





Preview text:
XUẤT KHẨU TƯ BẢN
Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là mang tư bản ra nước ngoài để đầu tư nhằm thu giá trị
thặng dư và các nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
Nguyên nhân: Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng "thừa tư
bản". Tình trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là
không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước
này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó,
ở những nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu
và nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật. Do tập trung trong tay một khối
lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài trở thành một nhu cầu tất
yếu của các tổ chức độc quyền.
Lênin khẳng định rằng, xuất khẩu tư bản khác về nguyên tắc với xuất khẩu hàng hóa và là
quá trình ăn bám bình phương. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến vì:
Một là, trong một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng lớn tư bản kếch
xù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi
nhuận cao ở trong nước.
Hai là, khả năng xuất khẩu tư bản xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn
vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại rất thiếu tư bản. Các nước đó giá ruộng đất lại
tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao.
Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế - xã hội càng gay gắt. Xuất
khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức gay gắt đó.
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư thì có đầu
tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
- Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản thông qua xây dựng mới hoặc mua
lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh, biến nó
thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại
dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là
của một công ty nước ngoài. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp là quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tư bản.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản thông qua việc cho vay để thu lợi
tức, mua chứng khoán,… mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu
tư. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, tư
nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác nhau để
đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Đặc điểm đầu tư gián tiếp là quyền sử dụng tư bản
tách rời khỏi quyền sở hữu tư bản.
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân:
- Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản được thực hiện bởi nhà nước
tư bản độc quyền. Thông qua ngân sách đầu tư vào kết cấu hạ tầng, viện trợ… nhằm mục
tiêu kinh tế, chính trị, quân sự. Nhà nước dùng vốn từ ngân sách quốc gia, tiền của các tổ
chức độc quyền đầu tư vào các nước nhập khẩu tư bản, dưới hình thức viện trợ có hoàn
lại hoặc không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị hoặc quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng
để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân (có hoàn lại), hoặc để ký kết
các hiệp định thương mại và đầu tư có lợi (không hoàn lại)…
Về chính trị, xuất khẩu tư bản nhà nước thường thực hiện dưới hình thức “viện
trợ” nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị “thân cận” đã bị lung lay ở các nước nhập
khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước phát triển, tạo điều
kiện cho tư nhân đẩy mạnh xuất khẩu tư bản.
Về quân sự, xuất khẩu tư bản nhà nước nhằm hình thành các liên minh quân sự, lôi
kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các
nước xuất khẩu tư bản lập các căn cứ quân sự trên lãnh thổ nước mình…
- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực hiện,
thường đầu tư vào những ngành có vòng quay vốn ngắn và thu được lợi nhuận cao. Ngày
nay, hình thức này chủ yếu do các công ty độc quyền xuyên quốc gia tiến hành thông qua
hoạt động đầu tư kinh doanh. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất
khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu.
Vai trò, ý nghĩa: Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn
thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích cực đến
nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển kinh tế tự cung tự cấp
thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ
cấu kinh tế nông - công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
Hiện nay, xuất khẩu tư bản có những biểu hiện mới, cụ thể:
Thứ nhất, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại làm thay đổi
yêu cầu về môi trường đầu tư, như : sự xuất hiện các ngành có hàm lượng khoa học kỹ
thuật cao, hàm lượng vốn lớn, đòi hỏi dung lượng thị trường lớn và chất lượng cao,
nguồn nhân công phải được đào tạo và có trình độ, tay nghề, có cơ sở hạ tầng của sản
xuất hiện đại, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định… Ở các nước chậm phát triển
không đáp ứng được những yêu cầu đó, nên hiện nay lượng tư bản xuất khẩu giữa các
nước phát triển với nhau ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tư bản xuất
khẩu của thế giới.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, vai trò của các công ty xuyên
quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mặt khác, các nước đang phát triển cũng thực hiện xuất khẩu tư bản.
Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản
và xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Ví dụ : xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT:
Build – Operate – Transfer) ; xây dựng - chuyển giao (BT)… Sự kết hợp giữa xuất khẩu
tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám,… không ngừng tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ
dần và nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.
SỰ PHÂN CHIA THẾ GIỚI VỀ ĐỊA LÝ GIỮA CÁC CƯỜNG QUỐC TƯ BẢN
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về địa lý.
V.I. Lênin đã chỉ ra rằng : “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu
thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế
giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn. ”
Do sự phân chia lãnh thổ và sức mạnh kinh tế không đều của các cường quốc tư bản, tất
yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại lãnh thổ trên thế giới. Đây cũng chính là nguyên
nhân của hai cuộc chiến tranh thế giới.
Việc xuất khẩu tư bản nhằm thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm các nước khác
và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối
thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.
Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản độc
quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu lợi nhuận độc
quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tại chính quốc không có được như nguồn
nguyên liệu dồi rào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ mạt…Do đó luôn diễn ra sự
cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc các quốc gia khác nhau. Điều này
đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp cho các tổ chức độc quyền của nước
mình giành giật thị trường và môi trường đầu tư nhằm thu được siêu lợi nhuận độc quyền
ở ngoại quốc. Sự can thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một nước đế quốc chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài
của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện trong
đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của các
cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.
Hiện nay, sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn
tiếp diễn dưới những hình thức cạ nh tranh và thống trị mới. Các cường quốc tư bản tranh
giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện “chiến lược biên giới mềm”, ra sức
bành trướng “biên giới kinh tế” rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước
chậm phát triển từ lệ thuộc về vốn, công nghệ đến sự lệ thuộc về chính trị dưới mọi hình
thức lúc ngấm ngầm, lúc công khai.
Sang đầu thế kỷ XXI, sự phân chia lãnh tổ thế giới được thay thế bằng những cuộc
chiến tranh thương mại, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên trong hoặc núp đằng
sau, trực tiếp hay gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính là các cường quốc tư bản.
Bản đồ châu Âu trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
Bản đồ châu Âu trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)