế bào đến lý thuyết về gen về các phân tử
ADN và ARN là các bậc thang của quá trình tiến hóa của thế giới vật chất, của thực
vật, động vật cho tới con người.
Ba là, thành tựu mới về thiên văn học, cơ học lượng tử, thuyết tương đối cùng
với sự phát hiện ra trường hạt và phản hạt càng chứng minh không có thế giới phi vật chất.
Bốn là, xã hội loài người suy cho cùng cũng là cấp độ đặc biệt của tổ chức vật
chất. Xã hội loài người là một bộ phận của thế giới vật chất, có nền tảng tự nhiên,
tiến hóa từ giới tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức của con người. Con người có vai trò năng động sáng tạo trong thế
giới vật chất trên cơ sở dựa vào quy luật của thế giới vật chất. 9 lOMoAR cPSD| 48302938
Kết luận: Như vậy thế giới cả TN và XH, con người về bản chất là vật chất,
thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng
và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. 2 . Nguồn gốc, bản chất
và kết cấu của ý thức

a) Nguồn gốc của ý thức
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý
thức là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
Đại biểu tiêu biểu như Platôn, G. Hêghen đã tuyệt đối hoá vai trò của lý tính,
khẳng định thế giới “ý niệm”, hay “ý niệm tuyệt đối” là bản thể, sinh ra toàn bộ thế
giới hiện thực. Ý thức của con người chỉ là sự “hồi tưởng” về “ý niệm”, hay “tự ý
thức” lại “ý niệm tuyệt đối”.
Đại biểu như G.Béccơli, E.Makhơ lại tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi ý
thức của con người là do cảm giác sinh ra.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình
phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát từ thế giới hiện
thực để lý giải nguồn gốc của ý thức nhưng họ lại đồng nhất vật chất với ý thức.
Chẳng hạn, Phôgơtơ cho rằng óc tiết ra tư tưởng (ý thức) giống như gan tiết ra
mật, như tuyến vị tiết ra dịch vị mà thôi.
Phoiơbắc: Thừa nhận ý thức là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong
bộ óc của con người. Song do không thấy được bản chất xã hội của con người, nên
không thấy được yếu tố xã hội, lịch sử của ý thức. Ông hiểu ý thức một cách chung
chung, trừu tượng, không thấy được bản chất xã hội của ý thức.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Cho rằng ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải
của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người.
+ Ý thức là thuộc tính của bộ não người - một dạng vật chất có tổ chức cao và
cấu trúc tinh vi, phức tạp.
Ý thức luôn tồn tại trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ não người nên
khi bộ óc người bị tổn thương sẽ mất một phần hoặc toàn bộ ý thức.
Bộ não người là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi, phức
tạp bao gồm 14 -15 tỷ tế bào thần kinh. Chúng liên hệ với nhau và liên hệ với các
giác quan con người, tạo thành vô số các mối liên hệ qua lại với thế giới bên ngoài
thông qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
+ Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. 10 lOMoAR cPSD| 48302938
Kết quả phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động trong đó bao
giờ vật nhận tác động cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có sự phát triển từ thấp đến cao cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất: Từ phản ánh của thế giới vô sinh đến phản ánh sinh
vật và khi con người hình thành thì xuất hiện phản ánh ý thức.
Vô cơ: Phản ánh cơ-lý- hóa. Hình thức phản ánh này còn đơn giản, sao chép,
thụ động, chưa có tính chọn lọc.
Ví dụ: Dấu chân trên cát, bắn vào bia, tòa nhà soi bóng trên mặt nước…
Hữu cơ, thực vật (chưa có hệ thần kinh và có hệ thần kinh): Phản ánh sinh học,
đã có định hướng, có sự lựa chọn...Gồm phản ánh mang tính kích thích, tính cảm
ứng và các phản xạ không điều kiện mang tính bẩm sinh.
Ví dụ: Cây hướng về mặt trời, động vật đổi màu da, rễ cây phát triển mạnh về phía có nhiều phân.
Động vật (có hệ thần kinh trung ương): Phản ánh tâm lý, phản xạ không điều
kiện và có điều kiện (thí nghiệm Páplốp: Chó thấy đèn sáng chạy ra ăn). Ở một số
loài như chó, khỉ, vượn đã đạt trình độ tâm lí động vật, song tất cả những phản ánh
của động vật bậc cao chỉ thể hiện bản năng sinh tồn.
Ví dụ: Có điều kiện: ta bắt con khỉ con thì khỉ mẹ rằng lại con, tỏ vẻ tức giận...
huấn luyện chó, cá heo….Không điều kiện: thả vịt mới nở xuống nước biết bơi.
Con người (Não): Đạt trình độ phản ánh cao nhất, phản ánh ý thức.
Nói cách khác, Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất đó là óc người. Không phải mọi cơ quan của cơ thể con người hay mọi dạng
vật chất đều có phản ánh ý thức. Chỉ có óc người mới có khả năng tạo ra ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: lao động, ngôn ngữ và quan hệ xã hội
Để ý thức ra đời nguồn gốc tự nhiên là tiền đề quan trọng không thể thiếu song
chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội. Nguồn
gốc xã hội của ý thức là: Lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
+ Lao động: Lao động là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung
cấp cho con người những cái cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả
bản thân con người, làm cho sự tiến hoá của con vượn thành con người. Bộ não vượn
chuyển dần thành bộ óc người.
Lao động làm cho các giác quan và bộ não người ngày càng phát triển hoàn
thiện có khả năng phản ánh năng động sáng tạo đối với thế giới khách quan
Thông qua lao động làm cho con người nhìn xa hơn, tai thính hơn, mủi phát
triển hoàn thiện, từ chổ đi bằng bốn chi chuyển lên đi bằng hai chi, lưng thẳng…
Trình độ hiểu biết ngày càng sâu hơn, ngày càng bản chất hơn, khái quát cao hơn
Ví dụ: Nắng mưa: Lúc đầu, cho là do 1 vị thần…. ----> các kinh nghiệm:
chuồn chuồn,… cơn đằng đông vừa…..----> nhờ có tư duy, đã nắm được các quy
luật thời tiết, các chỉ số…----> sáng tạo ra máy dự báo thời tiết. 11 lOMoAR cPSD| 48302938
→ Thông qua lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế
giới khách quan bộc lộ các thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của nó và được
phản ánh vào não người hình thành nên các tri thức.
→ Lao động còn làm cho con người hình thành được các phương pháp tư duy khoa học. + Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là vỏ vật chất của tư duy,
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Ngôn ngữ bao gồm có 2 yếu tố cơ bản là: tiếng nói, chữ viết
→ Ngôn ngữ vừa là phương tiện để giao tiếp vừa là công cụ của tư duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hoá trong phản ánh hiện thực, ghi nhận sự hiểu biết của
con người về thế giới.
→ Ngôn ngữ giúp con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao
đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác thế hệ khác, nhờ đó mà ý thức của loài
người không ngừng phát triển.
Đồng thời, ý thức là một hiện tượng có tính XH, do đó không có phương tiện
trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
+ Quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người.
Các mối quan hệ xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh của ý thức mà còn là
môi trường tồn tại và phát triển của ý thức.
- Mối quan hệ giữa nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để
ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã hội, hoặc ngược lại chỉ
nhấn mạnh mặt xã hội mà quên đi mặt tự nhiên của nguồn gốc ý thức đều dẫn đến
những quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật siêu hình.
b) Bản chất của ý thức
- Quan điểm của triết học ngoài mácxit
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Ý thức là một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ đó
sinh ra toàn bộ thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự
phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
+ Xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực
khách quan trong óc người. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm
sống của chủ thể phản ánh.
Ví dụ: Cùng một bức tranh phong cảnh nhưng mỗi người khi ngắm nó sẽ có có
cảm xúc, hiểu biết khác nhau. 12 lOMoAR cPSD| 48302938
Cùng một nội dung bài học nhưng mỗi người có một cách tiếp cận, khả năng
tiếp thu khác nhau. Và vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn trên từng cương vị, từng
vùng công tác cũng khác nhau.
→ Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà
chỉ là hình ảnh của sự vật ở trong óc người.
→ Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản
ánh luôn tồn tại cảm tính.
+ Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan.
Vật chất được phản ánh vào óc người sẽ bị biến đổi tùy thuộc vào các yếu tố
khách quan và chủ quan của mỗi người. Như đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử
- xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh.
+ Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Một là, ý thức mang tính tích cực, sáng tạo
Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám
phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh.
Phản ánh sáng tạo của ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh
Thứ hai, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thứ ba, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Hai là, ý thức mang tính xã hội
Bởi vì, ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn xã hội, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh vật
mà còn chủ yếu chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã hội của con người quy định.
+ Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất,
quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn.
Bằng những thao tác của tư duy trừu tượng đem lại những tri thức mới để chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra “thiên
nhiên thứ hai” in đậm dấu ấn của con người.
Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực
tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người.
Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình
mang tính hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hóa các đối
tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. 13 lOMoAR cPSD| 48302938
Để thúc đẩy quá trình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội
dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy, ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ
sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

c) Kết cấu của ý thức * Các
lớp cấu trúc của ý thức
Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về
sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức.
Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự
trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Nhận thức không phải là một quá trình dễ dàng, phẳng lặng mà là một quá trình
phản ánh những khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường đi tới
chân lý. Muốn vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý
chí, quyết tâm cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi
tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt
mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan
hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi
dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Các cấp độ của ý thức
Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận
thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức... Tất cả những yếu tố đó cùng
với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời
sống tinh thần của con người.
- Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với
ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh
dấu trình độ phát triển của ý thức.
Ví dụ: Tự ý thức trong việc học.
- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng
đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng
-+ Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó.
Chẳng hạn: giấc mơ; bị thôi miên; bản năng ham muốn…
* Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
Ngày nay, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển mạnh
mẽ, sản xuất ra nhiều loại máy móc không những có khả năng thay thế lao động cơ
bắp, mà còn có thể thay thế cho một phần lao động trí óc của con người.
Ví dụ: máy tính điện tử, “người máy thông minh”, “trí tuệ nhân tạo”.
Song, điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Ý
thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. “Người máy thông 14 lOMoAR cPSD| 48302938
minh” thực ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được con
người lập trình phỏng theo một số thao tác của tư duy con người. Máy móc chỉ là
những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn con người là một thực thể xã
hội năng động được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến hóa lâu dài của giới tự
nhiên và thực tiễn xã hội. Máy không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần
trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ý thức mới thực hiện được và
qua đó lập trình cho máy móc thực hiện. Sự phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực
chỉ có ở ý thức của con người với tư cách là một thực thể xã hội, hoạt động cải tạo
thế giới khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội. Do vậy, dù máy móc có hiện đại
đến đâu chăng nữa cũng không thể hoàn thiện được như bộ óc con người.
3 . Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh
ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy
được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn
cải tạo hiện thực khách quan.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Đó là, ý thức là thuộc tính phản ánh của bộ óc con người. Đó chính là kết quả
phát triển lâu dài của thế giới vật chất và kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính
phản ánh của vật chất. Đồng thời, nhờ thông qua lao động và ngôn ngữ là các hoạt
động vật chất của xã hội mà ý thức ra đời
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Đó là, nội dung phản ánh của ý thức không phải do chủ quan con người quyết
định, mà do các sự vật, hiện tượng trong thế vật chất nó quyết định. Bởi vì, vì đối
tượng phản ánh của ý thức là các sự vật, hiện tượng vật chất.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bởi vì, vật chất quyết định sự ra đời, quyết định nội dung của ý thức nên nó
quyết định sự biến đổi phát triển của ý thức. Biểu hiện là khi các sự vật, hiện tượng
vật chất với tính cách là đối tượng phản ánh của ý thức biến đổi phát triển, khi trình
độ phản ảnh ánh của bộ não người phát triển, trình độ hoạt động thực tiễn của con
người phát triển thì ý thức cũng có sự biến đổi phát triển theo.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người
- một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ
nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung 15 lOMoAR cPSD| 48302938
và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng
phát triển đã chứng minh điều đó.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã
ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật
chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con
người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa
trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ
đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã xác định.
Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân
dân - lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố
nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” .
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính
xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và
những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác
mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại,
ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học,
của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện
khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng
ta sẽ lại rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu
và không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính 16 lOMoAR cPSD| 48302938
năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường
lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện,
tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu
không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng
phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán
cho đối tượng cái mà nó không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng,
phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên
hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy
ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố
con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo
dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố,
bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải
biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ
trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình. KẾT LUẬN
Học thuyết Mác - Lênin về vật chất và ý thức là một bộ phận cơ bản nền tảng
của thế giới quan duy vật biện chứng. Nội dung cơ bản của học thuyết khẳng định
chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, nhưng vật chất không
tồn tại chung chung, trừu tượng mà tồn tại dưới dạng các vật thể cảm tính, thông qua
đó, con người có thể phản ánh và tác động trở lại đối với vật chất.
Giá trị to lớn của học thuyết không chỉ giúp chúng ta xây dựng lập trường nhất
nguyên duy vật, chống chủ nghĩa duy tâm, phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình mà
còn rút ra những kết luận có tính nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và
thực tiễn nói chung và trong hoạt động quân sự nói riêng.
Phần 2: Hướng dẫn tự học
1. Những kiến thức liên quan cần đọc
Học viên tự nghiên cứu Giáo trình Triết học Mác – Lênin ( Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.2021, trang 117 - 182.
2. Câu hỏi định hướng 17 lOMoAR cPSD| 48302938 2.1.
Nêu và phân tích định nghĩa vật chất của V.I Lênin? Từ
đó, rút ra ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận? 2.2.
Nêu và phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về
tính thống nhất vật chất của thế giới? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận? 2.3.
Trình bày quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò
của vận động đối với vật chất? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận? 2.4.
Trình bày quan điểm của triết học Mác - Lênin về các hình
thức vận động cơ bản của vật chất? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận? 2.5.
Nêu quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc
của ý thức? Phân tích nguồn gốc tự nhiên của ý thức? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận? 2.6.
Nêu quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc ý
thức? Phân tích nguồn gốc xã hội của ý thức? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận? 2.7.
Phân tích điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất của
ý thức? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
3. Tài liệu ôn tập 3.1.
Tài liệu chính
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị), Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội.2021 3.2.
Tài liệu tham khảo 1.
Giáo trình Triết học Mác - Lênin, (Dùng trong các trường đại học, cao
đẳng), Nxb CTQG, Hà Nội, 2006. 2.
Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008. 3.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam. 18