













Preview text:
Viết bài văn phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến
Dưới ngòi bút của thi nhân, bức tranh thu ở làng quê hiện lên mang vẻ đẹp huyền
ảo, lung linh mang đậm hồn thu đặc trưng của nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Qua đó, tác giả cũng thể hiện nỗi ưu tư về thời thế cố giấu kín in dấu trong cách nhìn cảnh vật.
1. Nội dung bài Thu ẩm
“Thu ẩm” là bài thơ về mùa thu và chén rượu. Nhưng đây không chỉ là một bài thơ
đơn thuần về văn hóa uống rượu, mà còn là một bức tranh về tâm hồn và tình cảm
của nhà thơ. Bài thơ như một lời tự sự của Nguyễn Khuyến với những tình cảm
buồn vui, sâu lắng trong đời sống.
Cả bài thơ là một chuỗi hình ảnh tươi đẹp về mùa thu và chén rượu, từ hình ảnh
bóng trăng loe tan ra trên mặt ao đến màu khói nhạt bay phất phơ, từ những vòng
tròn lóng lánh của đom đóm đến màu sắc đỏ hoe của đôi mắt ngà ngà say. Những
hình ảnh này đã tạo nên một không gian thơ mộng, đưa người đọc vào một thế giới
tĩnh lặng và thanh bình của mùa thu.
Tuy nhiên, đằng sau những hình ảnh đó là tâm trạng u buồn, đau thương của nhà
thơ. Nguyễn Khuyến đã sử dụng chén rượu như một phương tiện để thể hiện nỗi
buồn cô đơn và quên đi những đau thương trong cuộc đời. Từ “say nhè” đến “độ
năm ba chén đã say nhè” đều tạo ra một tình cảm u uất, giống như những giọt nước
mắt tràn đầy chén rượu.
2. Dàn ý phân tích bài thơ Thu ẩm I. Mở bài:
Thu ẩm là một trong ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ cho thấy dáng thu, hồn thu của làng quê đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời thể
hiện tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đau thương của đất nước. II. Thân bài: Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
Cảnh thu ban đêm nơi làng quê nghèo khó với những hình ảnh quen thuộc được
quan sát và miêu tả qua đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân: Ba gian nhà cỏ (lợp
tranh hoặc rạ), thấp le te là rất thấp, tưởng như bị bóng tối đè nặng nên biến dạng.
Ánh sáng lập loè của đom đóm làm cho ngõ hẹp càng thêm tối và đêm thêm sâu (khuya). Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
– Quan sát và cảm nhận của thi sĩ rất tinh tế: sương thu như màu khói nhạt phủ
quanh lưng giậu. (Giậu là bờ rào bằng cây, thường trồng cúc tần hay dâm bụt).
Bóng trăng soi trên mặt ao lăn tăn gợn sóng, lúc tụ lại, lúc tản ra, tạo cảm giác là bóng trăng loe.
– Các phụ âm đầu / đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện
tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến. + Hai câu luận:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Đối tượng miêu tả thứ nhất là bầu trời xanh ngắt như chất chứa cái gì đó bên trong,
khiến nhà thơ băn khoăn tự hỏi: ai nhuộm mà xanh ngắt. Đại từ phiếm chỉ ai lấp
lửng một mối hoài nghi không lời giải đáp.
Đối tượng miêu tả thứ hai là chính bản thân nhà thơ: Mắt lão không vầy cũng đỏ
hoe. Đôi mắt chứa chất đầy tâm trạng. + Hai câu kết:
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Chỉ dăm ba chén đã say nhè.
Từ hay có hai nghĩa: hay uống rượu (thường xuyên); hay tức là tửu lượng cao. ô
câu thơ này, từ hay mang nghĩa thứ hai. Rượu tiếng rằng hay nhưng Chỉ dăm ba
chén đã say nhè. Say do rượu thì ít mà say do tâm trạng thì nhiều. Nhà thơ muốn
mượn rượu để quên đi nỗi buồn đang đầy ắp trong tâm hồn.
* Nghệ thuật của bài thơ:
Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm luật rất chỉnh nhưng vẫn dung dị, tự nhiên.
Nguyễn Khuyến có nhiều sáng tạo trong cách gieo vần và sử dụng từ ngữ, hình ảnh
đậm đà tính chất dân tộc. III. Kết bài:
Tâm trạng u hoài của nhà thơ Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật, đồng điệu
với dáng thu, hồn thu của làng cảnh quê hương.
Nhà thơ buồn bã, day dứt khôn nguôi trước tình cảnh nô lệ của dân tộc, đất nước
mà mình thì lực bất tòng tâm. Mượn rượu giải sầu mà nỗi sầu càng thêm chồng chất.
3. Phân tích bài thơ Thu ẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến 1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát, ngắn gọn về tác giả và bài thơ, nêu ý kiến chung về bài thơ.
Nguyễn Khuyến là tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Thu ẩm
nằm trong chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến và là một trong số những bài
thơ thu nổi tiếng nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là dòng cảm xúc của con người
yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc
Bộ với dáng thu, hồn thu lung linh. 2. Thân bài:
* Phân tích đặc điểm nội dung - Hai câu đề:
Năm gian nhà có thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Không giống như những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh
thu. Nguyễn Khuyến chọn mùa thu trong không gian đặc biệt là buổi đêm "ngõ tối
đêm sâu đóm lập lòe". Cảnh thu thì không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực
rỡ. Đó là cảnh nghèo khó "ba gian nhỏ cỏ". Gian nhà cỏ là biểu trưng của cái nghèo,
cái cực. Nhưng vào thơ Nguyễn Khuyến, cái nghèo dường như bị xóa nhòa. Từ láy
"le te" gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và
khiến cảnh vật bị xóa nhòa. - Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.Hình ảnh thơ rất
độc đáo: sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào. Cách chọn hình ảnh rất bình
dị, rất mộc mạc. Chi tiết bón trăng xuất hiện đã cho người đọc hình dung về hình
ảnh mặt trăng in trên bóng nước tạo ra những gợn sóng lăn tăn khiến người nhìn có
hình dung về bóng trăng loe. Âm "l" đứng đầy các từ gần nhau góp phần làm rõ hơn về bức tranh
Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện
tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến. - Hai câu luận:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe.
Trong câu thơ này, tác giả miêu tả hình ảnh bầu trời. Bầu trời có màu xanh và xanh
ở mức tuyệt đối "xanh ngắt". Nghệ thuật nhân hóa "da trời" đã làm người đọc liên
tưởng về hình ảnh thu tươi đẹp và giống như một người thiếu nữ xinh đẹp.
Đại từ phiếm chỉ "ai" đã làm người đọc hình dung về sự huyền bí, mờ ảo trong tác phẩm.
Đối tượng miêu tả thứ hai của tác giả là miêu tả chính bản thân mình. Đôi mắt đỏ
hoe ở đây là đôi mắt chứa đầy những tâm trạng. Bởi lẽ, đôi mắt đỏ hoe chứa nhiều cảm xúc. - Hai câu kết:
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,Chỉ dăm ba chén đã say nhè.
Cụm từ "tiếng rằng hay hay chẳng thấy" tức là thường xuyên uống rượt hoặc được
hiểu là tửu lượng cao. Và dù "chỉ dăm ba chén" nhưng ta thấy được câu chuyện ở
đây không phải là uống rượu. Mà đó chỉ là một vài chén. Uống rượu không nhằm
say mà uống rượu để quên đi nỗi buồn thời thế.
* Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật.
Thể thất ngôn bát cú Đường luật
Sáng tạo trong gieo vần và sử dụng từ ngữ 3. Kết bài:
- Khẳng định vị trí, ý nghĩa của bài thơ
+ Tâm trạng u hoài của Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật. Nhà thơ đã làm
rõ được tình thu và cảnh thu buồn bã. - Liên hệ bản thân
4. Phân tích Thu ẩm ngắn gọn
Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng. Ông được biết đến là một vị
quan có phẩm chất thanh cao và thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã có rất
nhiêu gia thoại thú vị kể về sự gắn bó của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân.
Không chỉ là một vị quan chính trực, hết lòng vì nhân dân, Nguyễn Khuyến còn là
một người có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở và gắn bó với thiên
nhiên, làng quê và quê hương đất nước.
Quá trình phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận rõ
hơn màu sắc thu ở đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu là những bức tranh thu đặc
sắc, với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.
Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả không thể không nhắc đến tác
phẩm “Thu ẩm”. Nếu như Thu điếu là mùa thu câu cá thì Thu ẩm là mùa thu uống rượu.
Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu và tâm tư của nhà thơ.
Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ
xóm. Chúng mang dáng vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng tả cảm
nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn là thi nhân nữa mà trở thành ông già đang
khề khà chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó mà cảnh vật biến đổi
đầy thú vị và bất ngờ:
“Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te có
nghĩa là rất đơn sơ và lụp xụp, mái tranh cũng xác xơ và rách nát. “Đã thế, lại điểm
thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, cô quạnh:
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ như làn khói mỏng.
Khiến cho khung cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt,
hình ảnh ao thu ở đây không lạnh lẽo trong veo nữa mà là lóng lánh bóng trăng. Có
nghĩa là bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến dạng, trông thật thú vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”.
Ban đêm mà thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy mà cũng đỏ hoe.
Thật kỳ lạ! Nhưng đó chính xác là diễn tả tâm trạng buồn bã chán chường, tìm đến
rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế mà thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay
hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”.
Không phải say túy lúy mà chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ mà không bê tha, phá
phách. Có thể thấy theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để có thể lè nhè đôi ba chén rượu.
Mặc dù đã lui về ở ẩn, vui thú điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn
đau đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm
sự xót xa, tiếc nuối trước tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ
cũng thấy rõ được tài năng thơ ca của tác giả. Chỉ những người có tâm hồn tinh tế
mới có thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy.
5. Phân tích Thu ẩm dài
Hình như trong thi ca – nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn – nỗi buồn trải ra với
đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác… Nhưng với mỗi thi
nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau.
Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam – người đọc
lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái
nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén
với cuộc đời. Nhan đề “Thu âm” – mùa thu uống rượu – là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.
Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất
quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định
một không gian, thời gian cụ thể nào.
Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó
nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân
hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.
Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở
đầu bài thơ bằng cảnh:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.
Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son
gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng
rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm.
Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập
lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu,
những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh
chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.
Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh
bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm
màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn
quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về.
Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động
lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ.
Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có
tài: “… câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng
vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất
vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe,
âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”.
Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ
âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng
tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu.
Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng
lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài
nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.
Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật
ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe,
rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên.
Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà
Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ
là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về
vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp. (Trở về vườn cũ)
Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi
thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước
Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến.
Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà
quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi
trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là
rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau
buồn về non sông đất nước.
Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc
động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm – chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà
hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa
mãi trong lòng người đọc.
Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng
của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận
nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.
6. Phân tích Thu ẩm học sinh giỏi
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có nghĩa là một
trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu
cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm.
Cũng có nhiều bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai
nét tiêu biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng
Bắc bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh tình
đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài là dáng thu
riêng và những nét tâm tình riêng.
Dáng thu trong Thu ẩm là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa lạ. Trời thu thì
xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc; khói phủ thành từng
trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm nay giấu vào hoa năm
ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ…
Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong
Thu điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu bé
tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo.
Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch
của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm
cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi
mòn trong yên lặng như thế.
Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để nhìn được rõ
hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Dáng thu, hồn thu,
cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra đồng, cái ao,
rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu khói phủ mặt nước,
bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên kia, Nguyễn Khuyến là nhà
thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy
mà cảnh vật dường như biến dạng, đầy bất ngờ mà thú vị. Hai câu đề: Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau
chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách
nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng lại
có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng. Hai câu thực cũng vậy:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bóng trăng loe.
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn
màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà
lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống
nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì
ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu
bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt.
Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý.
Bỗng dưng lại lấy một thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời,
rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ?
Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và
tiếng ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ
không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì
bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy
nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng
này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả.
Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là
ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng
loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng,
chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao.
Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng
hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba
chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều
cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó.
Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài
chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm
lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ
Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!