Xây dựng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới quốc gia trong tình hình mới và trách nhiệm của giới trẻ | Tiểu luận HP1 đường lối quốc phòng an ninh
Nội dung xây dựng và bảo vệ biển, đảo biên giới quốc gia Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo biên giới quốc gia. Vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ trẻ trong bảo vệ chủ quyền biển đảo biên giới quốc gia. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Đường lối quốc phòng và an ninh
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
------------------------- TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
(Xây dựng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới
quốc gia trong tình hình mới )
và trách nhiệm của giới trẻ.
Sinh viên: LÊ THỊ HƯƠNG GIANG
Mã số sinh viên: 2055270012
Lớp 1: QUẢN LÝ KINH TẾ K40A1
Hà nội, tháng 09 năm 2021
MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO BIÊN GIỚI QUỐC GIA. ............... 2
1.1. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia.................................... 2
1.2. Khái niệm biên giới quốc gia, bảo vệ chủ quyền
biển đảo biên giới quốc gia. ............................................. 4
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo 5
1.4. Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ chủ quyền biên
giới quốc gia. ..................................................................... 7
II. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
LÃNH THỔ QUỐC GIA. .................................................. 8
2.1. Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
quốc gia. ............................................................................ 8
2.2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biển, đảo biên giới
quốc gia ............................................................................. 9
III. NGUYÊN TẮC, BIỆN PHÁP BẢO VỀ CHỦ
QUYỀN BIỂN ĐẢO BIÊN GIỚI QUỐC GIAVÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA GIỚI TRẺ. ................................. 14
3.1. Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. . 14
3.2. Biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo biên giới
quốc gia. .......................................................................... 15
3.3. Vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ trẻ
trong bảo vệ chủ quyền biển đảo biên giới quốc gia. ... 19 MỞ ĐẦU
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Qua
hàng ngàn năm lịch sử, biển đảo trong tâm thức của người Việt là đất nước, là
cuộc sống mà biết bao thế hệ cha ông ta đã đổ xương máu để xây dựng, gìn
giữ, phát triển và bảo vệ chủ quyền đất nước cho hiện tại và tương lai. Hiện
nay, Biển Đông đang có những diễn biến hết sức phức tạp ảnh hưởng trực tiếp
đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Chúng ta cần phải phát huy sức mạnh
đoàn kết của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó thế hệ trẻ là lực
lượng nòng cốt, xung kích trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bảo đảm quốc phòng – an
ninh trên biển là nội dung chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt hiện nay.
Trách nhiệm thiêng liêng này thuộc về mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử
dân tộc, trong đó trách nhiệm, nghĩa vụ và vai trò xung kích thuộc về thế hệ
trẻ, đây là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng đất nước và
phát triển bền vững hiện nay và trong tương lai.
Vấn đề về chủ quyền lãnh thổ biên giới là vấn đề đáng quan tâm vì vậy em
làm tiểu luận về vấn đề này để mọi người, giới trẻ ngày nay hiểu , biết được
về lãnh thổ chủ quyền biển đảo biên giới của quốc gia . Và từ đó chúng ta hãy
hành động để thể hiện lòng yêu nước thực hiện vai trò và nghĩa vụ của bản thân. 2 NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN,
ĐẢO BIÊN GIỚI QUỐC GIA.
1.1. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân cư và
quyền lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ
quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia. Theo luật
pháp quốc tế hiện đại, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền.
Quốc gia có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước. Hai khái niệm đó
có thể được dùng thay thế cho nhau.
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc
gia, thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc
gia Việt Nam bao gồm : vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thuỷ và
lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.
Vùng đất quốc gia (kể cả các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của
đất liền (lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia ; bộ phận
quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng
trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải. Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở
những điểm khác nhau (tách rời nhau), nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh
thổ thống nhất của quốc gia ; hoặc cũng có thể chỉ bao gồm các đảo, quần đảo
ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên
bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia vừa là
đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến
mũi Cà Mau ; các đảo như Phú Quốc, Cái Lân... và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam, với bờ biển dài
3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt 3
Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần
đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000
hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; các đảo Cát Hải, Cát Bà,
Bạch Long Vĩ; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía Tây Nam và
Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.
Nội thuỷ là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải. Đường cơ sở là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại
ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố. Vùng
nước thuộc nội thuỷ có chế độ pháp lí như lãnh thổ trên đất liền. Nội thuỷ của
Việt Nam bao gồm: Các vùng nước phía trong đường cơ sở; vùng nước cảng
được giới hạn bởi đường nối các điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công
trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của hệ thống cảng.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lí tính từ đường cơ sở, có chế độ
pháp lí như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc
gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng
quyền qua lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông
biển của nước ven biển. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất
liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Nước ta có thềm lục địa rộng
lớn, là vùng đất và lòng đất đáy biển kéo dài tự nhiên từ lãnh thổ đất liền ra
đến bờ ngoài của rìa lục địa, giới hạn 200 hải lí tính từ đường cơ sở lãnh hải.
Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với thềm lục địa; chủ
quyền của nước ta đối với thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào
việc có tuyên bố hay không.
Lãnh thổ quốc gia đặc biệt là loại lãnh thổ đặc thù của một quốc gia tồn tại
hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời
quốc tế. Ví dụ như trụ sở làm việc và nơi ở của cơ quan đại diện ngoại giao.
Vùng trời quốc gia là khoảng không gian phía trên lãnh thổ quốc gia; là bộ
phận cấu thành lãnh thổ quốc gia và thuộc chủ quyền hoàn toàn của quốc gia 4
đó. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt được
thực hiện theo quy định chung của công ước quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ
về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi
lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên mọi
phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Tất cả các nước, không tính đến quy mô lãnh thổ, dân số, chế độ xã hội, đều
có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lí
thiết yếu của một quốc gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền
quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hiến chương Liên
hợp quốc khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia;
không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ
quyền của một quốc gia khác.
Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận của chủ quyền quốc gia, khẳng
định quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của mình. Mỗi nước
có toàn quyền định đoạt mọi việc trên lãnh thổ của mình, không được xâm
phạm lãnh thổ và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Chủ
quyền lãnh thổ quốc gia dừng lại ở biên giới quốc gia; mọi tư tưởng và hành
động thể hiện chủ quyền quốc gia vượt quá biên giới quốc gia của mình đều là
hành động xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác và trái với công ước
quốc tế. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm; tôn
trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ và luật pháp quốc tế.
1.2. Khái niệm biên giới quốc gia, bảo vệ chủ quyền biển đảo biên
giới quốc gia. 5
Tất cả các quốc gia có độc lập, chủ quyền lãnh thổ đều có biên giới quốc gia.
Biên giới quốc gia được quy định bởi các hiệp ước, hiệp định giữa các nước
có chung biên giới phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ của quốc gia này với lãnh
thổ của quốc gia khác hoặc các vùng mà quốc gia có chủ quyền trên biển.
Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường
và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các
đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa,
vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là quá trình tổ chức, điều chỉnh bằng
pháp luật của Nhà nước đối với các lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới, mà
trực tiếp là lực lượng chuyên trách, nòng cốt nhằm giữ gìn, bảo vệ và chống
lại mọi sự xâm phạm chủ quyền và an ninh biên giới.
Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia,
góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
quốc phòng và an ninh của đất nước.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp bảo vệ và kiến thiết đất nước. Người
khẳng định:“Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì
nhiêu”. Theo Người, “biển bạc” chính là của cải vật chất, là sự giàu có nếu
khai thác tốt tiềm năng, đi liền với bảo vệ biển; biển, đảo chứa đựng tài
nguyên có giá trị về kinh tế, nối liền không gian kinh tế đất nước với khu vực
và thế giới. Khẳng định về vị trí, vai trò của biển, đảo. Nếu mình không lo 6
bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm
vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Theo Người,
muốn khai thác tài nguyên biển phục vụ cho công cuộc kiến thiết nước nhà,
trước hết cần phải giữ yên “cửa nhà”, nghĩa là giữ vững biển, đảo của Tổ
quốc. Ngươi căn dặn cac chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam: "Bơ biên ta
co vi tri rât quan tro ng. Vi vậy, nhiệm vu của Hải quân trươc măt cung như
lâu dai rât nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tim ra cach đanh phu hơ p vơi
điều kiện con ngươi, đi a hinh bơ biên nươc ta va vu khi trang bị minh co.
Trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao và văn hóa của đất nước. Theo Người, sức mạnh bảo vệ biển, đảo là sức
mạnh đoàn kết toàn dân. Ngày 10-4-1956, khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ
phát động miền biển, Người đã căn dặn: “Lực lượng nhân dân tổ chức nhau
lại là chính. Không nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh”. Đây là nguyên tắc
chiến lược, bởi vì khi có nguy biến thì lực lượng và phương tiện tại chỗ của
đồng bào sẽ ứng phó kịp thời, cản trở hữu hiệu mọi sự đe dọa, xâm lấn chủ
quyền biển, đảo trước khi có sự phối hợp của các lực lượng khác. Trong sức
mạnh đoàn kết toàn dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Người luôn nhấn mạnh
đến lực lượng trực tiếp và nòng cốt là Hải quân nhân dân Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ lâu dài, khó
khăn, phức tạp, bởi phạm vi chủ quyền biển, đảo của nước ta rộng lớn, trong
khi thực lực của chúng ta còn hạn chế; nước ngoài có thể sử dụng nhiều thủ
đoạn, kể cả vũ lực để xâm chiếm biển, đảo. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách
đánh phù hợp với điều kiện, con người, địa hình bờ biển nước ta, cùng trang
bị vũ khí hiện có, học tập cách đánh hiện đại kết hợp với truyền thống đánh
giặc xa xưa của tổ tiên. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà
tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”, nên những hoạt động đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc của nước ta có mối quan hệ với cuộc đấu tranh chung
của thế giới tiến bộ; nhưng phải “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến” để tranh thủ sự 7
đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, phải có chính
sách đối ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối
đầu và không gây thù oán với ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức
quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể,
nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam. Theo Người, để tập hợp
các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu
là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta.
1.4. Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Thứ nhất, biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm phải được quản lý, bảo vệ vững chắc trong mọi tình huống.
Đảng ta luôn xác định biên giới là địa bàn chiến lược có địa vị cực kỳ quan
trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng, an ninh của đất nước. Bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia, bao gồm bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, chống xâm nhập trái phép và chống buôn lậu qua biên giới,
bảo vệ tài nguyên của đất nước; xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị, hợp
tác, phát triển với các nước láng giềng.
Thứ hai, xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là nhiệm vụ của
Đảng, Nhà nước; của toàn dân, toàn quân, các ngành, các cấp, các đoàn thể
mà trực tiếp là quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới.
Thứ ba, coi trọng xây dựng Bộ đội biên phòng vững mạnh làm lực lượng
chuyên trách, nòng cốt; tổ chức chỉ huy thống nhất từ Trung ương đến cơ sở
để quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. 8
Quản lý và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trong tình hình mới phải coi
trọng xây dựng Bộ đội biên phòng là lực lượng chuyên trách, nòng cốt; được
tổ chức, chỉ huy thống nhất từ Trung ương đến cơ sở; đồng thời là lực lượng
vũ trang cách mạng của Đảng làm công tác biên phòng. Đây là sự quan tâm
của Đảng đối với lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong quản lý và bảo vệ
biên cương trong thời kỳ mới.
II. NỘI DUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ QUỐC GIA.
2.1. Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là thực hiện tổng thể các giải
pháp, biện pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại
và quốc phòng, an ninh nhằm thiết lập và bảo đảm quyền làm chủ một cách
độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của
quốc gia trong phạm vi lãnh thổ, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thuỷ, lãnh
hải và lãnh thổ đặc biệt của quốc gia. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là
sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp chống lại sự xâm phạm, phá
hoại dưới mọi hình thức để giữ gìn toàn vẹn chủ quyền nhà nước đối với lãnh
thổ quốc gia. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam là
yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung của việc xây dựng và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam gồm :
- Xây dựng, phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và
quốc phòng, an ninh của đất nước.
- Xác lập và bảo vệ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Việt Nam trên
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại
trong phạm vi lãnh thổ của mình.
- Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội
thuỷ, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt của Việt Nam; đấu tranh làm thất bại mọi 9
âm mưu và hành động phá hoại, vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam.
- Bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của đất nước, thống nhất về quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đấu tranh làm thất bại
mọi hành động chia cắt lãnh thổ Việt Nam; mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch cả bên trong lẫn bên ngoài hòng phá hoại quyền lực tối cao của Việt Nam.
Nội dung xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia gắn bó chặt chẽ và
đặt trong tổng thể chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nội dung xây dựng và bảo vệ biển, đảo biên giới quốc gia
Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là thực hiện tổng thể các biện pháp để
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường, lợi ích
quốc gia trên khu vực biên giới; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội ở khu vực biên giới. Trong hoà bình, bảo vệ biên giới quốc gia là tổng thể
các biện pháp mà hệ thống chính trị, xã hội, các lực lượng vũ trang khu vực
biên giới áp dụng nhằm tuần tra, giữ gìn nguyên vẹn, chống lại sự xâm phạm
biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách và làm nòng
cốt trong bảo vệ biên giới quốc gia. Khi có xung đột hoặc chiến tranh, các
biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia được thể hiện rõ qua các trạng thái sẵn
sàng chiến đấu: thường xuyên, tăng cường và cao.
Thứ nhất, bảo vệ chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng biển, vùng
trời, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và các đảo khác thuộc
chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia Việt Nam. Nhà 10
nước thông qua các hoạt động thiết lập chủ quyền đối với lãnh thổ, quyền tài
phán đối với các vùng biển, lãnh thổ, quyền phân định biên giới lãnh thổ của
mình với các quốc gia khác; quyền xác lập quy chế pháp lý trên các vùng lãnh
thổ của mình, đồng thời Nhà nước tổ chức ra các lực lượng để quản lý, bảo vệ
chủ quyền biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, vùng trời và lòng đất, các
đảo và các quần đảo. Nhà nước còn thông qua các hoạt động ngoại giao độc
lập, tự chủ của mình trong quá trình tham gia ký kết các điều ước quốc tế phù
hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích của Việt Nam để bảo
vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thứ hai, quản lý, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới.
Khu vực biên giới gồm: khu vực biên giới trên đất liền, khu vực biên giới trên
biển, khu vực biên giới trên không.
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phải gắn liền với quản lý, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới. Tăng cường sức mạnh
quốc phòng, khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân
đánh thắng chiến tranh xâm lược, xung đột vũ trang, can thiệp quân sự kết
hợp với bạo loạn lật đổ giữ vững ổn định biên giới, bảo vệ Đảng, chính quyền
và Nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa an ninh biên phòng với an ninh nội địa,
quản lý chắc đối tượng, địa bàn, các biến động trên địa bàn biên giới, phối
hợp giữa tình báo biên phòng với phản gián, trinh sát kỹ thuật với điều tra
hình sự, giữa nội biên với ngoại biên để chủ động nắm đánh địch, tấn công tội
phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn biên giới,
đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh để bảo vệ chủ quyền
biên giới quốc gia. Đập tan mọi âm mưu và hành động gây mất ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới quốc gia. Đấu tranh chống mọi
tư tưởng và hành động chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định, phát
triển khu vực biên giới. 11
Thứ ba, quản lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường và lợi ích quốc gia trên khu
vực biên giới và vùng biển quốc gia.
Tài nguyên, môi trường, lợi ích quốc gia luôn gắn liền với chủ quyền quốc
gia. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về
việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên,
sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Vì vậy, bộ đội
Biên phòng phối hợp phối hợp các lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, kiểm
ngư và các bộ, ngành để quản lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường lợi ích quốc
gia các vùng biển của Việt Nam. Bảo vệ tài nguyên, môi sinh, môi trường.
Sử dụng tổng hợp các biện pháp đấu tranh ngăn chặn mọi hành động xâm
phạm tài nguyên, đặc biệt là xâm phạm tài nguyên trong lòng đất, trên biển,
trên không, thềm lục địa của Việt Nam. Ngăn chặn, đấu tranh với mọi hành
động phá hoại, huỷ hoại, gây ô nhiễm môi sinh, môi trường khu vực biên
giới, bảo đảm cho người Việt Nam, nhân dân khu vực biên giới có môi
trường sinh sống bền vững, ổn định và phát triển lâu dài.
Thứ tư, bảo vệ công trình quốc phòng trên khu vực biên giới, các công trình bảo vệ biên giới.
Các công trình quốc phòng trên khu vực biên giới gồm các công trình chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, công trình phòng thủ và phòng tránh thường được
xây dựng từ thời bình. Các công trình quốc phòng trên khu vực biên giới,
công trình bảo vệ biên giới là công trình có vị trí quan trọng bảo vệ biên giới
quốc gia, đồng thời để chủ động đối phó chiến tranh xâm lược, xung đột vũ
trang trong nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới. Bộ đội
Biên phòng là thành viên trong khu vực phòng thủ tĩnh biên giới, lực lượng 12
chuyên trách, nòng cốt trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Do đó, Bộ đội biên phòng là lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong quản lý
địa bàn khu vực biên giới, quản lý bảo vệ đường biên giới, cột mốc, bảo vệ
các công trình quốc phòng trên biên giới để tăng cường tiềm lực quốc phòng
trong phòng thủ, bảo vệ biên giới.
Thứ năm, quản lý, bảo vệ việc chấp hành pháp luật, quy chế biên giới và các
điều ước quốc tế về biên giới.
Để quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp
luật về biên giới, ký kết các hiệp định về quy chế biên giới với các nước láng
giềng và các điều ước quốc tế về biên giới. Bộ đội biên phòng là cơ quan chủ
trì và phối hợp với các lực lượng trong duy trì việc chấp hành pháp luật về
biên giới, quy chế biên giới, các hiệp định về quy chế biên giới với các nước
láng giềng và các điều ước quốc tế về biên giới để giữ vững chủ quyền, lợi ích
quốc gia, an ninh biên giới và trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới.
Thứ sáu, quản lý xuất nhập biên, xuất nhập cảnh, quá cảnh tại các cửa khẩu
biên giới và các cửa khẩu cảng biển.
Quản lý xuất nhập biên, xuất nhập cảnh, quá cảnh tại các cửa khẩu biên giới
và các cửa khẩu đường bộ, đường sắt, cảng biển là một nhiệm vụ quan trọng
của bộ đội biên phòng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật về xuất, nhập cảnh, vận dụng các biện pháp
công tác biên phòng để quản lý, kiểm soát việc qua lại biên giới đối với
người, phương tiện và phối hợp với Hải quan kiểm soát hàng hóa, chống buôn
lậu và gian lận thương mại, chống xâm nhập trái phép, vượt biên, vượt biên
trái phép xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội… giữ vững ổn
định biên giới, tạo mội trường thuận lợi cho hợp tác quốc tế và tham gia hội
nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Thứ bảy, quản lý hoạt động đối ngoại biên phòng. 13
Đồn biên phòng là cơ quan đại diện cho Nhà nước trên biên giới trong quan
hệ với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng, cùng phối hợp bảo vệ
sự ổn định của đường biên giới theo hiệp định biên giới giữa hai nước, phối
hợp đấu tranh chống tội phạm biên giới trên địa bàn biên giới, hợp tác giải
quyết những vấn đề phức tạp, tranh chấp xảy ra trên biên giới theo hiệp định,
quy chế biên giới, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác
phát triển giữa các nước. Đồn biên phòng là cơ quan quản lý thống nhất các
hoạt động đối ngoại biên phòng để giải quyết các vấn đề phức tạp xảy ra trên
khu vực biên giới giữa hai nước theo quy định phân cấp của Chính phủ.
Tám là ưu tiên đầu tư xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về
chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; có chính sách ưu tiên tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân khu vực biên giới định cư ổn định, phát triển và
sinh sống lâu dài ở khu vực biên giới; điều chỉnh dân cư theo yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh khu vực biên giới.
Mười là bảo vệ lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới. Thực thi quyền lực
chính trị tối cao (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên khu vực biên giới ; chống lại mọi hành
động xâm phạm về lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước trên khu vực
biên giới. Bảo đảm mọi lợi ích của người Việt Nam phải được thực hiện ở
khu vực biên giới theo luật pháp Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế và
các hiệp định mà Việt Nam kí kết với các nước hữu quan.
Vấn đề biên giới quốc gia và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia ở Việt Nam
luôn là vấn đề chiến lược, quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước ta. Trong tình hình mới hiện nay, vấn đề này càng cần được
quan tâm đặc biệt, có những biện pháp thực hiện phù hợp để bảo vệ vững
chắc chủ quyền đất nước và mang lại kết quả tốt nhất cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang thực hiện. 14
III. NGUYÊN TẮC , BIỆN PHÁP BẢO VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
BIÊN GIỚI QUỐC GIA VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA GIỚI TRẺ.
3.1. Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Thứ nhất, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, sự phân cấp và phối hợp
chặt chẽ giữa Trung ương với địa phương. Vì bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ
quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội, tăng cường quốc phòng an ninh của đất nước.
Thứ hai, dựa vào Nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và vai
trò tham mưu của lực lượng chuyên trách nòng cốt, kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng với quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước, tham gia quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công
tác quản lý, bảo vệ biên giới cũng như mọi công tác cách mạng khác đều phải
dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Dựa vào nhân dân quản lý, bảo vệ biên giới,
Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn
biên giới, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước cho đồng bào các dân tộc, nâng cao ý thức cảnh giác của người dân.
Thứ ba, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới gắn liền với bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi
trường. Trước sự chống phá của các thế lực thù định và mặt trái của kinh tế
thị trường đang tác động tới mọi mặt của xã hội Việt Nam, công tác quản lý,
bảo vệ biên giới, chủ quyền quốc gia phải gắn liền với bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội… Sự gắn kết các mối quan hệ đó tồn tại thống nhất
hữu cơ trong một nhà nước độc lập, có chủ quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 15
Thứ tư, phát huy ưu thế chính trị, tinh thần dựa vào sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; kết hợp tác chiến với địch vận, tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục với xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Biên giới quốc
gia là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm. Bảo vệ toàn vẹn biên giới quốc gia
là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn quân, toàn dân, dựa vào sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia phải
coi trọng giáo dục, động viên tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa các lực
lượng vũ trang với nhân dân các dân tộc trên biên giới nhằm phát huy cao độ
ưu thế về chính trị, tinh thần, nêu cao chủ nghĩa yêu nước tạo nên sức mạnh
đoàn kết quân dân ở khu vực biên giới trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
3.2. Biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo biên giới quốc gia.
Một là, xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển
vững mạnh, chủ động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi
ích quốc gia, dân tộc trên biển từ sớm, từ xa. Tận dụng thời cơ, phát huy, khai
thác lợi thế của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao,
khoa học - công nghệ; phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc, huy
động cao nhất các nguồn lực, sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh, tiềm lực,
lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững chắc, sẵn sàng bảo vệ
chủ quyền biển, đảo từ sớm, từ xa. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng này,
cần đẩy mạnh xây dựng lực lượng Cảnh sát biển, Hải quân vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và
Nhân dân, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, tổ
chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ,
hợp lý giữa các thành phần, điều chỉnh, mở rộng, phát triển lực lượng, sẵn
sàng đáp ứng mọi nhiệm vụ tác chiến. 16
Đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, làm cho
các lực lượng này đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp quốc
phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo. Chủ động, tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, giữ vững nguyên tắc chiến
lược, khôn khéo và linh hoạt về sách lược, nhận thức đúng về đối tác, đối
tượng theo quan điểm của Đảng, làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các đối tác,
nhất là các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước trong khối
ASEAN và các nước lớn. Bên cạnh đó, duy trì nghiêm các lực lượng trực sẵn
sàng chiến đấu, tăng cường tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, nắm tình hình trên
các vùng biển, nhất là các khu vực biển nhạy cảm, kịp thời phát hiện, xử lý,
không để bị động, bất ngờ. Đồng thời, chủ động điều chỉnh, bổ sung các kế
hoạch, phương án, biện pháp ứng phó phù hợp đối với các vấn đề có thể nảy
sinh trên biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.
Hai là, không ngừng chăm lo, củng cố, xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền
tảng chính trị, tinh thần vững chắc, sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa lực lượng Hải quân,
Cảnh sát biển với một số lực lượng hữu quan, cấp ủy, chính quyền, lực lượng
vũ trang và nhân dân ven biển, trên đảo. Tăng cường lòng tin của ngư dân với
các lực lượng: Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Kiểm ngư, Dân
quân tự vệ biển khi đồng hành, cứu hộ, cứu nạn ngư dân trên biển. Đẩy mạnh
công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ,
chiến sĩ của lực lượng Cảnh sát biển, Hải quân, Bộ đội Biên phòng và nhân
dân ven biển, đảo, góp phần nâng cao trình độ, năng lực công tác, thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao. Các lực lượng bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán quốc gia tiếp tục đồng hành cùng ngư dân hoạt động trên biển,
bảo vệ ngư dân, ngư trường, tuyên truyền pháp luật cho nhân dân ven biển,
đảo, thực hiện lấy dân làm gốc, phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm, sự 17
cống hiến, sức sáng tạo của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
biển, đảo và thực thi pháp luật trên biển.
Để góp phần giữ vững chủ quyền biển, đảo cần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội; kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa và vô hiệu hóa
các âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội, gây mất ổn định, trật tự,
an toàn xã hội, nhất là trong các sự kiện lớn của đất nước. Tiếp tục triển khai
công tác thông tin tuyên truyền biển, đảo theo kế hoạch của các lực lượng, có
thể điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình thực tế, nhằm kịp
thời thông tin, định hướng cán bộ, đảng viên và nhân dân về những vấn đề
liên quan đến chủ quyền biển, đảo.
Ba là, đánh giá đúng tình hình trên các vùng biển, đảo, làm cơ sở cho việc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trước những diễn biến phức tạp hiện
nay, hơn bao giờ hết, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
trực tiếp là các lực lượng hoạt động trên biển cần đánh giá đúng tình hình,
thấy rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, nguy cơ, thách thức, quán triệt sâu sắc
đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng
gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị lệ thuộc, cô lập, tập trung
xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh, tạo
cơ sở, nền tảng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân trên biển ngày càng vững chắc. Để có cơ sở đánh giá đúng tình hình trên
các vùng biển, đảo, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn vững
vàng, kiên định đường lối, quan điểm quốc phòng, an ninh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo và đường lối đổi mới của Đảng.
Thực hiện nhất quán: kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế
độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích chính đáng của Việt Nam theo luật pháp quốc
tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động 18
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo
của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Kiên quyết, kiên trì giữ vững hòa
bình, ổn định, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Giữ vững an
ninh quốc gia, trật tự, kỷ cương, bảo đảm an ninh kinh tế, xã hội, an ninh
mạng, an ninh con người. Trên cơ sở đó, chủ động ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột, phát hiện sớm, xa và xử lý kịp thời những nhân tố bất
lợi, nhất là những nhân tố bên trong có thể gây đột biến. Tiếp tục thực hiện
hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, là thành viên và
tham gia có trách nhiệm, góp phần tích cực vào bảo vệ hòa bình, ổn định, an
ninh của khu vực và thế giới; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước; không ngừng nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về bảo
vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là điều kiện bảo
đảm cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thắng lợi. Do vậy, cần tập
trung xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong các đơn vị trực tiếp tham gia bảo
vệ chủ quyền biển, đảo trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn
diện và sức chiến đấu cao, thật sự là hạt nhân lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị;
tăng cường đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ huy, thực hiện nghiêm cơ
chế kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Chú trọng kiện toàn cơ quan,
đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật trên biển, bổ sung, hoàn thiện
và phát huy vai trò của các biện pháp công tác Cảnh sát biển trong bảo vệ chủ
quyền, thực thi pháp luật trên biển theo quy định của Luật Cảnh sát biển Việt
Nam. Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp tục
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật chặt chẽ, phù hợp với luật pháp và
thông lệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhất là Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, Luật Biển Việt Nam. Các bộ, ngành, địa phương
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành
lang pháp lý đồng bộ, thống nhất trong quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền