Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình Ngữ Văn 10 Chân Trời Sáng Tạo

Xin gửi tới các bạn bài viết Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trữ tình, bao gồm dàn ý chung hướng dẫn cách làm, bài văn mẫu tham khảo. Mời các bạn cùng tham khảo.

VIẾT VĂN BẢN NGH LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ
MT TÁC PHM TR TÌNH
I. DÀN Ý CHUNG KIU BÀI NGH LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC
PHM TRNH
A. M bài
- Gii thiu tác gi, tác phm tr tình (tên tác phm, th loi, tác gi,…)
- Nêu ni dung khái quát cn phân tích, đánh giá
B. Thân bài
1. Phân tích, đánh giá ch đề
- Xác đnh ch đề ca tác phm.
- Phân tích, đánh giá ch đề ca tác phm.
2. Phân tích, đánh giá hình thc ngh thut
- Phân tích mt s nét đặc sc v hình thc ngh thut ca tác phm (phù hp với đặc
trưng của thơ/văn xuôi trữ tình)
- Đánh giá tác dụng ca những nét đặc sc v hình thc ngh thut trong vic th hin
ch đề ca tác phm.
C. Kết bài
- Khẳng định li mt cách khái quát những đặc sc v ngh thuật nét độc đáo về ch
đề ca tác phm.
- u tác động ca tác phm đối vi bn thân hoc cảm nghĩ sau khi đọc, thưng thc tác
phm.
II. VĂN MẪU NGH LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MT TÁC PHM TR
TÌNH
Đề bài: Hãy viết bài văn nghị lun phân tích, đánh giá chủ đề những nét đặc sc v
hình thc ngh thut ca mt tác phẩm thơ hoặc văn xuôi tr tình.
LÁ ĐỎ
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
(Trường Sơn, 12/1974)
(Nguồn: Trường Sơn - đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009)
Nguyễn Đình thi nhà thơ miệt mài, cn trong sut hành trình ngh thut ca
mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để li khối lưng tác phẩm đ s thuc nhiu loi hình
khác nhau, song tlĩnh vc ông dành nhiu tâm huyết nht. Mỗi bài thơ của ông đều
mang bn sc riêng nét, “Lá đỏ” một đin hình, tiêu biu cho c ni dung ngh
thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chun b tng tiến công,
gii phóng min Nam, thng nhất đất nước. Bài thơ nội dung, cm hng ch đạo
nim tin vào s chiến thng ca dân tc. Tác phm như một li d cm v ngày mai tươi
sáng ca đt nước, khi chúng ta đã dành đưc đc lâp, t do, hòa bình.
Ch với tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện c
mt cuộc hành quân trường kì, đi của đất nước ta trong cuc chiến tranh khc liệt để
bo v T quốc. Đó cuc nh quân trên đường Trường Sơn, b đội tiến vào Sài Gòn,
gii phóng min Nam, thng nhất đất nước. Bài thơ được viết khi nhà thơ đưc trc tiếp
đến tri nghim cuc sng Trường Sơn - cũng do cho những dòng viết chân
thc và sống động trong thơ ông.
M đầu bài thơ là hình nh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gp em trên cao lng gió
Rng l ào ào lá đỏ”
Có th cm nhận đưc v trí nơi nhà thơ đứng đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”,
một nơi thể phóng tm mt nhìn ra bao la, rng ln bao quát. “Trên cao còn
hàm ý v v thế trong tưởng, tình cm - tc cao quý, cao c. Hai ch “lộng gió” ta
như lòng người rng m, niềm tin phơi phới, đón chào những lung gió Cách mng. T
đỉnh núi, ông thy được cảnh thiên nhiên đẹp l lùng: “Rng l ào ào lá đỏ”. T y “ào
ào” được s dụng độc đáo, gợi ra cnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” đỏ
tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đ ca tựa như màu đó ca c
T quc, ca dòng máu chy trong mỗi trái tim người con đất Vit.
Hai câu thơ tiếp theo xut hiện bóng dáng con ngưi, hình nh tht đp trong cuc
chiến tranh nhân dân - “em gái tiền phương”, n chiến giao liên hay gái thanh niên
xung phong:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Smt ca những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần to nên mt thi kì
huy hoàng ca T quc, mt cuc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó c nhng
gái tr trung, xinh đp mà l ra được hưởng cuc sng yên bình, hnh phúc. Hình nh
nhng gái bên đường Trường n gi nhc v hình nh nhng thanh niên xung
phong trên cao điểm trong truyn ngn “Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).
biết bao chàng trai, gái ngày đêm không ngừng ngh, thm chí hi sinh c tính mng
s nghip ca T quc, tt c đã cùng làm nên những trang lch s chói li, làm nên “Đt
ớc muôn đời”. Hình nh “vai áo bạc, quàng súng trường” tht gin dị, thân thương.
Đó chứng tích sau biết bao tháng ngày dm mưa dãi nắng; cũng hình nh ni bt
gia núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng máu lửa ca thi kháng chiến chng Mỹ, Trường Sơn
đã trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian kh, khc lit. Ta nh v hình ảnh con đường
hành quân ca những ngưi lính y Tiến nơi núi rng y Bc: “Dc lên khúc khuu,
dốc thăm thẳm/Heot cn mây, súng ngi tri”. Con đường càng đi như các thách thc
ý chí ca những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” vi những bước chân
hi hả, trùng đip, rung chuyển đất tri: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi
khung cnh hào hùng, không khí s thi hào tráng nhng ngày tháng cui cùng ca cuc
chiến tranh.
Những đoàn quân c thế, ni tiếp nhau không ngng nghỉ, nhà thơ - chiến ch
kp ghi lại dáng hình quê hương rồi gi li chào và hn gp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hn gp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn - cái đích của cuc hành quân, cuc tiến công đã thật gần, con đường
chm ti chiến thắng, độc lp, t do không còn xa. Li chào, li hẹn ưc y chưa đựng
biết bao nhit huyết ca tui trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Không ch to ấn tượng sâu sc v ni dung, bài thơ cũng mang nhng yếu t hình
thc ngh thuật đặc sc. Yếu t chính làm nên thành công ca bài là hình nh, nhịp điệu
ngôn ng thơ. Bài thơ đã khắc ha hình nh sống động: đ, em gái tiền phương,
đoàn quân - sc gi t, khái quát cao cho v đẹp của đất ớc, con người Vit Nam.
V nhịp điệu, bản xuyên suốt bài thơ nhịp điệu của bước chân hành quân dn dp,
chc khe. Ngôn ng thơ giản d, gần i chân thc, hình nh cuc sống nơi chiến
trưng hin lên t nhiên, sống động.
Nhng cuc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dn ph bụi nhưng c v
những năm tháng y có l không bao gi th xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc gi vn s
nh v những m tháng y, nh v tuyến đường Trường Sơn “ào ào đỏ”, nhớ hình
nh nhng gái tiền phương, những chàng trai chiến với nhng bước đi rung chuyển
đất tri. l vy Balzac đã từng nói những ngưi ngh làm văn, viết thơ
“thư kí trung thành ca thi đi”.
| 1/4

Preview text:


VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ
MỘT TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
I. DÀN Ý CHUNG KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC PHẨM TRỮ TÌNH A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm trữ tình (tên tác phẩm, thể loại, tác giả,…)
- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá B. Thân bài
1. Phân tích, đánh giá chủ đề
- Xác định chủ đề của tác phẩm.
- Phân tích, đánh giá chủ đề của tác phẩm.
2. Phân tích, đánh giá hình thức nghệ thuật
- Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (phù hợp với đặc
trưng của thơ/văn xuôi trữ tình)
- Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện
chủ đề của tác phẩm. C. Kết bài
- Khẳng định lại một cách khái quát những đặc sắc về nghệ thuật và nét độc đáo về chủ đề của tác phẩm.
- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc, thưởng thức tác phẩm.
II. VĂN MẪU NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
Đề bài: Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về
hình thức nghệ thuật của một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi trữ tình. LÁ ĐỎ
Gặp em trên cao lộng gió Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương

Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
(Trường Sơn, 12/1974)
(Nguồn: Trường Sơn - đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009)
Nguyễn Đình thi là nhà thơ miệt mài, cần cù trong suốt hành trình nghệ thuật của
mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều loại hình
khác nhau, song thơ là lĩnh vực ông dành nhiều tâm huyết nhất. Mỗi bài thơ của ông đều
mang bản sắc riêng rõ nét, “Lá đỏ” là một điển hình, tiêu biểu cho cả nội dung và nghệ
thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chuẩn bị tổng tiến công,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ có nội dung, cảm hứng chủ đạo là
niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Tác phẩm như một lời dự cảm về ngày mai tươi
sáng của đất nước, khi chúng ta đã dành được độc lâp, tự do, hòa bình.
Chỉ với tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả
một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước ta trong cuộc chiến tranh khốc liệt để
bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ được viết khi nhà thơ được trực tiếp
đến và trải nghiệm cuộc sống ở Trường Sơn - cũng là lí do cho những dòng viết chân
thực và sống động trong thơ ông.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Có thể cảm nhận được vị trí nơi nhà thơ đứng là đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”,
một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao la, rộng lớn và bao quát. “Trên cao” còn có
hàm ý về vị thế trong tư tưởng, tình cảm - tức cao quý, cao cả. Hai chữ “lộng gió” tựa
như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng. Từ
đỉnh núi, ông thấy được cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ láy “ào
ào”
được sử dụng độc đáo, gợi ra cảnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” lá đỏ
tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá tựa như màu đó của lá cờ
Tổ quốc, của dòng máu chảy trong mỗi trái tim người con đất Việt.
Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện bóng dáng con người, hình ảnh thật đẹp trong cuộc
chiến tranh nhân dân - “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Sự có mặt của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần tạo nên một thời kì
huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó có cả những
cô gái trẻ trung, xinh đẹp mà lẽ ra được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Hình ảnh
những cô gái bên đường Trường Sơn gợi nhắc về hình ảnh những cô thanh niên xung
phong trên cao điểm trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê). Có
biết bao chàng trai, cô gái ngày đêm không ngừng nghỉ, thậm chí hi sinh cả tính mạng vì
sự nghiệp của Tổ quốc, tất cả đã cùng làm nên những trang lịch sử chói lọi, làm nên “Đất
Nước muôn đời”.
Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” thật giản dị, thân thương.
Đó là chứng tích sau biết bao tháng ngày dầm mưa dãi nắng; cũng là hình ảnh nổi bật
giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng máu lửa của thời kì kháng chiến chống Mỹ, Trường Sơn
đã trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Ta nhớ về hình ảnh con đường
hành quân của những người lính Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu,
dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Con đường càng đi như các thách thức
ý chí của những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân
hối hả, trùng điệp, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi
khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Những đoàn quân cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nhà thơ - chiến sĩ chỉ
kịp ghi lại dáng hình quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn - cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường
chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chưa đựng
biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, bài thơ cũng mang những yếu tố hình
thức nghệ thuật đặc sắc. Yếu tố chính làm nên thành công của bài là hình ảnh, nhịp điệu
và ngôn ngữ thơ. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh sống động: lá đỏ, cô em gái tiền phương,
đoàn quân - có sức gợi tả, khái quát cao cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.
Về nhịp điệu, cơ bản xuyên suốt bài thơ là nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập,
chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống nơi chiến
trường hiện lên tự nhiên, sống động.
Những cuộc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dần phủ bụi nhưng kí ức về
những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc giả vẫn sẽ
nhớ về những năm tháng ấy, nhớ về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, nhớ hình
ảnh những cô gái tiền phương, những chàng trai chiến sĩ với những bước đi rung chuyển
đất trời. Có lẽ vì vậy mà Balzac đã từng nói những người nghệ sĩ làm văn, viết thơ là
“thư kí trung thành của thời đại”.