-
Thông tin
-
Quiz
15 năm ODA ở Việt Nam - Môn Kinh tế vĩ mô - Đại Học Kinh Tế - Đại học Đà Nẵng
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Pa-ri, Thủ đô nước Pháp cách đây 15 năm đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế vĩ mô (KTVM47) 374 tài liệu
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1.1 K tài liệu
15 năm ODA ở Việt Nam - Môn Kinh tế vĩ mô - Đại Học Kinh Tế - Đại học Đà Nẵng
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Pa-ri, Thủ đô nước Pháp cách đây 15 năm đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vĩ mô (KTVM47) 374 tài liệu
Trường: Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:












Tài liệu khác của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Preview text:
lOMoARcPSD| 49964158
TỔNG QUAN ODA Ở VIỆT NAM 15 NĂM (1993-2008)
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Pa-ri, Thủ đô
nước Pháp cách đây 15 năm đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ hợp tác
phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Mối quan hệ này ra đời
trong bối cảnh nào? Vai trò và tác động của nguồn vốn ODA đối quá trình phát
triển của Việt Nam trong thời gian qua ra sao? Có thể rút ra những kinh nghiệm
và bài học gì về công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA? Triển vọng của
nguồn vốn này trong tương lai sau 2010?,... sẽ là những nội dung chủ yếu được
đề cập trong bài viết này.
Đổi mới đã mang lại cơ hội cho hợp tác phát triển
Thực hiện công cuộc Đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo từ năm
1986, trong những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã không những thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài mà còn tạo ra
những bước tiến vượt bậc với việc cải thiện tình hình chính trị đối ngoại, xử lý
các khoản nợ nước ngoài thông qua Câu lạc bộ chủ nợ Pa-ri, kinh tế trong nước
đạt mức tăng trưởng cao, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đây là
bối cảnh dẫn đến cơ hội để Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế nối lại quan
hệ hợp tác phát triển. Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam được tổ
chức tại Pa-ri dưới sự chủ trì của Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 11 năm
1993 là điểm khởi đầu cho quá trình thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát
triển kinh tế và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế
thừa nhận rộng rãi: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân
7,5%/năm, mức đói nghèo giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống còn
trên 10% vào năm 2008, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng
việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, và nhiều Diễn đàn,
tổ chức quốc tế khác,... Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian
qua có phần đóng góp quan trọng của viện trợ phát triển như một phần trong sự
nghiệp phát triển của Việt Nam.
Cam kết cung cấp vốn ODA năm sau cao hơn năm trước
Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị
viện trợ quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với lOMoARcPSD| 49964158
Việt Nam, sau Hội bàn tròn về viện trợ phát triển dành cho Việt Nam diễn ra
lần đầu tiên vào năm 1993, các hội nghị viện trợ tiếp theo được đổi tên thành
Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị
CG) và Việt Nam từ vị thế là khách mời đã trở thành Đồng chủ trì Hội nghị CG
cùng với Ngân hàng Thế giới. Địa điểm tổ chức Hội nghị CG cũng thay đổi từ
việc tổ chức tại nước tài trợ như tại Pháp, Nhật Bản,... sang về tổ chức tại Việt Nam.
Hội nghị CG thường niên thực sự là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và
cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển và việc
cung cấp, sử dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xóa
đói giảm nghèo là một nội dung gắn kết chặt chẽ, không tách rời. Ngoài Hội
nghị CG thường niên, còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức tại
các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ gần với người dân và nắm bắt
được nhu cầu phát triển cần được hỗ trợ của họ.
Là diễn đàn đối thoại về chính sách và viện trợ, song không khí chung của
tất cả các Hội nghị CG cho đến nay là dựa trên tinh thần quan hệ đối tác và
mang tính xây dựng, trong đó các nhà tài trợ tôn trọng vai trò làm chủ và lãnh
đạo quốc gia của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất
nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà
tài trợ đa phương1 đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước
là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như
Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,...
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức
phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu
1 a) Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà
Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan,
Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po. b) Các nhà tài trợ đa phương gồm:
- Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ
Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait;
- Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn
(UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
(UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về
HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư
Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO). lOMoARcPSD| 49964158
USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người
dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà
tài trợ cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước,
kể cả những năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài chính khu
vực châu Á vào năm 1997.
Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện
các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Từ
năm 1993 đến nay (tính đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam và
các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn đạt
35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này, trong
đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại chiếm khoảng 20%.
Giải ngân vốn ODA có tiến bộ, song chưa đủ
Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về
chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo
ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình
phát triển của đất nước mới là quan trọng.
Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn
ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và
62,65% tổng vốn ODA ký kết.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có
những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên,
mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của
thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008 lOMoARcPSD| 49964158
Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội - Những ngành và lĩnh vực
ưu tiên sử dụng vốn ODA
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh
vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và
những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên
cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút
và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu
tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm: -
Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ
lợi,lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo). -
Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại. -
Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số
vàphát triển và một số lĩnh vực khác). -
Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. -
Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực,
chuyểngiao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong
thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008) phù hợp với những định
hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên. lOMoARcPSD| 49964158
Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án
ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong
đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía
Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát
triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông nông
thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu
Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo
khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan
trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn
với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng
cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn2,
cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu
cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn,
thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn
lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp,
khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn
chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và
thời gian thu hồi vốn chậm.
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn
ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ
1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển
các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và
đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để
thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài3.
2 Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công
suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt
điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà
máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW
3 Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố
Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng
Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như lOMoARcPSD| 49964158
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và
một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn
vốn ODA. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng,... hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ
tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý
nước thải, chất thải rắn,…
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh
vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình,
dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách
giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường
năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại
học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại
tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng
58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường
cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện
và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố,
các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh,
trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình,
phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ
y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống,
đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển,
rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân
sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách
của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện
các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển
khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,..
cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven
biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... lOMoARcPSD| 49964158
BIỂU ĐỒ CƠ CẤU ODA THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC THỜI KỲ 1993-2008
Nhiều tỉnh, thành phố nhận được sự hỗ trợ quan trọng của ODA
Trong hoàn cảnh đa phần các địa phương thu không đủ chi, vốn ODA đã
góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội và xóa đói, giảm nghèo, bao gồm phát
triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ (cấp nước, đường giao thông, trường học, trạm
y tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,...) và phát triển nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
ODA được quản lý chặt chẽ và hiệu quả
Với nhận thức ODA là một bộ phận của đầu tư công nên phải được quản
lý chặt chẽ và hiệu quả, trong 15 năm qua Chính phủ không ngừng hoàn thiện
hệ thống tổ chức và quản lý nguồn vốn này. Theo tinh thần đó, Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về ODA trong đó có phân công trách nhiệm và quyền
hạn cụ thể cho từng cơ quan với một cơ chế phối hợp nhịp nhàng, cụ thể Chính
phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối về điều phối, quản lý và
sử dụng nguồn vốn ODA; Bộ Tài Chính thực hiện chức năng quản lý tài chính
đối với nguồn vốn này; Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp, Ngân hàng Nhà nước,
Văn phòng Chính phủ,... tham gia quản lý nhà nước về ODA theo chức năng
và nhiệm vụ cụ thể của mình trong chu trình ODA; các Bộ, ngành và địa phương
với vai trò cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện các
chương trình, dự án ODA thông qua chủ dự án và Ban quản lý dự án. lOMoARcPSD| 49964158
Về khung thể chế pháp lý, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA
từ năm 1994 đến nay được thực hiện trên cơ sở các Nghị định của Chính phủ.
Trong 15 năm qua Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định về quản lý và sử dụng
ODA (Nghị định 20/CP (1994), Nghị định 87/CP (1997), Nghị định
17/2001/NĐ-CP (2001) và Nghị định 131/2006/NĐ-CP (2006)) đáp ứng đòi
hỏi từ thực tiễn cung cấp và tiếp nhận nguồn vốn ODA ở từng thời kỳ.
Sử dụng ODA của Việt Nam về cơ bản có hiệu quả
Công tác thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua đã được Đảng và
Nhà nước xác định về cơ bản có hiệu quả. Các nhà tài trợ cũng đánh giá như
vậy. Tác động tích cực của ODA đối với Việt Nam là gì?
Thứ nhất, tại 15 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt
Nam (Hội nghị CG), các nhà tài trợ đã liên tục cam kết dành vốn ODA cho Việt
Nam năm sau cao hơn năm trước, đạt tổng giá trị trên 42 tỷ USD kể cả những
lúc nền kinh tế của các nước tài trợ gặp khó khăn như cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực Châu Á năm 1997. Đây chính là bằng chứng sinh động về sự
ủng hộ mạnh mẽ về mặt chính trị của cộng đồng quốc tế đối với chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà
nước ta. Thực tiễn viện trợ phát triển cho thấy nguồn vốn ODA thường đến với
những quốc gia đang phát triển có tình hình chính trị ổn định, nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển, đời sống xã hội của nhân dân, nhất là những người dân
nghèo, được quan tâm và cải thiện. Việt Nam là một địa chỉ như vậy.
Trong quá trình tiếp nhận viện trợ phát triển, Việt Nam vẫn giữ được độc
lập, tự chủ trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cải cách theo lộ
trình của mình, kể cả khi nhà tài trợ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam
kết cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cổ phần hóa, tư nhân
hóa,....Mặc dù trong cơ cấu viện trợ, vốn vay ODA ưu đãi chiếm khoảng 80%
song Việt Nam vẫn được các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc
tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài hiện ở trong ranh giới an toàn.
Thứ hai, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn, khoảng 3-4% trong GDP của
Việt Nam, song ODA là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Chính phủ và là chất xúc tác cho các nguồn vốn
đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư nhân,.... lOMoARcPSD| 49964158
Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã có hiệu quả, có tác động tích
cực đến phát triển năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngành
và địa phương. Các công trình giao thông như Quốc lộ 5, Quốc lộ 10, Quốc lộ
18, Đường xuyên Á Tp. Hồ Chí Minh - Mộc Bài, cầu Bính, Cầu Bãi Cháy, Cầu
Mỹ Thuận, Cảng hàng không Tân Sơn Nhất,... được tài trợ từ nguồn vốn ODA
đã minh chứng rõ rệt về tác động lan tỏa của nguồn vốn ODA đối với phát triển.
Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn hỗ trợ các địa phương, đặc biệt các tỉnh
còn nghèo, những các công trình phục vụ trực tiếp đời sống của nhân dân như
giao thông nông thôn, cấp điện và nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã và
các bệnh viện tỉnh và huyện, các công trình thủy lợi, các chợ nông thôn,...
Thứ ba, ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn
thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản
dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm và
tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong bối
cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực
con người trong việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong
thời gian qua trên rất nhiều lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa
học, công nghệ, quản lý kinh tế và xã hội, thông qua việc cung cấp học bổng
nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào tạo tại chỗ trong quá trình thực hiện
các chương trình, dự án ODA, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, cung cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai,...
Bên cạnh những mặt được nói trên, chúng ta nhận thấy trong thời gian
qua, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn có những bất cập, đó là:
(i) Hệ thống văn bản pháp quy trong nước, đặc biệt giữa ODA và đầu tư công,
chưa đồng bộ; (ii) Quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ còn thiếu
hài hòa, (ii) Năng lực cán bộ quản lý và sử dụng ODA ở các cấp, nhất là ở cấp
cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; và (iii) Công tác
theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA trong bối cảnh phân cấp
chưa được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức. Đây cũng là
những nguyên nhân chủ yếu làm cho một số chương trình và dự án ODA chưa
đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thành công và chưa thành công đều là những bài học có giá trị
Nhìn lại 15 năm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau đây cho thời gian tới: lOMoARcPSD| 49964158 -
Tinh thần làm chủ trong toàn bộ chu trình ODA từ khâu hình thành
ýtưởng, thiết kế dự án đến khâu tổ chức, quản lý thực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. -
Vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình
pháttriển. Nhận thức đúng đắn này sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ
vào viện trợ và giúp phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển. -
Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng vào quá trình
tiếpnhận và sử dụng vốn ODA là yếu tố quan trọng để giúp ODA được sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả cao. -
Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách
nhiệmgiữa Việt Nam và nhà tài trợ sẽ góp phần đảm bảo sự thành công của các
chương trình, dự án ODA.
ODA sẽ vẫn tiếp tục là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho giai đoạn
phát triển sắp tới
Trong giai đoạn phát triển sắp tới Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn
lực cho đầu tư phát triển, trong đó có nguồn vốn ODA.
Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
20062010 Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung
bình (MIC) và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các
nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay. Đồng thời, các khoản viện trợ không
hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm.
Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần
có những thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư cho
các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc
chắn như xây dựng các nhà máy điện, kể cả các nhà máy điện nguyên tử; phát
triển các tuyến đường cao tốc thu phí, kể cả trong các thành phố lớn; phát triển
hệ thống vận tải bánh sắt quy mô vận tải lớn như tầu điện ngầm, đường sắt trên
cao ở các thành phố lớn…; các cảng hàng không; cảng biển; các hệ thống thông
tin liên lạc viễn thông...; các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ
thật cao, có sức lan tỏa thúc đẩy phát triển một ngành, một địa bàn lãnh thổ,...
Trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng ODA cần tập trung vào một
số nhiệm vụ cụ thể như: -
Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực chuẩn bị các chương trình
vàdự án đã được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và
giải ngân các chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện 11,9 lOMoARcPSD| 49964158
tỷ USD vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010 và tạo ra các công trình gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010. -
Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém
ưuđãi cho các chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn thu. -
Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA,
kể cảkhu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công –tư kết hợp
trong đầu tư phát triển. -
Giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý nguồn vốn ODA
theohướng chuyển trực tiếp nguồn vốn này cho chủ sở hữu vốn với cơ chế theo
dõi và giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng để bảo đảm hiệu quả sử
dụng và thực hiện trả nợ vốn vay cho các nhà tài trợ.
Nâng cao hiệu quả viện trợ là mối quan tâm chung
Trong những năm gần đây, trên bình diện quốc tế, khu vực và ở từng
quốc gia đang phát triển đã có những nỗ lực to lớn giữa các nước nhận viện trợ
và các nhà tài trợ trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ. Từ năm 2003 đến nay
một loạt các sự kiện quốc tế đã diễn ra, tập trung vào việc nâng cao hiệu quả
viện trợ. Đó là Diễn đàn cấp cao lần thứ nhất về hài hòa hóa quy trình và thủ
tục ODA tổ chức tại Rome, I-ta-lia năm 2003 với Tuyên bố Rome về Hài hòa
thủ tục, Diễn đàn cấp cao lần thứ hai về hiệu quả viện trợ tổ chức tại Pari, Pháp
năm 2005 với việc thông qua Tuyên bố Pa-ri về Hiệu quả viện trợ và gần đây
nhất là Diễn đàn cấp cao lần thứ ba về hiệu quả viện trợ diễn ra tại Accra, Ghana
vào tháng 9 năm 2008 với việc thống nhất Chương trình Hành động Accra
(AAA). Ngoài ra, rất nhiều các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực khác đã được
tổ chức tập trung vào việc làm gì và làm thế nào để nâng cao hiệu quả viện trợ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và bảo đảm khả năng trả nợ là yêu cầu
trong chính sách thu hút và sử dụng nguồn vốn này của Chính phủ Việt Nam.
Thực hiện chính sách này, trong thời gian qua, Việt Nam đã được cộng đồng
tài trợ quốc tế đánh giá là quốc gia đi tiên phong trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ.
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Tuyên bố Pa-ri về hiệu quả viện trợ
và Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ “quốc gia hóa” Tuyên bố
này thành Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ để phù hợp với hoàn cảnh và
các điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam. lOMoARcPSD| 49964158
Ngay sau khi Chương trình hành động Accra (AAA) được quốc tế thông
qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Gia Khiêm đã phê duyệt văn
kiện này và giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Tổ công tác
ODA của Chính phủ, các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ triển khai thực
hiện Chương trình hành động này và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết
quả thực hiện (Văn bản số 6656/VPCP-QHQT ngày 07 tháng 10 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ).
Thực hiện quyết định nêu trên của Phó Thủ tướng Chính phủ, một loạt
các hoạt động thực hiện Chương trình hành động Accra đã được trù liệu bao
gồm các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, xây dựng các kế hoạch cụ
thể chung của Việt Nam và các nhà tài trợ, cũng như của các Bộ, ngành và địa
phương để triển khai các hoạt động ưu tiên trong Chương trình hành động Accra
nhằm đạt các mục tiêu đề ra trong Tuyên bố Pa-ri và Cam kết Hà Nội về hiệu
quả viện trợ vào năm 2010.
Các hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ ở Việt Nam được triển khai
trong khung khổ Nhóm Quan hệ đối tác về Hiệu quả viện trợ (PGAE), 22 Nhóm
quan hệ đối tác ngành và Nhóm hỗ trợ quốc tế, thực hiện thí điểm sáng kiến
một Liên Hợp Quốc, các sáng kiến về cải thiện tình hình thực hiện các chương
trình, dự án ODA của Nhóm 6 Ngân hàng phát triển (ADB, AFD, JICA, KfW,
Korea Eximbank và WB) và nhiều hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ của
EC, Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến (LMDG) và của một số nhà tài trợ
song phương và đa phương khác.
Các hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ đang giúp Việt Nam cải thiện
việc thu hút và sử dụng ODA, làm cho nguồn lực này phát huy tác dụng mạnh
mẽ hơn đối với sự nhiệp phát triển của Việt Nam cũng như hỗ trợ vượt qua
những thách thức đặt ra trong giai đoạn phát triển mới.