Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện

Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện mang đến dàn ý và 2 bài văn mẫu hay nhất. Qua bài văn mẫu này giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý học tập, củng cố kiến thức để biết cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện hay đạt kết quả cao.

Đề bài: Chn mt tác phm truyn (truyn ngn, tiu thuyết) để li cho bn nhiu n
ng v cách k chuyn.
Dàn ý phân tích ngh thut xây dng tình hung truyn V nht
a) M bài
- Gii thiệu sơ lược v tác gi, tác phm:
Kim Lân nhà văn một lòng mt d đi v với "đất", với "người", vi "thun
hu nguyên thy" ca cuc sng nông thôn.
Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó
có V nht ca Kim Lân.
- Dn dt, gii thiu vấn đề : Tình hung truyn độc đáo trong V Nht.
b) Thân bài
* Khái nim tình hung truyn
- Tình hung truyn hoàn cảnh riêng được to nên bi mt s kiện đặc bit ti
đó cuộc sng hiện lên đậm đc nht, bc l nét nhất ý đồ tư tưởng ca tác gi.
- Tình hung truyn gi vai trò là ht nhân ca cu trúc th loi.
* Phân tích tình hung nht v
- Bi cnh xây dng tình hung truyn:
Bi cnh nạn đói khng khiếp năm 1945 mà kết qu là hơn hai triệu ngưi chết.
Mt không khí m đạm, thê lương, những ngưi sng luôn b cái chết đe da.
- Tóm tt tình hung: Vn mt anh chàng dân ng cư, xấu trai, ế m li nghèo, thế
Tràng đã “nhặt” được v mt cách ngu nhiên quá d dàng ngay trong nhng
ngày đói ch bng my câu hát, my lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, my bát bánh
đúc…
Các chi tiết độc đáo ca tình hung truyn:
+ Tràng hi t nhiu yếu t khiến nguy cơ “ế” v rt cao:
Ngoi hình xu xí, thô kch.
Tính tình có phần không bình thường.
Ăn nói cc cn, thô l.
Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và m già.
Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng ly v là ly cho mình thêm mt tai ha (theo lô gíc t nhiên).
+ Vic Tràng ly v là mt tình hung bt ng
C xóm ng cư ngạc nhiên.
Bà c T cũng hết sc ngc nhiên
Bn thân Tràng có v ri vẫn còn “ngờ ng”.
+ Tình hung truyn bt ng nhưng rất hp lý:
Nếu không phải năm đói khng khiếp thì "người ta" không thèm ly một người
như Tràng.
Tràng ly v theo kiểu “nhặt” đưc.
* Giá tr ca tình hung truyn
- Giá tr hin thc:
+ Phác ha tình cnh thê thm của con người trong nạn đói
Cái đói dồn đuổi con người.
Cái đói bóp méo cả nhân cách.
Cái đói khiến cho hnh phúc tht mng manh, ti nghip.
+ T cáo mnh m ti ác ca bn thc dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
khng khiếp.
- Giá tr nhân đạo
+ Tình người cao đẹp th hiện qua cách đối x vi nhau ca các nhân vt.
Tràng rt trân trọng người “v nhặt” của mình.
Thiên chc, bn phn làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “v nht”
Tình yêu thương con ca bà c T.
+ Con người luôn hướng đến s sng và luôn hi vọng, tin tưởng tương lai:
Tràng ly v là đ duy trì s sng.
c T, một người già li luôn ming nói v ngày mai vi nhng d định
thiết thc to nim tin cho con dâu vào mt cuc sng tt đp.
Đon kết tác phm vi hình nh lá c đỏ và đoàn người phá kho thóc Nht.
c) Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dng tình hung truyn đc đáo, hp dn.
- Khẳng định giá tr hin thc và giá tr nhân đạo ca tác phm.
Ngh thut xây dng tình hung trong truyn V nht
Để mt tác phm văn học tr nên thành công thì cn rt nhiu yếu t tác động vào
như nội dung, ngh thut, cùng các giá tr nhân văn mà mang lại. Mt trong nhng
yếu t quan trọng đó chính cách xây dng tình hung truyn. Mt truyn ngn
mun hay, cuốn hút người đọc thì phải đưc mt ct truyn hp dn. Mt trong s
ít nhà văn được mnh danh là bc thy trong xây dng ct truyện đó chính là Kim Lân.
Các tác phm của ông đều nhng nét riêng biệt, đặc sc, ni bt trong s đó chính
tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngn phn ánh s tht v nn đói những năm 1945
cuc sng nghèo kh ca nhân dân thi by gi.
Truyn ngn nói v nhân vt Tràng, một người dân ng nghèo khổ sng cùng m.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng nmột sn phm vi vàng ca tạo hóa “hai con
mt nh đắm vào bóng chiu, hai quai hàm bnh ra, cái mt bm li lúc nào
cũng nhấp nhnh những ý nghĩ vừa thú va d tợn. Cái đầu trc nhn chúi v đằng
trước, cái lưng dài rộng như ng gấu li thêm tt vừa đi vừa ngng mt lên tri
i hnh hch". Qu thc Tràng là mt thanh niên rt xu xí, ch ai thèm ngó ngàng.
Chng nhng vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, qun quanh hai m con Tràng.
Kim Lân đã dùng những t ng chân thật để miêu t cuc sng và ngôi nhà Tràng
đang “nhng bi c di ln nhổn”, “đống qun áo rách vt khươm ơi niên trong
một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gc cây ổi”…. Cuộc sng
túng thiếu ca hai m con hin lên tht gin d, ti nghip, khiến người khác không
khi cm thấy xót thương cho hai s phận. Nhưng điu làm cho Tràng cm thy ti
nhc nht đó chính mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh mit,
coi thưng.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có mt công việc để làm, để trông mong, đó chính
phu xe, hàng ngày bc vác, ch go ra các ch. Công vic thì vt vả, đói khát nhưng
qu thật anh ta lúc nào cũng th vui v, lc quan. Gia trời trưa nắng gt, phi kéo
c mt xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vn có sc ct lên nhng câu hò:
Muốn ăn cơm trắng my giò này
Lại đây mà đẩy xe bò vi anh nì”
Nhng câu này không hn là có ý trêu gho nhng gái ngồi bên đưng, ch
yếu để giúp chàng ta quên đi những mt mi, đói khát mình đang phải chu. y
vy mà ch bng vài ba lời hát vu khiến Tràng được một người con gái để ý
đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết nhng gì mà mình hát trên không
phi s tht, làm go trng ăn chứ nói đến gchả. Để rồi đến khi
gặp người con gái y ln th hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước s thay đổi ngoi
hình ca Th “Th hôm nay rách quá, trên khuôn mt lưi cày ch trơ li hai con mt”.
Qu thc Th đã gầy đi rất nhiu, l đói, khát thể con người Th đã bị
tàn phá nhanh đến như vậy. Th chạy đến ng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! ngưi thế
điêu”, mới đầu hn ta chng hiểu nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra ri mi Th đi
ăn “thích ăn thì ăn”. Th ta chng ngi ngùng cắm đầu ăn liền mt chp bn
bát bánh đúc, quả thc lúc này th ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào người
s khinh b, cho rng th ta đang vứt hết c lòng t trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ
những người xót thương, đồng cm cho một con người đang phải chịu cơn đói nh
h. Khi ấy, con người ta chng còn bận tâm đến danh d, hay nhân phm gì nữa, ăn no
mới điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Th ăn xong, Tràng nói câu nửa vui
nửa đùa rằng “về vi t thì khuôn hàng lên xe ri cùng về”. Tưởng Th s i chê
mình, nào ng Th v tht, v làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới din ra.
Vic mt con trai lớn lên, xây nhà, cưới v việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân
vt Tràng li mt thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc bit dân
ng nữa nên việc Tràng có được v làm rt nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã
thấy đưc ngh thut xây dng tình hung truyện độc đáo của Kim Lân: v đáng lẽ ra
ngưi ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước đến với nhau, nhưng đây, Tràng ta lại
“nhặt” đưc v theo đúng nghĩa đen và của hi môn chc có l ch vài bát bánh đúc
mà th ta vừa ăn lúc trưc.
Vic Tràng v khiến rt nhiều người ngc nhiên, c T m Tràng cùng tt c
những người thôn ng cư, người trong xóm l lm: H đứng c trong ngưng ca nhìn
ra bàn tán. Đến khi hiu ra là Tràng có v theo v, thì h li càng ngạc nhiên hơn nữa.
Người thì “cười lên rung rúc", người li lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn
c cái ca n dài v". Biết nuôi ni nhau sống qua được cái thì này không?”.
Người đời cười chê, chế nho thế nhưng chng làm hai v chng Tràng cm thy ti
nhc, xu hổ. Cho đến khi dn Th v nhà, c c T lẫn Tràng đều không tin nhà mình
có con dâu.
C T va vui va bun, va cm thấy thương xót cho con trai nh. vui con
trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được v, mừng cho hai đứa chúng nó,
nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưi gì mà chng có
c có hoa, không mt mâm c, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là
đưa dẫn nhau v chung, cùng nhau vun n, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà
lp xp hai m con Tràng đang Th ch biết th dài, bt tay vào công vic
dn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng ng chỉ ni cháo loãng vi chút mui trng,
cuc sng của ba con người qu thc rt nghèo kh.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành nhng nh cm tốt đẹp nhất đi với con người
nghèo kh bng c tm lòng nhân hu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước
thm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái b nạn đói cướp đi gần hết (gia
đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không nhng vậy, nhà văn còn rt tinh tế khi phát hin ra khát vng hnh phúc
nim vui khi nht v ca Tràng; cái duyên thm ca th qua cái liếc mt vi
Tràng…Có th i, nhà văn rất trân trng và t hào v v đẹp nhân tính của con ngưi
lao động nghèo trước thm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nvăn còn tp trung ca ngi nhng phm cht tốt đẹp ca nhân dân lao
động qua hình nh ca c T: một người m giàu tình thương con, giàu lòng nhân
hu nim tin vào cuc sống đây ng chính niềm tin của nhà văn vào phẩm
cht tt đp của con người.
Thông qua tình hung truyện, nhà văn lên án tố cáo ti ác ca Nht Pháp đã đẩy
nhân dân ta vào thm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con
người tr thành r ng như rơm như rác: vợ mà nht đưc.
Đúng một tình hung truyn rt l Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân
vt ca mình vào mt tình huống éo le để m ni bt lên nhng giá tr nhân văn sâu
sc. Ông không ch muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con ngưi Vit Nam là dù có
trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng th đối mt vi cái chết
nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau ông còn mun lên án chế độ thc dân
độc ác đã khiến nhân dân ta tr nên nghèo đói, lm than.
Ngh thut t s ca Nam Cao trong truyn ngắn Đời tha
Đời tha (1943) mt truyn ngn ni bt ca Nam Cao trong mảng đề tài v ngưi
trí thc. Tác phẩm đánh dấu s chín muồi trong tưởng ngh thut của nvăn
thường được xem như một tuyên ngôn ca Nam Cao v văn học. Không ch giá tr
v mặt tưởng, Đời thừa còn đặc sc v ngh thut t sự. Đây cũng phương din
chưa được chú ý nhiu trong nhng phân tích, bình ging v truyn ngn này.
Đời tha cấu trúc điển hình ca mt truyn ngn. Toàn b câu chuyn ch din ra
t ngày hôm trước đến sáng hôm sau vi s kin chính trn say rượu của nhà văn
H, nhân vt trung tâm. Câu chuyện cũng không được thut li theo trình t thi gian.
Truyn m đầu bằng đoạn văn người k chuyn miêu t cn cnh khonh khc H
đang chăm chú đọc sách, qua đó có thể thy thế gii sách là nim say mê ln nht ca
nhân vt. Ri t đó, mạch truyn hi c nhng chi tiết trong quá kh ca nhân vt,
người k chuyn cung cấp cho người đọc nhng chi tiết để hình dung v con người
ca H, nht là những suy tư của nhân vt. Cách t chc mch truyn phá v trt t s
kiện như vậy chính một đặc trưng nổi bt ca ngh thut t s hiện đại so vi
truyn thng.
Đời tha là mt truyn ngắn ít hành động không có nhng kch tính dn dp, thay vào
đó, truyện tp trung miêu t dòng suy tưởng những xung đột trong thế gii tinh
thn ca nhân vật. Người k chuyn ngôi th ba, trn thuật theo điểm nhìn bên trong
gn vi ý thc ca nhân vật hơn là từ điểm nhìn bên ngoài. Hình thc trn thuật hướng
ni này phù hp vi vic khc ho nhân vt như một con người đời sống
ng. H không khỏi làm người đọc liên h đến Điền, nhân vật nhà văn trong truyện
ngắn Giăng sáng được Nam Cao sáng tác trước đó. Nhưng nếu nĐiền vn tng
nhng ng nhn trong việc xác định giá tr mình muốn theo đuổi trong s nghip
đời sng thì ngay t đầu, H đã được miêu t như một con người những tưởng
đáng trân trọng. H đặt ra nguyên tc sống tình thương coi kẻ mnh phải ngưi
“nâng người khác trên đôi vai của mình” bản thân H, bằng hành động giang tay
giúp đỡ T khi b ph bạc, đã hiện thc hóa nguyên tc sng y. Trong ngh
nghip, H nuôi hoài bão văn chương nhân vật hiểu văn chương chân chính đòi
hi nhng phm cht rất cao như thế nào. Nhưng cuc sng khn qun, nhng giá
tr đáng ra phải cộng hưởng vi nhau li ny sinh xung đột.
Trên thc tế, nhân vt của Nam Cao đã lựa chn l sống tình thương thay cho khát
vng s nghip. H chp nhn gác li tham vọng văn chương, chấp nhn viết văn để
kiếm tin - điều trước đó anh vốn không nghĩ đến. Th văn chương dùng để mưu
sinh y khiến H đành phải d dãi vi ngòi bút ca mình, viết nhanh, viết nông không
th cu toàn vi ch nghĩa như trưc kia na, nh đó, mới th nuôi sống đưc gia
đình. Sự la chn này có th trn an nhân vt v mặt đạo đức nhưng hoàn toàn không
đem đến s thanh thn trong ni tâm ca H. Bi khát vọng văn chương thứ khiến
H th khẳng định ý nghĩa đời sng ca bản thân như một nhân, điu bn
phận đạo không th kha lp trn vẹn. Đy chính do khiến H luôn dn vt
trưc trang viết ca mình. mt khía cnh đáng chú ý đây: thực ra hi không
phê phán H anh viết d, viết nht; th n chương Hộ t thy tầm thường y
vẫn đưc in báo, vẫn được tr nhuận bút. Nhưng chính sự t ý thc ca H đã khiến
nhân vt không th yên tâm vi s d dãi ca hi vi các giá tr tầm thường. Anh
thy mình không phải đang tạm gác li khát vng s nghiệp mình đang “hỏng”,
đang phản bi chính những tưởng mình đã xác định. Trong ni tâm ca H,
thưng xuyên một phiên toà, nơi chính anh tự kết án chính mình bng nhng ngôn
t nng n nhất như “khn nạn”, “cẩu thả”, “bất lương”, “đê tiện”. ơng theo dòng
suy nghĩ của nhân vật, người k chuyện như giúp người đọc “quan sát cận cảnh” xung
đột nội tâm thường trc H. Hình thc li trn thut na trc tiếp vi các t được
chú ý lp li, các câu hi mang tính cht t vấn đóng vai trò quan trng trong vic
din t s t đay nghiến cũng như nỗi tht vng ca nhân vt v chính mình: “Khốn
nn! Khn nn Khn nn thay cho hn! Bi vì hn chính là thng khn nn! [...] Chao
ôi! Hắn đã viết nhng gì? Toàn nhng cái v, nht phèo, gi nhng tình cm rt
nh, rt nông, din mt vài ý rất thông thường quy loãng trong mt th văn bằng
phẳng và quá ư dễ dãi. Hn chẳng đem một chút mi l đến văn chương. Thế nghĩa
hn là mt kích, một người thừa. Văn chương không cần đến nhng người th
khéo tay, làm theo mt vài kiu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được nhng
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhng nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo nhng cái
chưa có... Hắn nghĩ thế bun lm, bun lm! Còn buồn hơn chính mình li
chán mình? Còn gì đau đớn cho mt k vn khát khao làm mt cái gì mà nâng cao giá
tr đời sng ca mình, kết cc chẳng làm được cái gì, ch những lo cơm áo đủ
mt”.
Nhưng bi kịch H không phi ch nm ch s nghiệp rơi vào bế tc. S xung dc
trên con đường văn chương của H kéo theo s tha hoá v nhân cách ca nhân vt. H
biến ni bt mãn v bn thân thành nhng hành động bo hành v con ca mình
những người trước đó anh từng coi đối ợng để thc hành l sống tình thương -
phi hng chu. Không ch phn bi lại lí tưởng văn chương Hộ còn t giẫm đạp lên
ng sng ca mình. Tri nghim ca H sau trận say rượu s kin duy nhất được
miêu t trong truyn ngn này không phi tri nghim lần đầu ca nhân vt. Nh
li những mình đã làm trong cơn say, H xu h ăn năn, lại sn sàng t kết án
mình bng ngôn t nng n nht có th trưc mt Từ: “Anh... anh... chỉ là... mt thng
khn nạn!..”. Từ, hẳn đây cũng không phải là lần đầu tiên duy nht, t chi vai
trò là quan tòa khi nghe lời xưng tội ca H. Ngay lp tức, cô đặt mình vào vai trò ca
người bào cha cho H khi nói H “ch một người kh sở”. ri cui cùng t
kết án mình mi chính nguyên nhân dẫn đến bi kch ca Hộ: “Chính em anh
khổ...”. Tất c nhng gì T có th làm ch là chu ti thay. K xưng tội thì không được
tha nhn ti; k được quyn kết ti thì không ch t chi quyền đó còn cả thm
quyn tha th. Câu chuyn kết thúc nhưng những vấn đề trong đời sng ca c T
H vn c ngn ngang, hầu như không thể gii quyết.
Ngưi k chuyn đây giữ mt khong cách nhất định vi nhân vt. Khong cách y
được th hin rõ nht qua giọng điệu trn thuật. Người k chuyn những đồng cm
nhất định vi cuộc đấu tranh ni tâm ca H, ghi nhn s chân thành trong thái đ ăn
năn, biết li ca nhân vt sau trận say. Nhưng mặt khác, người k chuyện cũng thể
hiện thái độ nghiêm khắc đối vi H qua cách dùng đại t nhân xưng “hắn” để gi
nhân vt, qua giọng điu k hàm cha s ma
mai ngầm đối với cơn cao hứng ca H khi tuyên ngôn v văn chương giữa cuc say,
nht qua cách miêu t tiếng khóc ca nhân vt. Khonh khc H bật khóc như
“nưc mt qu chanh người ta bóp mạnh” chính là khoảnh khc nhân vật đối din
vi s tht ca chính mình, rng H không phải là “kẻ mạnh” như anh từng nghĩ, rằng
thay nâng đỡ T, một người yếu đuối như anh từng tâm nim thì hoá ra chính anh
lại đang giày Từ, bt T chu thêm nhng tổn thương. liu rng nhng triết
sống ởng như đẹp đẽ H muốn vươn đến đã thoát ra khi ch nghĩa vị k ca
mt nhân vốn được mặc định “k mạnh”? thể nói, người k chuyện đã thay
mặt Nam Cao để làm cái vic mà ông quan tâm nht khi cầm bút. Đó là “đau đáu nhìn
vào cái nhân cách”, là việc “săn đuổi chính mình đầy ráo riết” và cũng là “săn đuổi cái
nhân cách con người ta nói chung” (chữ dùng ca Nguyn Minh Châu).
Đời tha mt truyn ngn giàu tính phê phán. Ngoài phê phán việc con người, nht
ngưi trí thc, th đánh mất mình như thế nào, truyn ngn ca Nam Cao còn
mun phê phán nhng thiết chế hội đã đẩy các giá tr ln vào tình thế xung đột vi
nhau, nơi i tầm thường được bin bch bng do hoàn cnh, trong khi đó những lí
ng, khát vng ln của con người li b hi sinh, b tha hoá bi nhng th ởng như
nh nht nhất trong đời thường, khiến s sng của con người tr nên mất ý nghĩa. Sự
phê phán ca Nam Cao biu hin ca một “tấm lòng thương đời nhất” một “con
mắt nhìn đời ác nhất”2), nói như Nguyn Minh Châu. Tt c điu này gây ấn tượng
mnh m đối với người đọc nh mt ngh thut t s chiu u, giàu sc thuyết
phc.
| 1/10

Preview text:

Đề bài: Chọn một tác phẩm truyện (truyện ngắn, tiểu thuyết) để lại cho bạn nhiều ấn
tượng về cách kể chuyện.
Dàn ý phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
• Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần
hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.
• Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó
có Vợ nhặt của Kim Lân.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt. b) Thân bài
* Khái niệm tình huống truyện
- Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại
đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
- Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích tình huống nhặt vợ
- Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:
• Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
• Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
- Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế
mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những
ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:
+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ rất cao:
• Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
• Tính tình có phần không bình thường.
• Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
• Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
• Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
• Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
• Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
• Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn “ngờ ngợ”.
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lý:
• Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
• Tràng lấy vợ theo kiểu “nhặt” được.
* Giá trị của tình huống truyện - Giá trị hiện thực:
+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
• Cái đói dồn đuổi con người.
• Cái đói bóp méo cả nhân cách.
• Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. - Giá trị nhân đạo
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
• Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình.
• Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt”
• Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
• Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
• Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định
thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
• Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật. c) Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện Vợ nhặt
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào
như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những
yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn
muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số
ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân.
Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nổi bật trong số đó chính
là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm 1945 và
cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con
mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào
cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng
trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời
cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng.
Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng.
Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng
đang ở “những bụi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong
một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống
túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không
khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi
nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là
phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng
quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo
cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ
yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy
vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và
đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không
phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi
gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại
hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị
tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế
mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi
ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn
bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người
sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có
những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành
hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no
mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui
nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê
mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân
vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân
ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã
thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra
là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại
“nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc
mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả
những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn
ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa.
Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn
rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi
nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con
trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó,
nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có
cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là
đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà
lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc
dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng,
cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người
nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước
thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia
đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và
niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với
Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người
lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao
động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân
hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm
chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy
nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con
người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân
vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu
sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có
ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết
nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân
độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa
Đời thừa (1943) là một truyện ngắn nổi bật của Nam Cao trong mảng đề tài về người
trí thức. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và
thường được xem như một tuyên ngôn của Nam Cao về văn học. Không chỉ có giá trị
về mặt tư tưởng, Đời thừa còn đặc sắc về nghệ thuật tự sự. Đây cũng là phương diện
chưa được chú ý nhiều trong những phân tích, bình giảng về truyện ngắn này.
Đời thừa có cấu trúc điển hình của một truyện ngắn. Toàn bộ câu chuyện chỉ diễn ra
từ ngày hôm trước đến sáng hôm sau với sự kiện chính là trận say rượu của nhà văn
Hộ, nhân vật trung tâm. Câu chuyện cũng không được thuật lại theo trình tự thời gian.
Truyện mở đầu bằng đoạn văn mà người kể chuyện miêu tả cận cảnh khoảnh khắc Hộ
đang chăm chú đọc sách, qua đó có thể thấy thế giới sách là niềm say mê lớn nhất của
nhân vật. Rồi từ đó, mạch truyện hồi cố những chi tiết trong quá khứ của nhân vật,
người kể chuyện cung cấp cho người đọc những chi tiết để hình dung về con người
của Hộ, nhất là những suy tư của nhân vật. Cách tổ chức mạch truyện phá vỡ trật tự sự
kiện như vậy chính là một đặc trưng nổi bật của nghệ thuật tự sự hiện đại so với truyền thống.
Đời thừa là một truyện ngắn ít hành động không có những kịch tính dồn dập, thay vào
đó, truyện tập trung miêu tả dòng suy tưởng và những xung đột trong thế giới tinh
thần của nhân vật. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba, trần thuật theo điểm nhìn bên trong
gắn với ý thức của nhân vật hơn là từ điểm nhìn bên ngoài. Hình thức trần thuật hướng
nội này phù hợp với việc khắc hoạ nhân vật như là một con người có đời sống tư
tưởng. Hộ không khỏi làm người đọc liên hệ đến Điền, nhân vật nhà văn trong truyện
ngắn Giăng sáng được Nam Cao sáng tác trước đó. Nhưng nếu như Điền vốn từng có
những ngộ nhận trong việc xác định giá trị mình muốn theo đuổi trong sự nghiệp và
đời sống thì ngay từ đầu, Hộ đã được miêu tả như một con người có những lí tưởng
đáng trân trọng. Hộ đặt ra nguyên tắc sống tình thương coi kẻ mạnh phải là người
“nâng người khác trên đôi vai của mình” và bản thân Hộ, bằng hành động giang tay
giúp đỡ Từ khi cô bị phụ bạc, đã hiện thực hóa nguyên tắc sống ấy. Trong nghề
nghiệp, Hộ nuôi hoài bão văn chương và nhân vật hiểu rõ văn chương chân chính đòi
hỏi những phẩm chất rất cao như thế nào. Nhưng vì cuộc sống khốn quẫn, những giá
trị đáng ra phải cộng hưởng với nhau lại nảy sinh xung đột.
Trên thực tế, nhân vật của Nam Cao đã lựa chọn lẽ sống tình thương thay cho khát
vọng sự nghiệp. Hộ chấp nhận gác lại tham vọng văn chương, chấp nhận viết văn để
kiếm tiền - điều mà trước đó anh vốn không nghĩ đến. Thứ văn chương dùng để mưu
sinh ấy khiến Hộ đành phải dễ dãi với ngòi bút của mình, viết nhanh, viết nông không
thể cầu toàn với chữ nghĩa như trước kia nữa, nhờ đó, mới có thể nuôi sống được gia
đình. Sự lựa chọn này có thể trấn an nhân vật về mặt đạo đức nhưng hoàn toàn không
đem đến sự thanh thản trong nội tâm của Hộ. Bởi khát vọng văn chương là thứ khiến
Hộ có thể khẳng định ý nghĩa đời sống của bản thân như một cá nhân, điều mà bổn
phận đạo lí không thể khỏa lấp trọn vẹn. Đấy chính là lí do khiến Hộ luôn dằn vặt
trước trang viết của mình. Có một khía cạnh đáng chú ý ở đây: thực ra xã hội không
phê phán Hộ vì anh viết dở, viết nhật; thứ văn chương mà Hộ tự thấy tầm thường ấy
vẫn được in báo, vẫn được trả nhuận bút. Nhưng chính sự tự ý thức của Hộ đã khiến
nhân vật không thể yên tâm với sự dễ dãi của xã hội với các giá trị tầm thường. Anh
thấy mình không phải đang tạm gác lại khát vọng sự nghiệp mà là mình đang “hỏng”,
đang phản bội chính những lí tưởng mà mình đã xác định. Trong nội tâm của Hộ,
thường xuyên có một phiên toà, nơi chính anh tự kết án chính mình bằng những ngôn
từ nặng nề nhất như “khốn nạn”, “cẩu thả”, “bất lương”, “đê tiện”. Nương theo dòng
suy nghĩ của nhân vật, người kể chuyện như giúp người đọc “quan sát cận cảnh” xung
đột nội tâm thường trực ở Hộ. Hình thức lời trần thuật nửa trực tiếp với các từ được
chú ý lặp lại, các câu hỏi mang tính chất tự vấn đóng vai trò quan trọng trong việc
diễn tả sự tự đay nghiến cũng như nỗi thất vọng của nhân vật về chính mình: “Khốn
nạn! Khốn nạn Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì hắn chính là thằng khốn nạn! [...] Chao
ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất
nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng
phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa
là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ
khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái
gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại
chán mình? Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá
trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”.
Nhưng bi kịch ở Hộ không phải chỉ nằm ở chỗ sự nghiệp rơi vào bế tắc. Sự xuống dốc
trên con đường văn chương của Hộ kéo theo sự tha hoá về nhân cách của nhân vật. Hộ
biến nỗi bất mãn về bản thân thành những hành động bạo hành mà vợ con của mình –
những người trước đó anh từng coi là đối tượng để thực hành lẽ sống tình thương -
phải hứng chịu. Không chỉ phản bội lại lí tưởng văn chương Hộ còn tự giẫm đạp lên lí
tưởng sống của mình. Trải nghiệm của Hộ sau trận say rượu – sự kiện duy nhất được
miêu tả trong truyện ngắn này – không phải là trải nghiệm lần đầu của nhân vật. Nhớ
lại những gì mình đã làm trong cơn say, Hộ xấu hổ và ăn năn, lại sẵn sàng tự kết án
mình bằng ngôn từ nặng nề nhất có thể trước mặt Từ: “Anh... anh... chỉ là... một thằng
khốn nạn!..”. Và Từ, hẳn đây cũng không phải là lần đầu tiên và duy nhất, từ chối vai
trò là quan tòa khi nghe lời xưng tội của Hộ. Ngay lập tức, cô đặt mình vào vai trò của
người bào chữa cho Hộ khi nói Hộ “chỉ là một người khổ sở”. Và rồi cuối cùng cô tự
kết án mình mới chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Hộ: “Chính vì em mà anh
khổ...”. Tất cả những gì Từ có thể làm chỉ là chịu tội thay. Kẻ xưng tội thì không được
thừa nhận tội; kẻ được quyền kết tội thì không chỉ từ chối quyền đó mà còn cả thẩm
quyền tha thứ. Câu chuyện kết thúc nhưng những vấn đề trong đời sống của cả Từ và
Hộ vẫn cứ ngổn ngang, hầu như không thể giải quyết.
Người kể chuyện ở đây giữ một khoảng cách nhất định với nhân vật. Khoảng cách ấy
được thể hiện rõ nhất qua giọng điệu trần thuật. Người kể chuyện có những đồng cảm
nhất định với cuộc đấu tranh nội tâm của Hộ, ghi nhận sự chân thành trong thái độ ăn
năn, biết lỗi của nhân vật sau trận say. Nhưng mặt khác, người kể chuyện cũng thể
hiện thái độ nghiêm khắc đối với Hộ qua cách dùng đại từ nhân xưng “hắn” để gọi
nhân vật, qua giọng điệu kể hàm chứa sự mỉa
mai ngầm đối với cơn cao hứng của Hộ khi tuyên ngôn về văn chương giữa cuộc say,
và nhất là qua cách miêu tả tiếng khóc của nhân vật. Khoảnh khắc Hộ bật khóc như
“nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh” chính là khoảnh khắc nhân vật đối diện
với sự thật của chính mình, rằng Hộ không phải là “kẻ mạnh” như anh từng nghĩ, rằng
thay vì nâng đỡ Từ, một người yếu đuối như anh từng tâm niệm thì hoá ra chính anh
lại đang giày vò Từ, bắt Từ chịu thêm những tổn thương. Và liệu rằng những triết lí
sống tưởng như đẹp đẽ mà Hộ muốn vươn đến đã thoát ra khỏi chủ nghĩa vị kỉ của
một cá nhân vốn được mặc định là “kẻ mạnh”? Có thể nói, người kể chuyện đã thay
mặt Nam Cao để làm cái việc mà ông quan tâm nhất khi cầm bút. Đó là “đau đáu nhìn
vào cái nhân cách”, là việc “săn đuổi chính mình đầy ráo riết” và cũng là “săn đuổi cái
nhân cách con người ta nói chung” (chữ dùng của Nguyễn Minh Châu).
Đời thừa là một truyện ngắn giàu tính phê phán. Ngoài phê phán việc con người, nhất
là người trí thức, có thể đánh mất mình như thế nào, truyện ngắn của Nam Cao còn
muốn phê phán những thiết chế xã hội đã đẩy các giá trị lớn vào tình thế xung đột với
nhau, nơi cái tầm thường được biện bạch bằng lí do hoàn cảnh, trong khi đó những lí
tưởng, khát vọng lớn của con người lại bị hi sinh, bị tha hoá bởi những thứ tưởng như
nhỏ nhặt nhất trong đời thường, khiến sự sống của con người trở nên mất ý nghĩa. Sự
phê phán của Nam Cao là biểu hiện của một “tấm lòng thương đời nhất” và một “con
mắt nhìn đời ác nhất”2), nói như Nguyễn Minh Châu. Tất cả điều này gây ấn tượng
mạnh mẽ đối với người đọc nhờ một nghệ thuật tự sự có chiều sâu, giàu sức thuyết phục.