



Preview text:
Ý thức là gì? Nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức?
Trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản chất, kết cấu và vai trò của ý thức luôn là
một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Trên cơ sở những thành tự của triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội, triết
học Mác - Lênin góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên. Vậy ý thức là gì?
1. Khái niệm của ý thức
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức con người đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài,
nó trải qua những tư tưởng từ thô sơ, sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh
thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước
muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá
trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách
quan vào trong đầu óc của con người.
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hai là ý thức và vô thức. Duy thức học
thì phân làm tám và ý thức là một trong tám phần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý
thức cũng chỉ là một phần của tâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định với
phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con
người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình
quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức,
tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.
2. Nguồn gốc của ý thức
2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và
hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong
đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng
của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực
của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý
thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng
động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi
con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động của các
giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất
chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động. Những đặc điểm
mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh không tách rời
nhau những không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất,
còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh)
ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới
nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa vật chất.
2.2. Nguồn gốc xã hội
Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so với động
vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành
và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Đây
cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng
hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não, ... của con người. Trong quá trình lao động, con
người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định
mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác
quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não người, tạo ra khả năng hình
thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không
có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập
thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện
để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động.
Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết đúc kết
thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trự tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai chất kích thích chủ
yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiễn cho tâm lý động vật dần
chuyển hóa thành ý thức.
3. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn
lọc thông tin, xử lý thông tin, lữu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó
có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình
con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, ... trong đời sống tinh thần
của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng,
tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung, lẫn hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y
nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của
con người. Theo Mác thì ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
4. Vai trò của ý thức
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng định vật
chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự
phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của con người chỉ xuất phát từ những
yếu tố tác động của thế giới khách quan.
Điều này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời với
tác động của môi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo bên các giá trị thực tiễn cho đời sống xã
hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh khoa học được hình thành do ý
thức của con người dự đoán được những thiên tai, hay những thay đổi của tương lai ....
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự nó không
trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực
lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức,
vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động.
Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo các hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con
người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do vậy, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo
thế giới có hiệu quả. Vì thế, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.