Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được quy định bởi một các kháchquan bởi các điều kiện kinh tế – xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống đó thành các bộ phậncấu thành (các chế định pháp luật, ngành luật) khác nhau phù hợp với đặc điểm tính chất củacác quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật doNhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 8 : Bằnh những kiến thức đã học và sự hiểu biết thực tiễn, Đồng chí hãy trình bày ý
kiến của mình về vấn đề XD và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. BÀI LÀM
I/ KHÁI NIỆM VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XHCN :
Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được quy định bởi một các khách
quan bởi các điều kiện kinh tế – xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống đó thành các bộ phận
cấu thành (các chế định pháp luật, ngành luật) khác nhau phù hợp với đặc điểm tính chất của
các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định. Song, các bộ phận khác
nhau đó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất với nhau.
Với nghĩa đó, hệ thống pháp luật XHCN là khái niệm vừa phản ảnh cơ cấu bên trong (hệ
thống cấu trúc của pháp luật) vừa phảm ảnh hình thức biểu hiện bên ngoài hệ thống văn bản
quy phạm của pháp luật); và thể hiện sự thống nhất hữu cơ của các QPPL cấu thành hệ thống
đó, vừ thể hiện sự phân chia các quy phạm ấy thành các chế định pháp luật và các ngành luật
cùng với sự biểu hiện của chúng trong các văn bản QPPL. Nói cách khác, QPPL, chế định pháp
luật và các ngành luật là các thành tố của hệ thống pháp luật.
Về nội dung : hệ thống pháp luật XHCN thể hiện ý chí của GCCN và NDLĐ, phù hợp với
các quan hệ kinh tế – xã hội khách quan có sự thống nhất hài hòa bên trong không mâu thuẫn,
chồng chéo và phủ định lẫn nhau, trên cơ sở phản ánh lợi ích GCCN & NDLĐ.
Về mặt kết cấu : hệ thống pháp luật được phân chia ra thành các ngành luật, mỗi ngành
luật điều chỉnh một lĩnh vực các quan hệ xã hội cùng tính chất. Mỗi ngành luật lại được chia ra
các chế định pháp luật, mỗi chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng
loại. Mỗi chế định pháp luật lai bao gồm nhiều QPPL.
Như vậy, hệ thống pháp luật XHCN là tổng thể các QPPL XHCN, vừa có sự thống nhất với
nhau, vừa được phân chia các ngành luật.
II/ CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và chất lượng cao là yêu cầu khách
quan của bất cứ Nhà nước XHCN nào. Ở Việt Nam, mức độ phát triển của các ngành luật có
khác nhau, nhưng nó đã phản ánh quá trình khách quan trong sự hình thành, phát triển và hoàn
thiện cùng với sự phát triển không ngừng của Nhà nước. Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam
bao gồm các ngành luật cơ bản sau :
1/ Luật Hiến pháp : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ cơ bản phát sinh trong
việc thực hiện quyền lực của nhân dân trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống chính trị xã hội :
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, chế độ bầu cử, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, là ngành luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội quan trọng nhất của các quốc gia và tất cả các ngành luật khác đều được
hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của Luật Hiến pháp. Phương pháp điều chỉnh của Luật
Hiến pháp là phương pháp mang tính tổng hợp, phù hợp với các chế định cụ thể của nó. Nói
chung, phương pháp mệnhlệnh, quyền uy là phương pháp điều chỉnh chủ đạo của Luật Hiến pháp.
2/ Luật hành chính : gồm tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và hành chính Nhà nước trêncác lĩnh
vực của đời sống xã hội. Quan hệ pháp luật hành chính luôn là quan hệ bất bình đẳng giữa một
bên là cơ quan hành chính Nhà nước, một đoàn thể quần chúng hoặc cán bộ, công chức Nhà
nước được giao quyền quản lý Nhà nước, giữ quyền lực Nhà nước với các bên hữu quan tương
ứng có nghĩa vụ phụ tùng. Do đó, phương pháp chủ yếu của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh.
3/ Luật tài chính : gồm tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực hoạt động tài chính của Nhà nước như : việc lập, phê chuẩn và sử dụng ngân sách Nhà
nước, việc định và thu các loại thuế... Các QPPL tài chính đặt cơ sở cho việc xây dựng hệ thống
tiền tệ, quy định việc phát hành lưu thông các loại giấy bạc, kiểm tra và cho vay tín dụng, định và
thu các loại thuế, quy định kỹ luật tài chính trong các hoạt động kinh tế. Phương pháp điều chỉnh
chủ yếu của Luật tài chính là phương pháp mệnh lệnh.
4/ Luật đất đai : gồm tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất đai...trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân cho Nhà
nước thống nhất quản lý. Phương pháp điều chỉnh của Luật đất đai là phương pháp mệnh lệnh
với khuyến khích động viên. Nguồn chủ yếu của Luật đất đai là Hiến pháp.
5/ Luật lao động : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người
lao động và người sử dụng động và cá quan hệ xã hội khác có liên quan đến quan hệ lao động.
Nội dung chủ yếu của Luật lao động là các chế định : hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể, thời giờ làm việc nghỉ ngơi, tiền lương, kỹ luật lao động và trách nhiệm vật chất, an toàn và
vệ sinh lao động, chế độ lao động nữ và chưa thành niên, về tranh chấp lao động. Hiện nay, Nhà
nước ta đã ban hành Bộ luật lao động để điều chỉnh các quan hệ lao động phù hợp với quan hệ
nền kinh tế hành hóa nhiều thành phần kinh tế.
6/ Luật hôn nhân và gia đình : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn và nhận nuôi con nuôi như : thủ tục kết hôn, ly hôn,
nhận nuôi con nuôi, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, bố mẹ con cái nhằm đạt mục đích đảm bảo chế độ hôn nhân tự do, tiến bộ, bình đẳng
nam nữ, một vợ một chồng, xây dựng gia đình hạnh phúc, bảo vệ lợi ích của bà mẹ trẻ em,
chăm sóc và giáo dục con cái.
7/ Luật kinh tế : là tổng thể các QPPL điểu chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quản
lý hoạt động kinh tế của Nhà nước và trong hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh
với nhau. Các chế định chủ yếu của Luật kinh tế là xác định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp
về hợp đồng kinh tế, phá sản doanh nghiệp, cạnh tranh giải quyết kinh tế.... Ngày nay, trong nền
kinh tế thị trường thì vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế, Luật kinh tế là nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước ta.
8/ Luật kinh tế tập thể : là các tổng thể QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể. Ở nước ta trong quá trình đổi mới, để thích
ứng với cơ chế thị trường nhiều loại hình hợp tác xã mới xuất hiện với nhiều hình thức sở hữu
đặc thù, quản lý có nhiều nét đặc thù. Luật hợp tác xã xác định địa vị pháp lý cho các hợp tác xã
hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế khác.
9/ Luật dân sự : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình thức hàng
hóa – tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản như về : danh dự, quyền tác giả, quyền
phát minh, sáng chế... Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự và bình đẳng, thỏa thuận giữa
các chủ thể. Những chế định cơ bản Luật dân sự là : chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng
dân sự, chế địn về thừa kế, quyền tác giả, quyền phát minh, sáng chế...
10/ Luật tố tụng dân sự : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan xét
xử, cơ quan kiểm sát, đương sự và những người tham gia khác trong quá trình điều tra và xét
xử vụ án dân sự. Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của Luật tố tụng dân sự là phương tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự, trách nhiệm hòa giải của toà án trên tinh thần dân chủ, đoàn
kết nhằm giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
11/ Luật hình sự : là tổng thể các QPPL quy định hành vi nào là tội phạm và hình phạt đối
với những người phạm tội. Luật hình bảo vệ chế độ XHCN, hệ thống kinh tế, chính trị, bảo vệ
các quyền và tự do công dân. Nguồn cơ bản của Luật hình sự là Hiến pháp. Phương pháp điều
chỉnh của Luật hình sự là phương pháp quyền lực.
12/ Luật tố tụng hình sự : là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội trong việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm nhanh chóng phát hiện tội phạm, điều
tra chính xác và xét xử nghiêm minh, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân. Luật tố tụng
hình sự thể hiện rõ các nguyên tắc dân chủ, pháp chế và nhân đạo.
Ngoài ra bên cạnh hệ thống pháp luật của quốc gia tồn tại hện thống phápluật quốc tế. Hệ
thống pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
giữa các và các tổ chức kinh tế, giữa các công dân, pháp nhân của các nước khác nhau trong
lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và một số quan hệ khác. Hệ thống pháp luật
quốc tế và tư pháp quốc tế và tư pháp quốc tế.
Công pháp quốc tế là tổng hợp những quy định pháp luật được các quốc gia và các chủ
thể khác của Luật quốc tế xây dựng nên trong quá trình đấu tranh và hợp tác quốc tế. Công
pháp quốc tế chủ yếu điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực chính trị giữa các quốc gia.
Tư pháp quốc tế bao gồm các QPPL xác định pháp luật nước nào được áp dụng điều
chỉnh các quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự nảy sinh giữa
công dân với cá nhân, tổ chức nước ngoài. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá các lĩnh vực của
đời sống xã hội và đất nước một mặt tác động đến sự phát triển của Luật quốc tế, đặc biệt là tư pháp quốc tế.
Từ việc xác định vị trí, vai trò, đối tượng điều chỉnh của các ngành luật cơ bản trong hệ
thống pháp luật XHCN nêu trên, trong khoa học pháp lý người ta chia ra các ngành luật thành
Luật nội dung và luật hình thức – trong đó Luật Hiến pháp giữ vai trò chủ đạo, các luật tố tụng
giữ vai trò là luật hình thức.
III/ CHỦ TRƯƠNG NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG & NHÀ NƯỚC TA VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY :
1/ Khái quát những tồn tại và thiếu sót của hệ thống pháp luật nước ta :
Nước ta từng trải qua hàng ngàn năm của chế độ phong kiến, gần 100 năm dưới chế độ
thuộc địa, lại tập trung vào công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và bắt đầu vào thời kỳ quá
độ lên CNXH. Vì vậy, nhận thức, kinh nghiệm về xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý Nhà
nước theo pháp luật còn nhiều yếu kém. Khó khăn nhất hiện nay của nước ta làm hệ thống pháp
luật phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội, với nhiệm vụ các mạng trong từng giai đoạn.
Thực tiễn xây dựng bộ máy Nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp còn non yếu chưa đảm
đương được đầy đủ vị trí, vai trò của mình. Trong nhiều hợp cụ thể, quyền lực Nhà nước bị biến
dạng qua hoạt động cụ thể của toà án và viện sát dẫn đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp
luật giảm sút trong dư luận quần chúng. Mặt khác, bộ máy Nhà nước ta vừa bất cập về trình độ,
năng lực quản lý, tình trạng nhũng nhiễu, mất dân chủ, phép nước kỷ cương xã hội rải rác ở
nhiều nơi còn buông lỏng, hiệu lực quản lý, điều hành chưa nghiêm làm mất lòng tin với nhân dân.
Đồng thời, quản lý Nhà nước ta chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới : chưa
phát huy được mặt tích cực, chưa khắc phục kịp thời những hạn chế là cho tình trạng bất công,
bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Vì vậy, nếu không kịp tời đẩy lùi tình trạng này thì không
không có khả năng đưa đất nước đi lên mà còn rơi vào tình trạng rối loại xã hội. Với những lý do
trên, việc phát huy quyền làm chủ của dân, xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh là cần
phải tiếp tục cải các bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.
2/ Chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay :
a/ Hệ thống hoá hệ thống pháp luật : hệ thống hoá pháp luật là công tác có ý nghĩa rất
quan trọng, nó tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhìn nhận, đánh giá
tổng quát đối với pháp luật hiện hành, phát hiện những điểm không phù hợp, mâu thuẫn, chồng
chéo và những lổ hổng của sự điều chỉnh pháp luật, từ đó có biện pháp khắc phục hoàn thiện.
Hệ thống hoá hệ thống pháp luật phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao ý thức pháp luật,
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể pháp luật. Hệ thống hóa pháp luật là nhằm
sắp xếp có trình tự hệ thống những QPPL cho phép các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dễ
dàng tìm kiếm những quy phạm cần thiết để áp dụng pháp luật được đúng đắn. Có hai hình thức
hệ thống hoá pháp luật, đó là : tập hợp hoá và pháp điển hoá.
Tập hợp hóa : là sắp xếp các văn bản QPPL hoặc các QPPL riêng biệt theo một trình tự
nhất định. Tập hợp hoá không làm thay đổi nội dung các văn bản, không bổ sung những quy
định mới mà chỉ loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực hoặc mâu thuẫn văn bản cấp trên.
Pháp điển hoá : là hình thức hệ thống hoá pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tiến hành, nó không dừng lại ở tậo hợp hoá mà còn chế định thêm những quy phạm mới
thay thế những quy phạm loại bỏ, khắc phục chổ trống, sửa đổi các QPPL hiện hành, nâng cao
hiệu lực pháp lý văn bản... Kết quả của nó là sự ra đời các văn bản QPPL mới có hiệu lực pháp
lý cao hơn, rộng hơn về phạm vi điều chỉnh hơn về kỹ thuật lập pháp.
b/ Những cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật : tư duy pháp lý củ chỉ thấy bắt
buộc và quyền lực của pháp luật với mục đích tạo ra một khuôn mẫu cứng nhắc, chập hẹp và
thiếu rõ ràng. Tư duy pháp lý mới đòi hỏi pháp luật đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, thúc
đẩy SXKD, giải phóng mọi tiềm năng con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Muốn có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phải hoàn chỉnh cả ba mặt : nội dung, hình thức và cơ
cấu hệ thống pháp luật.
Về nội dung : pháp luật phải thể hiện được đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện ý
chí, nguyện vọng lợi ích của NDLĐ và phù hợp với yêu cầu công cuộc đổi mới, chủ yếu là hoàn
thiện nền dân chủ XHCN và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Về hình thức : phải đảm bảo việc ban hành văn bản, QPPL đúng thẩm quyền và đúng
thể thức.Về cơ cấu : trên cơ sở Luật Hiến pháp phải từng bước bổ sung và hoàn thiện các ngành
dân sự, thương mại quốc tế... để mọi lĩnh vực quan hệ xã hội đều có pháp luật điều chỉnh.
Về công tác xây dựng pháp luật : xây dựng pháp luật là nhằm tạo nên một mối hệ thống
pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý để Nhà nước quản lý mọi mặt về đời sống xã
hội. Hiện nay, công tác xây dựng pháp luật phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng : các nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, VII, VIII đều định hướng bổ sung, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật về tổ chức
bộ máy Nhà nước theo hướng cải các bộ máy Nhà nước. Cụ thể là xây dựng một Nhà nước
là :”Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”; kết hợp với tính thống nhất không phân chia quyền lực
Nhà nước với việc phân định rành mạch các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật và kiên trì thực hiện nguyên tắc làm được tất cả những gì
mà pháp luật không cấm.
Trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng nhằm làm cho pháp luật
được thể chế hoá kịp thời và chính xác đường lối, chính sách của Đảng. Đồng thời sự lãnh đạo
của Đảng trong xây dựng pháp luật thực hiện thông qua tổ chức các Đảng và Đảng viên trong
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật.
+ Nguyên tắc dân chủ XHCN : pháp luật XHCN về bản chất thể hiện ý chí của GCCN và
NDLĐ. Do đó, xây dựng pháp luật phải dảm bảo cho nhân tham gia quản lý Nhà nước và kiểm
tra hoạt động của Nhà nước. Muốn vậy, trong xây dựng pháp luật phải tuyên truyền, phổ biến
pháp luật rộng rãi trong nhân dân, thực hiện khẩu hiệu:”Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” pháp luật Nhà nước.
+ Nguyên tắc pháp chế XHCN : pháp luật XHCN là một hệ thống được thể hiện trong các
văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những hình thức và thủ tục nhất
định được pháp luật quy định. Do đó, việc xây dựng pháp luật phải đảm bảo nguyên tắc pháp
chế XHCN. Cụ thể là :
Các cơ quan ban hành văn bản QPPL phải thực hiện nghiêm chỉnh về nội dung và hình
thức văn cũng như phải tuân thủ trình tự, thủ tục ban hành văn bản. Bảo đảm cơ chế điều chỉnh
pháp luật cho phù hợp với quan hệ kinh tế – xã hội hiện tại, kết hợp chặt chẽ phương pháp kinh
tế và phương pháp hành chính trên cơ sở sử dụng đúng đắn biện pháp thuyết phục, giáo dục và
cưỡng chế của Nhà nước, kết hợp sức mạnh của pháp chế với sức mạnh của dư luận quần chúng.
Văn bản QPPL được ban hành phải phù hợp Hiến pháp; văn bản do cơ quan Nhà nước
cấp trên. Những văn bản trái với hiến pháp của cơ quan Nhà nước cấp trên phải được cơ
quancó thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ thi hành.
Tăng cường vị trí của các đạo luật. Trước hết cần có Luật về trình tự ban hành các văn
bản QPPL. Trong đó quy định những lĩnh vực quan hệ xã hội bắt buộc phải điều chỉnh bằng luật,
việc hạn chế quyền tự do công dân phải được quy định bằng luật; thẩm quyền ban hành các văn
bản QPPL của các cơ quan Nhà nước, trình tự dư thảo lấy ý kiến và trưng cầu ý kiến nhân dân,
thẩm tra và trình dụ án luật ra trước Quốc hội.
Tổ chức thực hiện pháp luật :
Pháp luật và điều kiện có trước pháp chế, nhưng có pháp luật thì chưa hẳn có pháp chế vì
điều kiện quyết định để có pháp chế chính là sự tuân thủ của pháp luật, pháp chế và trật tự pháp
luật XHCN chỉ hình thành khi mọi người hiểu, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.
Thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN là một biện pháp quan trọng
gồm nhiều mặt hoạt động. Đó là :
Các cơ quan Nhà nước chưa có thẩm quyền cần ban hành kịp thời những văn bản cụ
thể hoá những quy định của pháp luật, pháp lệnh, đồng thời có kế hoạch hướng dẫn các ngành,
các cấp thực hiện pháp luật. Mặt khác, để mọi người thực hiện tốt pháp luật trước hết phải đẩy
nhanh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm mục đích hình thành cho mọi người có ý
thức pháp luật XHCN. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp nhất cho việc xây dựng và
thực hiện pháp luật.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, cần dựa trên cơ sở giáo dục pháp luật của hệ thống các
trường Đảng, Nhà nước và kể các trường phổ thông trung học, đại học. Với ý nghĩa đó, là làm
cho các cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến cơ sở phải có kiến thức và am hiểu về pháp
luật, pháp chế. Đồng thời, các cấp, các ngành và đơn vị cơ sở phải thường xuyên củng cố, kiện
toàn tổ chức pháp chế XHCN để nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước ban hành.
- Phải kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước : kiện toàn tổ chức các cơ quan làm công tác
pháp luật, bảo vệ pháp luật, xác định rõ đổi mới cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên
tắc hoạt động của các cơ quan này và phương thức lãnh đạo của cấp úy Đảng cũng như của
cấp trên đối với cấp dưới. Kiện toàn cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan tư pháp (tòa án, Viện
kiểm sát) theo hướng gọn nhẹ, có chất lượng, có phẩm chất chính trị và năng lực quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và khả năng thực hiện thẩm quyền.
Các cơ quan tư pháp phải đảm bảo mọi hành vi vi phạm, tội phạm phải được xủ lý, không
xét xử theo kiểu : quan xử lễ, dân xử theo hình, tôn trọng nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật. Đồng thời cần tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cần thiết để các cơ
quan pháp luật hoạt động có hiệu quả cao. Mặt khác cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
pháp lý và cán bộ hành chính để tăng cường cho các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước.
Bảo vệ pháp luật : bảo vệ pháp luật là nhằm đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm
pháp luật XHCN. Để làm tốt công tác bảo vệ pháp luật cần tiến hành đồng bộ các công tác sau :
Tăng cường giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước (quốc hội, HĐND). Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao trong việc tuân thủ Hiến pháp, luật. Nghị quyết của Quốc hội
xem xét các báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội, bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của quốc hội HĐND có quyền giám sát hoạt động của UBND,
giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND ở địa phương, xem xét các báo cáo của UBND;
bãi bỏ các quyết định sai trái của UBND cùng cấp.
Tăng cường công tác thanh tra của cơ quan hành chính Nhà nước (Chính phủ, UBND).
Nhà nước phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát loại trừ những hành vi không
hợp pháp ra khỏi đời sống pháp chế Nhà nước. Mục đích kiểm tra, giám sát là phát hiện những
sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sai sót đó. Kiểm tra
giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao
động và của mọi công dân, nhưng trực tiếp là cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm tra, thanh tra
Nhà nước, thanh tra nhân dân. Vì vậy phải tăng cường vai trò, vị trí, chức năng và kiện toàn tổ
chức và đẩy mạnh hoạt động các cơ quan nói trên nhằm phát huy vai trò của chúng ta củng cố,
bảo vệ pháp chế XHCN.
Phải xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật : pháp chế XHCN bảo đảm kỷ cương, duy trì
trật tự xã hội. Vì vậy, phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề
có tính nguyên tắc. Theo Lênin, tính nghiêm minh của pháp luật :”... hoàn toàn không phải ở chổ
hình phạt đó phải nặng, mà ở chổ là đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”. Các cơ
quan làm công tác pháp luật phải phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, từ
những vụ việc nhỏ cho đến những vụ việc lớn nhằm đảm bảo mọi vi phạm không thoát khỏi
pháp luật. Đồng thời, phải làm tốt công tác xét và giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân.
Sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tăng cường pháp chế XHCN : công tác tăng
cường pháp chế phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Các cấp ủy Đảng từ trung ương
đến địa phương phải chú ý về cương lĩnh, nghị quyết đường lối, chính sách cho hoàn chỉnh.
Đồng thời, thường xuyên tăng cường các bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và
kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp. Mọi cơ quan, tổ chức,
đảng viên của Đảng phải thực hiện đúng pháp luật, không can thiệp, làm thay thẩm quyền của
các cơ quan, công chức Nhà nước. IV/ KẾT LUẬN :
Ở bất cứ một nền kinh tế nào cũng phải có vai trò của Nhà nước và sự đảm bảo bằng pháp
luật. Ở nước ta, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN thì pháp chế và trật tư pháp luật có vai trò qua trọng trong việc tổ chức, điều hành
kinh tế, trong việc bảo vệ và củng cố chế độ XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, thực hiện công bằng xã hội và củng cố cơ sở pháp luật của đời sống xã hội.
Đặc biệt nước ta đang thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì không thể
không tiếp tục xây dựng Nhà nước, hoàn chỉnh pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN để
hướng dẫn và giúp đỡ nền kinh tế thị trường phát huy tích cực và khắc phục hạn chế vốn của
nó. Đồng thời, việc xây dựng nền dân chủ ở nước ta cũng không thể tách rời việc tăng cường
pháp chế, các quyền và lợi ích của công dân cũng như những thể chế dân chủ khác mới trở
thành thực tế của đời sống