-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Việt Nam và những thách thức về vi phạm luật bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Chúng ta đang sống trong thời đại của sự sống hàng ngày phát triển chóng mặt. Nhu của con người ngày một tăng cao, khiến các phát minh, các dịch vụ, các sản phẩm phải bắt kịp tốc độ phát triển của nhu cầu ấy. Sự phát triển ấy là xu hướng tất yếu chung. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Việt Nam và những thách thức về vi phạm luật bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Chúng ta đang sống trong thời đại của sự sống hàng ngày phát triển chóng mặt. Nhu của con người ngày một tăng cao, khiến các phát minh, các dịch vụ, các sản phẩm phải bắt kịp tốc độ phát triển của nhu cầu ấy. Sự phát triển ấy là xu hướng tất yếu chung. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH
-------------------------------------------------------
TIỂU LUẬN HẾT HỌC PHẦN 2
BỘ MÔN ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG & AN NINH CỦA ĐCSVN Đề tài:
VIỆT NAM VÀ NHỮNG T Á
H CH THỨC VỀ VI PHẠM LUẬ Ả T B Ệ O V ƯỜ MÔI TR
NG TRONG THỜI KÌ
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
Họ và tên sinh viên : Phạm Thị Hà Giang
Lớp : K41 QHCT&TTQT
Mã sinh viên : 2156110021 Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1 Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................. 1
1.2 Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 2
1.3 Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 2
PHẦN 2: NỘI DUNG ...................................................................................... 3
2.1 Những cơ sở lý luận ............................................................................... 3
2.1.1 Khái niệm, vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
................................................................................................................... 3
2.1.2 Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường . 5
2.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi trường ....... 6
2.2 Thực trạng môi trường Việt Nam và tình trạng vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa. .... 10
2.2.1. Thực trạng môi trường Việt Nam .................................................. 10
2.2.2 Tình trạng, những khó khăn trước tội phạm vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường ................................................................................... 15
2.3 Giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa....................... 18
PHẦN 3: KẾT LUẬN ................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 22 1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1 Lý do lựa chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại của sự phát triển chóng mặt. Nhu cầu đời
sống hàng ngày của con người ngày một tăng cao, khiến các phát minh, các
dịch vụ, các sản phẩm phải bắt kịp tốc độ phát triển của nhu cầu ấy. Sự phát
triển ấy là xu hướng tất yếu chung của nhân loại, nhưng đi kèm theo nó là
những hệ lụy mà con người gây ra cho môi trường.
Theo Báo cáo Tình trạng không khí toàn cầu năm 2020 công bố ngày 21/10
do Viện Ảnh hưởng Sức khoẻ (HEI) và Viện Đo lường và Đánh giá Sức khoẻ
(IHME) tại Đại học Washington và Đại học British Columbia thực hiện thì
tình trạng ô nhiễm môi trường không khí trên thế giới rất đáng báo động. Tình
trạng này không phải chỉ mới xảy ra mà đã tồn tại từ trước, tuy nhiên con
người vẫn chưa có các biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường không khí. WHO đã gọi tình trạng ô nhiễm môi trường không khí là
“kẻ giết người thầm lặng” khi mà 92% dân số thế giới đang sống trong môi
trường có chất lượng không khí ở dưới mức tiêu chuẩn của WHO.
Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường không khí là một trong những vấn đề
nhức nhối nhất. Theo Báo cáo thường niên về chỉ số môi trường (The
Environmental Performance Index - EPI) do tổ chức Môi trường Mỹ thực
hiện, Việt Nam chúng ta là một trong 10 nước ô nhiễm môi trường không khí
hàng đầu Châu Á. Tình trạng ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước,… cũng đang
ở trạng thái báo động đỏ, khi nhiều xí nghiệp, khu công nghiệp xả thải trực
tiếp ra nguồn nước, hoặc không sử dụn
g hệ thống xử lí chất thải công nghiệp
có chất lượng đạt chuẩn. Điều này gây ra rất nhiều những hậu họa về sau, như
làm nhiễm độc nguồn nước, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân
cũng như các hoạt động lao động sản xuất, rất khó để xử lí dứt điểm trong thời gian ngắn. 2
Việt Nam đang trên đà phát triển, đang trong quá trình thực hiện công cuộc
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, song, sự tác động quá mức của con
người đi kèm với những vi phạm luật trong bảo vệ môi trường đang là một
trong những mối lo ngại hàng đầu, cần có giải pháp xử lý kịp thời, cấp thiết,
vì môi trường là tài sản quý giá nhất còn để lại cho con cháu mai sau, cho con
người mọi điều kiện để sống và phát triển; hơn nữa, xu hướng phát triển của
thế giới là phát triển bền vững, phát triển kinh tế phải đi đôi với phục hồi
những vết thương của môi trường tự nhiên. Chính vì vậy, tôi chọn chuyên đề
“Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường” với đề tài “Việt Nam và những
thách thức về vi phạm luật bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa -
hiện đại hóa” để tìm hiểu sâu sắc hơn về những vi phạm luật bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, những thách thức chúng ta đang phải đối mặt và những giải pháp cho nó.
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vi phạm luật bảo vệ môi trường
- Những thách thức ở Việt Nam về vi phạm luật bảo vệ môi trường trong thời
kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa
- Đưa ra phương hướng giải quyết, giải pháp trong tương lai
1.3 Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc đọc, tra cứu, thu thập tài liệu từ các kênh thông tin.
- Sử dụng phương pháp hệ t ố
h ng để trình bày tiểu luận rõ ràng, mạch lạc, dễ đọc và tra cứu. 3
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1 Những cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm, vai trò và quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
2.1.1.1. Khái niệm
Môi trường là tất cả những gì tồn tại quanh ta, cho ta cơ hội để sống và phát triển.
Do đó, bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường
lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững và thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với phương châm lấy phòng ngừa và ngăn chặn làm nguyên tắc chủ đạo, kết
hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ
và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; phát huy năng lực nội sinh, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường (BVMT).
Theo đó, pháp luật về BVMT là hệ thống các văn bản pháp luật quy định
những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm giữ gìn,
phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai
thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.
2.1.1.2 Vai trò của pháp luật trong công tác BVMT
Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong công tác BVMT. Môi trường bị hủy
hoại chủ yếu là do sự “tác động quá mức” của con người đối với các thành
phần cấu tạo nên môi trường tự nhiên. Chính con người trong quá trình khai
thác các yếu tố (thành phần) của môi trường đã làm mất sự cân bằng sinh thái,
gây ô nhiễm, suy thoái thậm chí hủy hoại môi trường. Vì vậy, muốn BVMT
trước hết phải tác động đến con người bằng những chế tài nhất định. Pháp luật
với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con người 4
sẽ có tác dụng rất lớn vì vậy vai trò của pháp luật trong BVMT được thể hiện qua những khía cạnh sau:
- Pháp luật quy định những quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi
khai thác và sử dụng các yếu tố (thành phần) của môi trường.
- Pháp luật xây dựng hệ thống các quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi
trường để bảo vệ môi trường.
- Pháp luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự buộc các
cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đòi hòi pháp luật trong
việc khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
- Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường.
- Giải quyết các tranh chấp liên quan đến bảo vệ môi trường.
2.1.1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trườn g
- Pháp luật về tổ chức, quản lý các hoạt động bảo vệ môi trườn g
+ Hiến pháp (1980, 1992, 2013) quy định về công tác bảo vệ môi trường
+ Luật, Pháp lệnh quy định về bảo vệ môi trường
+ Nghị định, Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Các văn bản hướng dẫn của các cấp về công tác bảo vệ môi trường
- Pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trườn g + Xử lý hình sự
+ Xử lý vi phạm hành chính
+ Xử lý trách nhiệm dân sự trong bảo vệ môi trường 5
2.1.2 Khái niệm, dấu hiệu của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
2.1.2.1 Khái niệm
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy
định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, xâm phạm đến các thành phần của
môi trường làm thay đổi trạng thái, tính chất của môi trường gây ảnh hưởng
xấu tới sự tồn tại, phát triển con người và sinh vật, mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.
Như vậy, tội phạm về môi trường trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, có tác động tiêu cực và gây tổn hại ở mức độ đáng kể đến các yếu tố
của môi trường, tài nguyên gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính
mạng, sức khỏe, tài sản của con người, đến sự sống của động vật, thực vật
sống trong môi trường đó.
Thứ hai, tội phạm về môi trường phải xâm hại đến các quan hệ được luật
hình sự bảo vệ. Đó là sự trong sạch, tính tự nhiên của các thành phần môi
trường, sự cân bằng sinh thái, tính đa dạng sinh học,… tạo nên điều kiện
sống, tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
Ngoài ra, để phân biệt tội phạm về môi trường với các loại tội phạm khác
cần dựa vào yếu tố môi trường. Sự khác biệt đó thể hiện, tội phạm về môi
trường tác động đến các thành phần của môi trường dẫn đến làm thay đổi
trạng thái, tính chất của môi trường hoặc xâm phạm đến quyền con người
được sống trong môi trường trong lành.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi
phạm các quy định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường do các cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm, theo quy
định phải bị xử lý vi phạm hành chính. 6
Dấu hiệu: Tội phạm về môi trường được quy định tại Chương 19 - Bộ luật
hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) bao gồm 12 tội danh được quy định từ
Điều 235 đến điều 246. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm về môi
trường được thể hiện dưới 4 yếu tố cấu thành tội phạm sau đây:
2.1.3 Nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về môi trường
2.1.3.1 Nguyên nhân, điều kiện khách quan
Sự phát triển “quá nhanh” và “nóng” của kinh tế - xã hội không tính đến
yếu tố bảo vệ môi trường của các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội là một
trong những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm môi trường và là
mảnh đất tốt để tội phạm môi trường phát triển.
- Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách ưu đãi để
phát triển kinh tế mà không quan tâm đến bảo vệ môi trường.
+ Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối
ngoại nhằm thu hút đầu tư với nhiều chính sách ưu đãi, nhập khẩu máy móc,
phương tiện, thiết bị phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng công tác
kiểm tra, kiểm soát và quản lý xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ để các đối tượng
lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
+ Việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện phát triển cho các
ngành công nghiệp, khai thác khoáng sản, xuất nhập khẩu, sản xuất hàng hóa
sẽ có điều kiện phát triển, song cũng sẽ p ả
h i đối mặt với một thách thức đó là
các hành vi gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên
môi trường, vi phạm các chế độ về BVMT, đặc biệt đối với các hành vi vận
chuyển chất thải nguy hại, phóng xạ trái phép qua biên giới, xả thải không qua
xử lý ra môi trường…với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp và đa dạng.
Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ lợi dụng những hạn chế trong công tác quản
lý môi trường, sơ hở của pháp luật, thiếu kinh nghiệm, non kém về kiến thức
khoa học - kỹ thuật hoặc lợi dụng những cán bộ thoái hóa biến chất ký cấp
phép các dự án mà không chú trọng các cam kết bảo vệ môi trường. 7
- Áp lực tăng trưởng kinh tế, các cơ quan ở địa phương mới chỉ quan tâm đến
lợi ích kinh tế trước mắt, chưa chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường:
+ Nhận thức không đầy đủ về công tác BVMT đã kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp
phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng của các
dự án đối với môi trường. Bên cạnh đó, việc giải quyết “mâu thuẫn” giữa phát
triển tăng trưởng kinh tế, ả
đ m bảo công ăn việc làm, an sinh xã hội với công
tác BVMT là một “bài toán” hết sức nan giải chưa thể giải quyết một sớm một
chiều đối với nhiều cấp, nhiều ngành.
- Công tác quản lý nhà nước về môi trường:
Việc phân định chức năng quản lý nhà nước và phân công trách nhiệm giữa
các Bộ, ban ngành trong công tác bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ các
thành phần môi trường nói riêng còn chồng chéo, trùng dẫm về chức năng
nhiệm vụ hoặc mỗi một Bộ lại quản lý một khâu, một hoạt động nên việc
thống nhất quản lý xuyên suốt có sơ hở, để cho các đối tượng lợi dụng thực
hiện tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường. Một số bất cập công tác quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường:
+ Quản lý nhà nước đối với nước thải
+ Quản lý nhà nước đối với chất thải rắn (CTR)
+ Quản lý nhà nước đối với môi trường không khí
+ Thẩm định công nghệ môi trườn g
+ Ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường
- Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường còn thiếu và chưa đồng bộ
Văn bản pháp luật về môi trường hiện nay đang trong giai đoạn xây dựng, bổ
sung và hoàn thiện. Hệ thống các văn bản pháp luật về môi trường hiện nay
“vừa thiếu lại vừa thừa”. Thiếu những văn bản pháp quy mang tính thống nhất 8
và có hiệu lực cao. Nhiều văn bản pháp luật còn chồng chéo, trùng lập. Trong
khi đó, thiếu các Thông tư hướng dẫn thực hiện dẫn đến khó khăn cho lực
lượng thực hiện nhiệm vụ.
2.1.3.2 Nguyên nhân, điều kiện chủ qua n
- Nhận thức của một số bộ phận các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT:
Nhận thức chưa cao, ý thức BVMT của các cơ quan, doanh nghiệp và công
dân còn kém, chưa tự giác, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm chú
trọng đúng mức. Chính quyền các cấp, các ngành chỉ chú trọng phát triển kinh
tế chưa coi trọng công tác bảo vệ môi trường; thực hiện các biện pháp thu hút
đầu tư, cấp phép dự án nhưng chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện các cam kết
BVMT, đầu tư hệ thống hạ tầng đảm bảo cho công tác xử lý chất thải, rác thải.
- Các cơ quan chức năng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
2.1.2.3 Nguyên nhân thuộc về phía đối tượng vi phạm
- Vi phạm pháp luật về môi trường nói chung phần lớn đều có động cơ, mục
đích tư lợi cá nhân, đặc biệt là đối tượng phạm tội về môi trường.
- Hầu hết các tội phạm cụ thể trong lĩnh vực môi trường đều có động cơ, mục
đích vụ lợi, đều nhằm mục đích thu lợi bất chính về kinh tế.
- Các đối tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong từng lĩnh vực
cụ thể nhằm mục đích làm sao để k ế
i m được nhiều lợi nhuận nhất và chi phí
bỏ ra ít nhất như trong các lĩnh vực gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
- Phần lớn các đối tượng đều biết song do chi phí cho xử lý chất thải thường
tốn kém nên giá thành sản phẩm sẽ cao, không cạnh tranh được trên thị
trường nên các đối tượng không đầu tư, chấp nhận bị xử phạt còn rẻ hơn là
đầu tư xử lý chất thải. 9
- Ý thức coi thường pháp luật, sống thiếu kỷ cương không tuân thủ các quy
tắc, chuẩn mực xã hội cùng với việc ý thức sai lệch về cách thỏa mãn nhu cầu
cá nhân là yếu tố chủ quan dẫn đến các hành vi vi phạm PL về BVMT của các đối tượng.
- Do vậy, việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức cho mọi người, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật cũng như những
chuẩn mực của cuộc sống sẽ góp phần quan trọng vào phòng, chống vi phạm
PL về BVMT trong giai đoạn hiện nay. 10
2.2 Thực trạng môi trường Việt Nam và tình trạng vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
2.2.1. Thực trạng môi trường Việt Nam
2.2.1.1 Môi trường không khí:
Theo báo cáo năm 2018 của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA), giao thông
vận tải đóng góp 24.34% lượng khí thải carbon mỗi năm. Xét riêng lĩnh vực
giao thông vận tải, các loại ô tô hạng nhẹ, ô tô tải và ô tô bus lần lượt chiếm
44%, 27% và 6% lượng khí thải carbon mỗi năm. Các phương tiện giao thông
cơ giới sử dụng nhiên liệu hóa thạch như xăng và dầu diesel, quá trình đốt
cháy nhiên liệu dẫn tới phát sinh nhiều loại khí thải như SO2, NO2, CO, bụi
(TSP, PM10, PM2.5); thậm chí rò rỉ, bốc hơi nhiên liệu khi vận hành phát sinh VOC, Benzen, Toluen...
Đến tháng 02 năm 2020, toàn quốc có tổng số 3.553.700 xe ô tô và khoảng
45 triệu xe máy đang lưu hành. Trong đó, Hà Nội có gần 6 triệu xe máy,
Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 8 triệu xe máy lưu thông hàng ngày, chưa
tính đến các phương tiện giao thông của người dân từ các địa phương khác đi
qua. Trong số các phương tiện đang lưu hành, nhiều phương tiện cũ không
đảm bảo tiêu chuẩn khí thải, niên hạn để lưu thông trong thành phố, nhiều xe
qua nhiều năm sử dụng và không thường xuyên bảo dưỡng nên hiệu quả sử
dụng nhiên liệu thấp, nồng độ chất độc hại và bụi trong khí thải cao. Đây là
một trong những nguyên nhân của vấn đề ô nhiễm không khí ở các thành phố
lớn ở Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thời gian gần đây ngày càng gia tăng.
Diễn biến chất lượng không khí từ năm 2010 đến nay cho thấy: Từ năm 2018
đến năm 2019, nồng độ bụi PM2.5 có xu hướng tăng hơn so với giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2017. So sánh kết quả quan trắc nồng độ bụi PM2.5 trong
các tháng qua các năm từ 2013 - 2019 cho thấy, từ tháng 9 đến giữa tháng 12
năm 2019, nồng độ bụi PM2.5 tăng mạnh so với các tháng trước đó và tăng
cao so với cùng kỳ các năm từ 2015 - 2018. Giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12 11
năm 2019, khu vực miền Bắc đã xảy ra một số đợt cao điểm ô nhiễm không
khí. Chỉ số chất lượng không khí tại một số đô thị như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh có nhiều thời điểm ở mức xấu với chỉ số AQI từ 150 đến 200, có
khi vượt 200 tương đương mức rất xấu. Nguy hại nhất là bụi mịn gồm những
hạt nhỏ bay lơ lửng trong không trung như PM2.5 (dưới 2.5 micromet), khi
thẩm thấu qua đường hô hấp sẽ là nguyên nhân tiềm ẩn của hàng loạt các căn
bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Chất lượng không khí từ ngày 01/01/2020 đến ngày 10/4/2020 có xu hướng
được cải thiện hơn so với cùng kỳ của những năm trước. Kết quả tính toán chỉ
số AQI cho thấy, chất lượng không khí tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
và một số đô thị trong phần lớn thời gian duy trì ở mức tốt và trung bình. Đặc biệt, từ t ờ
h i gian nửa cuối tháng 3/2020 đến nay, trong đó có giai đoạn cả
nước thực hiện cách ly xã hội để phòng ngừa dịch bệnh Covid 19, giá trị
thông số PM2.5 và CO thấp hơn hẳn thời gian cùng kỳ những năm trước đó.
Đây cũng là những khoảng thời gian ghi nhận lượng phương tiện tham gia
giao thông trong các khu vực nội đô giảm so với thời gian từ tháng 02 năm
2020 về trước, nhiều hoạt động kinh tế - xã hội phải tạm dừng hoặc giảm.
Điều này cho thấy ảnh hưởng của các nguồn phát thải như giao thông và hoạt
động sản xuất có tác động đáng kể đến chất lượng không khí đô thị, thể hiện
khá rõ tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong khoảng thời gian nêu trên
cũng có xu hướng tốt hơn thời gian trước. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân tự nhiên: từ các vụ cháy rừng. Cháy rừng trở thành một vấn
nạn tại Việt Nam trong những mùa khô hanh. Trong vài năm trở lại đây, các
vụ cháy rừng lớn liên tiếp xảy ra ở các tỉnh miền Trung như Nghệ An, Thừa
Thiên Huế,.. Những đám cháy sẽ sản sinh ra một lượng Nito Oxit khổng lồ,
giải phóng một lượng khói bụi và tàn tro lớn vào không khí gây ô nhiễm không khí. 12
- Nguyên nhân từ con người:
+ Hoạt động sản xuất công, nông nghiệp: Đây là nguyên nhân chính, gây
nhức nhối cho cộng đồng và nhà nước, không riêng gì Việt Nam mà rất nhiều
các nước đang phát triển điều vướng phải tình trạng này. Khói bụi từ các ống
xả của nhà máy, xí nghiệp trong những khu công nghiệp làm đen ngòm một
khoảng trời. Chúng thải ra các khí CO2, CO, SO2, NOx cùng một số chất hữu
cơ khác, với nồng độ cực cao. Mưa Axit cũng chính là hậu quả của những
hoạt động sản xuất công nghiệp không xử lý thải đúng cách gây nên.
+ Việc lạm dụng thuốc trừ sâu, phân bón hay các hoạt động đốt rơm, rạ, đốt
rừng làm rẫy cũng là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường không khí.
+ Giao thông vận tải: Với một số lượng các phương tiện giao thông khổng
lồ và di chuyển liên tục, lượng khí thải từ các phương tiện này cũng vô cùng
khủng khiếp. Đặc biệt, đối với những xe đã cũ, hệ thống máy móc hoạt động
kém thì lượng khí thải càng lớn. Các phương tiện giao thông thải vào không
khí các chất độc hại như: CO, VOC, NO2, SO2,... với nồng độ cực cao và liên
tục. Nguyên nhân này chỉ đứng sau hoạt động công nghiệp, khi mà lượng khí
thải từ các phương tiện giao thông xả ra môi trường rất lớn. Theo báo cáo Cơ
quan năng lượng quốc tế (IEA) giao thông vận tải đóng góp 24,34% lượng Carbon mỗi năm.
+ Hoạt động quốc phòng, quân sự
+ Hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng: Các hoạt động xây dựng cao ốc, chung
cư cao tầng hay cầu đường luôn luôn mang đến sự ô nhiễm môi trường không
khí nặng nề. Tiêu điểm là ở Hà Nội vào những ngày giữa tháng 12/2020 bụi
mịn bao phủ hoàn toàn Hà Nội, làm giảm tầm nhìn và ảnh hưởng rất nhiều tới sức khỏe người dân.
+ Thu gom xử lý rác thải: Việc rác thải được thải ra quá nhiều khiến cho các
khu tập kết rác không xử lý được hết khiến cho mùi hôi thối bốc ra. Hay các 13
phương pháp xử lý thủ công như đốt khiến cho không khí bị ô nhiễm trầm trọng.
+ Hoạt động sinh hoạt: Trong quá trình nấu nướng, các khí thải từ nguyên
liệu cháy như gas, than, củi,...sẽ giải phóng một lượng lớn khí độc và bụi vào
môi trường khí. quá trình này sẽ sản sinh một lượng lớn khí CO, CO2, NOx,
SOx,... rất độc hại và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người.
2.2.1.2 Môi trường nước
Kể từ năm 2016, các tổ chức môi trường quốc tế đã báo động Trung Quốc,
Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam đang đứng TOP 5 những quốc
gia có lượng rác thải đổ ra biển nhiều nhất thế giới.
Có một thực trạng rất đáng buồn ở Việt Nam là hành động xả thải ra sông hồ
và biển cả đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc với người dân. Các hình thức
chế tài, nhắc nhở và phạt hành chính đều trở nên quá nhẹ nhàng, không có
tính răn đe đối với những trường hợp vi phạm. Việc dòng sông Thị Vải bị
“bức tử” bởi hóa chất thải ra từ nhà máy Vedan 14 năm liền luôn là nỗi trăn
trở của những người yêu môi trường tại Việt Nam. Tuy nhiên, sau con sông
Thị Vải, hàng năm nước ta vẫn chứng kiến nhiều con sông và vùng biển khác
Vài năm trở lại đây, viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường báo cáo có
đến hơn 17 triệu người tại Việt Nam chưa được tiếp cận với nước sạch.
Những người dân này phải chấp nhận sống chung với nguồn nước ngầm,
nước mưa, nước từ nhà máy lọc không an toàn. Chưa dừng lại tại đó, cứ mỗi
năm các tổ chức môi trường quốc tế và trong nước vẫn tiếp tục đưa ra những
con số rất đáng lo ngại về tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở nước ta:
- Khoảng 9.000 người tử vong mỗi năm do nguồn nước và vệ sinh kém (theo
thống kê của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên & Môi trường) 14
- Khoảng 20.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện mà một trong những
nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước (theo thống kê của Bộ Y tế và
Bộ Tài nguyên & Môi trường)
- 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻm em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng tại
Việt Nam do thiếu nước sạch và vệ sinh kém (theo WHO)
- Khoảng 21% dân số đang sử dụng nguồn nước bị nhiễm Asen (theo báo cáo
của Bộ Tài nguyên & Môi trường)
- 19.000 tấn rác nhựa thải ra môi trường mỗi ngày, trong đó trung bình mỗi
người trong số chúng ta đóng góp đến 1,2kg rác/ngày (theo TS Quách Thị
Xuân – Giám đốc Trung tâm Tư vấn Phát triển bền vững Đà Nẵng)
Bất chấp những con số báo động đỏ này vẫn có đến 30% dân số chưa nhận
thức được tầm quan trọng của nước sạch.
2.2.1.3 Môi trường đất
Ở Việt Nam tình trạng ô nhiễm môi trường đất không chỉ xảy ra ở các vùng
nông thôn mà thậm chí ở các thành phố lớn như Hà Nội hay TP.Hồ Chí Minh.
Theo các báo cáo gần đây thì có khoảng 3,3 triệu hecta đất chưa được đưa vào
sử dụng nhưng đã và đang bị suy thoái, đối với quỹ đất để phục vụ sản xuất
nông nghiệp hay phi nông nghiệp cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Biểu
hiện điển hình nhất là đất bị khô cằn, có màu xám không đồng nhất hoặc
nhiều bọt, xuất hiện các hạt màu trắng tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau
mà tình trạng ô nhiễm môi trường đất cũng khác nhau.
Chúng ta có thể xem xét nguyên nhân gây ổ nhiễm ở 2 khía cạnh đó là
nguồn gây ô nhiễm và chất gây nhiễm. Dưới đây là một số nguyên nhân ô
nhiễm môi trường đất của 2 khía cạnh trên.
- Nguồn gây ô nhiễm tự nhiên: Đất bị nh ễ
i m phèn do nguồn nước di chuyển
từ một khu vực bị ô nhiễm khác đến, đất bị nhiễm mặn do tình trạng xâm 15
ngập mặn của nước biển hoặc từ các cánh đồng muối và Gley hóa trong đất
sinh ra các chất độc gây ô nhiễm .
- Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo:
+ Do hoạt động xả thải trong quá trình sản xuất công nghiệp như khai thác
mỏ, nilon, hóa chất, dùng than để chạy nhà máy nhiệt điện hay chất thải nông
nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón và chất thải sinh hoạt như
nước rỉ rác, thức ăn thừa, rác thải,...
+ CO là chất khí gây ô nhiễm điển hình nhất vì đây là chất thải từ các
phương tiện như xe máy, ô tô, khói từ các lò sản xuất gạch hoặc núi lửa phun trào.
+ Kim loại nặng cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm đất điển
hình là các loại bình ắc quy, sắt hay phế liệu,... Chúng tồn tại trong môi
trường đất ở nhiều dạng khác nhau từ rắn đến lỏng.
+ Các chất phóng xạ khi ngấm vào đất sẽ tác động đến môi trường sống của
các loại sinh vật sống trong đó nếu vượt ngưỡng cho phép có thể làm chúng bị
tuyệt chủng hoặc gây nguy hại cho sức khỏe con người và hầu hết đất khi bị
nhiễm phóng xạ rất khó để tái sử dụng được.
+ Các chất này bao gồm phân bón, thuốc trừ sâu, chất tẩy rửa, công nghiệp
sản xuất đồ da, pin, hóa chất,...
Ngoài ra các nguyên nhân khác có thể kể đến như là mưa axit, tình trạng chặt
phá rừng bừa bãi, chôn lấp rác thải không đúng quy định,...
2.2.2 Tình trạng, nhữn
g khó khăn trước tội phạm vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường
Thứ nhất, việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm về môi trường
ngày một khó khăn hơn. Nguyên nhân do phương thức, thủ đoạn của loại tội
phạm này ngày một tinh vi hơn, có sự đối phó với các cơ quan chức năng, đòi
hỏi lực lượng công an nhân dân phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp 16
vụ, huy động lực lượng và phương tiện, tổ chức theo dõi thời gian dài. Một
khó khăn khác trong công tác điều tra, xử lý là nhiều vi phạm có yếu tố nước
ngoài, trong một số vụ việc khi xử lý phải cân nhắc vì yếu tố ngoại giao, giải
quyết bài toán "phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - công ăn việc làm của
người lao động". Nhiều nơi, nhiều lúc việc xử lý còn gặp cản trở, áp lực từ
phía các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ.. .
Thứ hai, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường chưa có sự đồng đều, thống
nhất và chưa thực sự nghiêm minh, có nguyên nhân từ quan điểm xử lý giữa
các địa phương, một số bộ, ngành chưa thống nhất. Nhiều nơi do ưu tiên phát
triển kinh tế nên kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không
quan tâm đến việc thẩm định, đánh giá ảnh hưởng của các dự án đối với môi
trường, nhất là các dự án thuộc lĩnh vực trọng điểm hoặc khi xử lý đối với các
doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thứ ba, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế tài chưa đủ mạnh
để răn đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng "lách luật". Lực lượng cảnh sát
môi trường mới thành lập mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kinh nghiệm còn hạn chế.
Vấn đề đặt ra là, trong những năm tới, tình hình tội phạm và vi phạm pháp
luật về môi trường dự báo vẫn còn nhiều diễn biến mới, phức tạp, chưa thể
giải quyết một sớm một chiều. Do hệ thống pháp luật đang từng bước được
sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, lực lượng chuyên trách làm công tác quản lý
cũng như thực hiện chức năng phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về môi trường cũng từng bước củng cố năng lực để thực thi pháp luật, nên các
đối tượng vẫn sẽ khai thác triệt để những kẽ hở này để vi phạm, đặc biệt là
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp; kinh doanh nhập khẩu; khai thác tài
nguyên, khoáng sản; lĩnh vực quản lý, xây dựng đô thị sẽ có những diễn biến
phức tạp mới. Vi phạm pháp luật môi trường trong các khu công nghiệp, khu 17
chế xuất; vấn đề xử lý chất thải công nghiệp vẫn còn nhức nhối và khó kiểm
soát; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý môi trường trong lĩnh vực y
tế, trong lĩnh vực quản lý thuốc bảo vệ thực vật, vẫn đặt ra cho các cơ quan
quản lý, cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm môi trường những
thách thức mới. Vì lợi nhuận, tội phạm và các doanh nghiệp thiếu đạo đức vẫn
sẽ móc nối với các nhân viên nhà nước biến chất, hám lợi, cấu kết với các tổ
chức tội phạm nước ngoài để nhập khẩu rác, phế thải, thiết bị máy móc cũ vào
Việt Nam... Các doanh nghiệp nước ngoài do áp lực về môi trường ở nước họ,
sẵn sàng đầu tư các công nghệ lạc hậu vào Việt Nam nhằm trốn phí môi trường, thủ đ ạ
o n ngày một tinh vi hơn. Tình hình khai thác tài nguyên,
khoáng sản bừa bãi thiếu kiểm soát, tiếp nhận đầu tư một số lĩnh vực giải trí
như sân Golf gây ô nhiễm môi trường, phá hoại đa dạng sinh học dẫn đến các
nguy cơ sự cố môi trường. Nếu không có chính sách quản lý tốt, tình trạng vi
phạm pháp luật môi trường ở các khu chế xuất, khu công nghiệp sẽ dẫn đến
phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Do áp lực về yêu cầu tăng
trưởng kinh tế, áp lực về công ăn việc làm, về đối ngoại, về an sinh xã hội nên
việc xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường vẫn là bài toán nan giải. Việc
tổ chức phát hiện vi phạm không khó, nhưng việc xử lý sai phạm, đặc biệt là
các doanh nghiệp lớn, có yếu tố nước ngoài, số lượng lao động đông lại rất khó khăn. 18
2.3 Giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trước tình hình đó lực lượng công an nhân dân xác định những nhiệm vụ và đề x ấ
u t một số giải pháp cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường trong thời giantới:
Một là, tiếp tục tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các kế hoạch, chỉ thị của Bộ Công an về công tác bảo vệ
môi trường, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về
môi trường, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân hiểu sâu sắc và
nhận thức rõ nhiệm vụ công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Rà soát kỹ các văn bản pháp luật liên quan đến
hoạt động của lực lượng cảnh sát môi trường để tham mưu cho Chính phủ,
Quốc hội bổ sung, hoàn thiện theo hướng tăng thẩm quyền điều tra tố tụng và
xử lý vi phạm hành chính cho lực lượng cảnh sát môi trường. Triển khai các
kế hoạch, biện pháp nghiệp vụ công an nhân dân nhằm nhanh chóng phát hiện
và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm về môi
trường. Kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức cảnh sát phòng, chống
tội phạm về môi trường các cấp. Làm tốt công tác tuyển dụng, đào tạo huấn
luyện, phân công bố trí cán bộ cảnh sát môi trường. Đồng thời phối hợp với
lực lượng cảnh sát các nước có kinh nghiệm để tổ chức phòng ngừa, đấu tranh
phòng, chống tội phạm môi trường.
Hai là, quan tâm kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường, nhất là ở cấp cơ sở để bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật và Nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có cơ chế và quy định trách nhiệm phối hợp,
phân công, phân cấp hợp lý nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
và vi phạm pháp luật về môi trường giữa các ngành, các cấp với lực lượng công an nhân dân.