23941-Article Text-80188-1-10-2016 0428 Phương pháp học đại học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

23941-Article Text-80188-1-10-2016 0428 Phương pháp học đại học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

40
Tư tưởng Phật giáo trong
đường lối trị nước của các vua Trần
Nguyễn Thúy Thơm
*
Tóm tắt: Phật giáo dưới triều Trần kế thừa tinh hoa của Phật giáo thời Lý và trước
đó, được trọng dụng, tôn vinh và ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống hội.
Các vua Trần đã khôn khéo biết tiếp thu tất cả các dòng văn hóa ngoại nhập vốn có lâu
đời, trong đó có phật giáo, tiếp biến kết hợp với văn hóa dân tộc. Bài viết phân tích tư
tưởng Phật giáo của vua Trần trong đường lối trị nước trên.
Từ khóa: Vua Trần; Phật giáo; tư tưởng.
1. Mở đầu
Trong lịch sử dân tộc, triều ần đượ Tr c
đánh giá vương triều phát triển rc r
nh i phong ki n Viất trong các triều đạ ế t
Nam. Đó thờ Phật giáo Thiền Tông i k
được coi như Quốc giáo trở thành bệ đỡ ,
tưởng của các vua Trần trong đường lối
lãnh đạo, đất nước. Giữa Phật giáo triều
đình sự gắn kết sâu rộng, tạo nên sức
mạnh giữ gìn, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các vua Trần chủ trương nhập thế, tu và tục
không tách rời nhau, thể hiện qua tưởng
“Hòa quang đồng trần”, khuông phò dân
tộc, cứu nhân độ thế ngay tại trần gian. Đây
cũng là thời kỳ Phật giáo hoà nhập sâu đậm
với nền văn hóa dân tộc; ảnh hưởng sâu
rộng đến tín ngưỡng, phong tục tập quán,
thế giới quan, nhân sinh quan của các tầng
lớp nhân dân, đến tưởng trị nước, lập
pháp, hành pháp, lối sống, nếp sống của
tầng lớp vua quan triều đình. Nhờ thấm
nhuần tưởng từ bi, bác ái, cứu nhân độ
thế, tội của Phật giáo, triều Trần cùng
nhân dân đoàn kết một lòng xây dựng đất
nước vững mạnh.
Tri u Tr c nhi chi ần đạt đượ u ến ng
hiển hách, trong đó ba lần đánh tan
quân Nguyên Mông (một đội quân xâm -
lược có tầm c thế gii, chinh phc h ếu h t
các quốc gia hùng mạnh lúc bấy gi,
nhưng cả ần xâm lược đề ba l u tht bi
thm h t Nam). u i Vi
(*)
Bên cạnh đó, triề
Trần cũng đạt đượ ững thành tực nh u kinh
tế - i quan tr ng. i th i Trh Dướ ần, đất
nước độ ập, nhà nướ ến được l c phong ki c
cng c nh. Ph đi vào n đị ật giáo trở
thành đi ản m ta tinh thn cho vic qu
xây dựng đất nướ ặc dù sùng đạc. M o
Phật, song các vua Trần không coi Phật
giáo h tưở ất để lãnh đạ ng duy nh o,
điều hành, quản đất nước. Các vua chủ
trương y dự ền văn a sựng mt n
dung a, n bằ ữa ba tôn giáo ng v thế gi
lớn trong hội by gi Nho, Phật
Đạo. Điều này thể ện qua các chính sách hi
ca tri a cho dều đình. Nhà vua v ng
(*)
Thạc sĩ, Thích Minh Thịnh, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam. ĐT: 0904975877.
Email: minhthinh1968@yahoo.com.
LỊCH SỬ KHẢO CỔ DÂN TỘC - - HỌC
Nguyễn Thúy Thơm
41
chùa, lập các đạo cung, đạo quán, y đn,
miếu; v t giai ph o, sừa đặ ẩm cho tăng đ c
phong cho các vị ăn Nho thn; cho dng V
Mi c T khoa thi Nho ếu Quố Giám, m
học nhưng đồng thi m c khoa thi Tam
giáo ại chuyên trách vinh cho quan l c
tôn giáo, tế ững người đứng đầ l hoc nh u
các đề ếu chùa chiền. Các vua Trần mi n
cũng xác định tác d ng ca tng h
tưởng khi điều hành chính s Bài viết y .
ch phân tích tư tưở ật giáo trong ng Ph
đư ng l i tr c ca các vua Trần xây
dựng pp luật; chăm lo đờ ủa n; i sng c
gi i quy ết các v phúc lợi xã hn đề i.
2. X ây dựng luật pháp
tưởng về lập pháp hành pháp của
triều đình tuy sự thay đổi rệt qua các
triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần nhưng đều
sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Phật giáo.
Dưới triều Đinh, Tiền Lê, luật pháp sử dụng
những hình phạt mạnh, mang tính bạo lực,
thể hiện trong các quy định như “người nào
trái phép sẽ bị chịu tội bỏ vạc dầu nấu hay
cho hổ ăn”. Dưới triều Lý, luật pháp lại
chứa đựng tinh thần nhân ái, khoan dung,
mang dấu ấn của tưởng từ bi, hỉ xả của
đạo Phật. chép: Đại Việt sử toàn thư
“Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền
nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn,
cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng.
Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa
định luật lệnh châm trước cho thích dụng
với thời y giờ, chia ra môn loại, biên ra
nhiều khoản làm sách hình luật của một
triều đại”. Chính “lòng thương xót” của vua
đối với dân chúng đã chi phối nội dung
luật pháp của nhà nước, lòng thương xót ấy
sự dung hợp giữa truyền thống của dân
tộc Việt Nam với tưởng nhân ái, cứu
khổ, cứu nạn của đạo Phật. Đối với những
người vi phạm các quy định của nhà nước,
các vua Lý thường lấy lòng khoan dung mà
tha thứ. Năm 1028, Thái Tông lên ngôi
đã tha tội làm phản cho Đông Chinh
Vương, Dực Thánh Vương Đức
Vương. Năm 1043, Nùng Trí Cao Châu
Quảng Nguyên làm phản, sau khi bắt được
Trí Cao vua không những tha tội còn
ban cho đô ấn, phong làm Thái bảo ban
cho mấy châu. tưởng từ bi, bác ái, nhân
đạo, cấm sát sinh, không chỉ thể hiện trong
lập pháp, hành pháp còn thể hiện
trong việc tội cho phạm nhân, thuế
lao dịch, chăm lo người già, trẻ em.
tưởng nhân đạo đó nguồn gốc từ Phật
giáo [1, tr.50 - 53].
Trần Thái Tông, một ông vua từng
xông pha trận mạc, luôn ghi nhớ lời của
Quốc Phù n: “Phàm đã làm vua của
thiên h phải lấy ý muốn của thiên hạ làm
ý muốn của mình, phải lấy tấm ng của
thiên h m tấm lòng của mình”. Trong
Thiền ng chnam, ông đã i lên skết
hợp giữa đời đạo: “Đạo Phật không
chia Nam Bắc, đều th tu cầu. Tính
người hiền ngu, đều cùng được giác
ngộ, vậy, đại giáo của đức Phật
phương tiện để mng muội, con
đường soi rõ ltử sinh. n trách nhiệm
nặng nề của Tiên Thánh đặt mực thước
cho tương lai, nêu khuôn phép cho hậu
thế”. Hòa nhập Phật giáo Nho giáo
một mục đích chung của ng cuộc n
định hội. Trong điều nh chính sự, tư
tưởng từ bi, h xả, tội nhân đạo của
Phật giáo được quán triệt sâu sắc.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98 - 2016 )
42
Chuyện Hoàng Cự Đà không được ăn
xoài và chuyện vua Thánh Tông đốt tài liệu
xin hàng của các quan đã cho thấy thái độ
khoan dung của các vua Trần: “Vua Thái
Tông một hôm bảo các quan hầu cận ăn
xoài, Hoàng Cự Đà không được ăn. Đến khi
quân Nguyên đến bến Đông, Cự Đà ngồi
thuyền nhẹ trốn đi. Hoàng Giang gặp
Hoàng Thái Tử đi thuyền ngược lên. Cự Đà
tránh sang bờ bên kia, thế thuyền đi rất gấp.
Quan quân to hỏi Quân Nguyên đâu?
Cự Đà trả lời không biết, hãy hỏi bọn ăn
xoài ấy” Sau khi phá được giặc, thái tử xin .
trừng phạt Cự Đà để răn đe những kẻ làm
tội bất trung. Vua nói: “Cự Đà tội đáng chết
cả họ, song đời xưa việc Dương Chân
không được ăn thịt đến nỗi làm quân
nước Trịnh bị thua. Việc của Cự Đà lỗi
của ta; tha cho tội chết, cho đánh giặc để
chuộc tội” Câu chuyện Thánh [6, tr.394].
Tông đốt tài liệu hàng giặc của các quan
được sử chép lại như sau: Khi quân
Nguyên đang mạnh, triều thần lắm kẻ hài
lòng, giấy tờ giao thiệp với giặc. Sau
giặc thua chạy về Bắc, triều đình bắt được
một tráp biểu hàng của các quan. Đình thần
muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng hoàng
nghĩ rằng làm tội những kẻ tiểu nhân cũng
ích bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên
lòng mọi người.
Tinh thần dân tộc ý chí yêu nước của
vua quan nhà Trần được thể hiện trong
Hội nghị lão Diên Hồng (năm 1285),
Hội nghị tướng sĩ Bình Than (năm 1282).
Đó sự biểu hiện tinh thần dân chủ, đoàn
kết vua tôi nhất trí một lòng quyết tâm bảo
vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa đất
nước vào con đường thanh bình, thịnh trị.
Theo giáo lý nhà Phật “tất cả chúng sinh
đều Phật tính”, sẵn mầm giác ngộ để
tương lai thành Phật. Đây là một chủ thuyết
thực sự bình đẳng, giúp hạn chế xóa
nhòa ranh giới đẳng cấp phong kiến của
thời Trần. Đối với những ông vua kiêm
Thiền sư như: Trần Thái Tông, Trần Thánh ,
Tông, Trần Nhân Tông thì chủ thuyết bình
đẳng đó không phải khẩu hiệu, thể
hiện bằng đường lối chính sách, biện pháp
trong cung cách ứng xử hàng ngày. Đó
những ông vua từ bi nhất, hiếu sinh nhất,
bình đẳng nhất, như câu “Quân dân như (
với nước” ngày nay).
Từ một nền Phật giáo quyền năng, do
nhu cầu của lịch sử, Phật giáo của giai đoạn
này biến thành một nền Phật giáo chống
ngoại xâm, với người đứng đầu những vị
vua anh minh, thấm nhuần tinh thần dân tộc
và giáo lý nhà Phật. Trên cơ sở nền tảng đó,
Phật giáo đã tham gia vào phong trào đấu
tranh vì nền độc lập và giành thắng lợi.
3. C hăm lo đời sống của dân
Dưới ảnh hưởng của tưởng Phật giáo
về bình đẳng, từ bi, bác ái, vua quan, tướng
tá, quân lính thường dân dưới triều Trần
đã đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Các vua
Trần đã kế thừa phát triển những
tưởng trị nước thời Lý, với phương châm trị
nước “yêu dân như con”, vua luôn quan tâm
đến quyền lợi của dân, chăm lo cho dân. Sử
chép lại các đời vua Trần noi gương, kế
tiếp nhau khoan thư sức dân, giảm nhẹ
thuế, cứu trợ dân nghèo khi đời sống gặp
khó khăn Tháng 7 năm 1265, nước to, vỡ .
vào phường á, người súc vật chết X
đuối nhiều, vua Thánh Tông đã đại cho
thiên hạ ăm 1290 đói to, 3 thăng gạo trị ... N
giá 1 quan tiền, nhiều người dân phải bán
ruộng đất, bán con trai, con gái làm t
Nguyễn Thúy Thơm
43
cho người khác, 1 người trị giá 1 quan tiền.
Trước tình cảnh đó, vua Nhân Tông xuống
chiếu phát thóc công để chẩn cấp cho dân
nghèo và miễn thuế nhân đinh [2, tr.35 - 67].
Bản thân các vua Trần cứu trợ dân nghèo:
“Năm 1303, Thượng hoàng (Nhân Tông)
Phủ Thiên Trường, mở hội lượng
chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa đ
chẩn cấp cho người nghèo trong nước
giảng kinh giới thí [2, tr.146].
Việc cứu của các vua Trần tấm đói
gương để nhân dân noi theo, trước hết
những nhà giàu. Vì thế, khi vua khuyên nhà
giàu tham gia vào công việc này, nhiều
người đã hưởng ứng: “Mùa thu, năm 1358,
vua Dụ Tông xuống chiếu khuyên các nhà
giàu các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân
nghèo, quan sở tại tính xem số thóc đã
quyên ra bao nhiêu trả lại bằng tiền” [3].
Bốn năm sau lại mất mùa, vua Dụ Tông
tiếp tục khuyên nhà giàu cùng vua cứu đói
cho dân: “Tháng 8, năm 1362, đói to, vua
Dụ Tông xuống chiếu cho các nhà giàu
dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban
tước phẩm theo thứ bậc khác nhau. Tháng
9, vua đến phủ Thiên Trường, nhân dân ai
ốm đau thì ban thuốc công, gọi Hồng
ngọc sương, thể chữa khỏi bệnh. Người
nghèo nghe tin đến xin, cho mỗi người 2
viên uống, 2 tiền và 2 thăng gạo” [2, tr.106].
Để chủ động đề phòng cứu đói hiệu
quả, vua Hiến Tông đã cho lập những kho
thóc dự phòng tại các lộ năm 1337 theo kiến
nghị của Nguyễn Trung Ngạn [2, tr.146].
Để giúp dân đủ ruộng đất cầy cấy,
chủ động nguồn lương thực, vua đã ra lệnh
cho những cung tần tham lam chiếm giữ
nhiều ruộng đất trả lại cho dân: “Năm 1317,
Thượng hoàng của vua Minh Tông cung
tần Thái ình Trần Thị tham lam cướp B
ruộng đất của dân, người kiện, vua giao
cho Uy Giản hầu (không tên) con r
của vua theo đơn trả lại ruộng cho dân.
Uy Giản vâng chiếu trả lại. Sau khi Thái
B Gình chết, Uy iản đem tất cả ruộng đất
chiếm đoạt của dân trả lại cho chủ cũ, được
vua khen ngợi” [2, tr.106].
Những dẫn liệu trên đây cho thấy, vua
quan nhà Trần đặc biệt chăm lo cho đời
sống dân nghèo. Mỗi khi người dân gặp khó
khăn hoạn nạn, thiên tai, mất mùa, bệnh
dịch... nhà vua đều ra lệnh chẩn cấp lương
thực cứu đói, phát thuốc chữa bệnh, miễn
giảm thuế. Bản thân các vua khi mới lên
ngôi trị vì, đều thực hiện miễn giảm tô thuế,
khoan thư sức dân, đại xá cho thiên hạ. Bên
cạnh đó, triều đình còn lệnh cho chính
quyền địa phương lập các kho chứa thóc d
trữ, khuyên nhà giàu chẩn cấp cho dân
nghèo. Do vậy, mối quan hệ giữa triều đình
- - người dân; nhà giàu người nghèo ngày
càng bền chặt. Việc các vua Trần quan tâm
đến miếng cơm manh áo cho dân do
thấm nhuần tưởng đạo Phật. Đó cũng
chính biểu hiện của lòng từ bi, cứu khổ
và bình đẳng của đạo Phật.
Bên cạnh đó, triều đình còn chú ý đến
phát triển kinh tế, đặc biệt tập trung vào
việc trị thủy thủy lợi để nâng cao sản
xuất nông nghiệp cho nhân dân. Vào năm
1255, nhà Trần mở chiến dịch đắp đê chống
lụt, vua Trần Thái Tông sai Lưu Miễn đi
bồi đắp đê các sông Thanh Hóa. Các vua
Trần còn huy động dân đắp đê giữ nước
sông Hồng từ đầu nguồn cho đến cửa biển
để ngăn nước lụt ngập tràn, gọi là đê Đỉnh
Nhĩ. Nhiều khi, chính vua thân chinh đi
xem xét việc đắp đê. Năm 1315, vua Trần
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98 - 2016 )
44
Minh Tông đã thân chinh đi kiểm tra tình
hình đắp đê. Thấy vậy, quan Ngự Sử đài
nói: “Bệ hnên chăm sửa sang đức chính,
đắp đê việc nhỏ, đi xem làm gì?”, Trần
Khắc Chung, cùng đi theo vua đáp lại rằng:
“Phàm dân gặp nạn lụt, người làm vua phải
cấp cứu cho, sửa sang đức chính không việc
gì to bằng việc ấy, cần gì phải yên lặng mới
gọi là sửa sang đức chính” [3, tr.534 - 535].
Việc làm của vua câu trả lời của tướng
đã nói lên sự lo lắng của các nhà lãnh đạo
đến công việc chung lúc bấy giờ.
Đối với các công trình thủy lợi, các vua
Trần cũng rất chú ý khơi thông dòng chảy,
đào những sông mới. Cụ thể, sông Lịch
ở vùng đồng bằng Bắc ộ được khơi lại hai B
lần vào năm 1256 đời vua Trần Thái Tông
năm 1284 đời vua Trần Nhân Tông:
“Mùa xuân tháng giêng, vét sông Lịch”
[3, tr.458]. Bên cạnh đó, nhiều sông mới
được đào như sông Trầm sông Hào nối
liền Thanh Hóa với Nghệ An. Hai sông trên
ngoài việc cung cấp nguồn nước dồi o
cho nông nghiệp còn phương tiện giao
thông giúp nhân dân đi lại thuận tiện, mở
mang sự giao dịch giữa các vùng. Nhờ đó,
dân ta đã tạo thế đứng vững chắc trên các
khu vực đồng bằng, ổn định đời sống dân
cư. Dưới thời Trần, nhân dân được mùa to
vào những năm 1269, 1280, 1295, 1296,
1321... Nhìn chung, công tác trị thủy
thủy lợi thời Trần không chỉ một thành
tựu lớn trong nền văn minh nông nghiệp
dân tộc mà còn góp phần quan trọng đối với
xu thế thống nhất của nước nhà thời bấy
giờ. Chính nó đã tái tạo, phục hưng và củng
cố đất nước.
4. Giải quyết các vấn đề phúc lợi hội
Chính các vua Trần những Phật tử
thuần thành không chỉ chăm lo phát triển
kinh tế, tạo tiền đề cho sự ổn định chính trị,
thực hiện chính sách khoan thư sức dân,
còn quan tâm đến các vấn đề phúc lợi
hội, thực hành giáo Phật giáo “tu nhân
tích đức”, “gieo các hạnh lành”. Tiêu biểu
vua Trần Nhân Tông, mỗi khi ra ngoài
đường gặp gia nhân, các vương thần, vua
hay dừng lại hỏi han, không cho thị vnạt
nộ họ. Vua nói: “Ngày thường thì thị vệ
hai bên, đến khi nước nhà hoạn nạn thì chỉ
có bọn ấy đi theo thôi” Một hôm [3, tr.487].
người dâng sớ báo cáo với vua Minh
Tông về việc trong n gian những
người lang thang tới già cũng không tên
trong sổ, không chịu thuế dịch, sai phái tạp
dịch cũng không chịu đến. Vua nói: “Nếu
không có người như thế thì sao có thể gọi là
đời thái bình? Người muốn ta trách phạt họ
thì có được việc gì không? [4, tr.394].
Trong cách sử dụng người, nhà Trần
không những biết sử dụng tướng tài, binh
giỏi còn quy tụ được những quân thần
hiền tài như: Chu Văn An, Đặng Tảo, ,
Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa, Trần Đình
Thâm. Theo n Quý Đôn: đó hững
người, “cứng rắn, cao thượng, thanh liêm,
phong độ như quân tử đời y Hán,
thật không phải tầm thường ththeo kịp
được”. “nhà Trần đãi ngộ phu rộng rãi
không buộc, hòa nhã lễ độ;
cho nên nhân vật trong một thời chí khí
tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra
ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử
sách, trên không hổ với trời, dưới không
thẹn với đất. Ôi như thế, người đời sau
thể theo kịp thế nào được! Từ bản triều về
sau, phong độ ấy dần dần không nghe thấy
nữa” [5, tr.299 - 300].
Nguyễn Thúy Thơm
45
5 . Kết luận
Phật giáo thời Trần một mặt tự sự
phát triển từ nội lực, mặt khác có sở
chính trị hội để phát triển (sự tôn sùng, -
trọng dụng từ vua quan cho đến thần dân).
Đến lượt mình Phật giáo cũng góp phần tác
động trở lại tưởng chính trị, hội, đời
sống văn hóa tinh thần của tầng lớp vua
quan triều đình và người dân Việt Nam.
L ch s gi nhà nước trên thế ới cũng như
Vit Nam cho thấy, nhà nước nào ng
phi t t n n t chọn cho mình mộ ảng
tưởng để ức xã hộ áo t ch i [1, tr.48] Pht gi
v m ng tr c ti p ặt ởng đã ảnh hưở ế
đến tưởng chính tr ca nhng v vua,
quan, những người cm quyn trong thi
Trn. Trong b i c s c m nh ảnh toàn bộ
của dân tộc được huy động cho công cuc
gi n h nước, các nhà thi ọc uyên thâm
đồng thi các ông vua của đất ớc đã
tr thành các anh hùng khi vận nước nguy
nan. B i v y, tinh th n nh p th c a Ph ế t
giáo thờ ần ngày càng tỏ tính ưu i Tr
thắng siêu việt. Các vua Trần đã đưa ra
nhiu ch nh trương chính sách mang
ng c a Ph oan, giật giáo như: (kh n, an,
lc, t , bi, h , x...) để chăm lo cho dân.
Mặt khác, Phật giáo cũng góp phần vào
vic gi i quyải đáp, giả ết các yêu cầu
nhi qum v c ti o v T th ễn bả c,
đánh đuổi xâm lược.
Tài liệu tham kho
[1] Đặng Văn Bài (2008), “Nhận diện để phát
huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt
Nam , Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5.
[2] Ban Phật giáo Việt Nam (1992), Thiền học
đời Trần, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam.
[3] Cadiere, L. (2010), Văn hóa, tín ngưỡng
thực hành tôn giáo ng i Việtườ , Nxb
Thuận Hóa, Huế.
[4] Nguyễn Huệ Chi (1981), “Các yếu tố Phật,
Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như
thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học
thời đại Trần”, - Tìm hiểu hội Việt
Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
[5] Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo
trong mối quan hệ văn hóa phát triển
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[6] Nguyễn Hồng Dương (2008), “Nghiên cứu
và ứng dụng các giá trị Phật giáo trong
hội Việt Nam hiện nay” Tạp chí, Nghiên
cứu Tôn giáo, số 5.
[7] Nguyễn Hồng Dương, Phùng Đạt Văn
(Chủ biên) (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và
hội dân gian, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
[8] Viện Sử học (1981), Tìm hiểu hội Việt
Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
[9] Quý Đôn (2007), Kiến Văn tiểu lục,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[10] Ngô Liên (1967), Đại Việt sử toàn
thư, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[11] Ngô Liên (2006), Đại Việt sử toàn
thư, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[12] Nguyễn Lang (1992), Ngô Thì Nhậm trong
văn học Tây Sơn, Việt Nam Phật giáo sử
luận, t.1,2, Nxb Văn học, Hà Nội.
[13] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo
sử luận, t.1,2, Nxb Văn học, Hà Nội.
[14] Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn
hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[15] Mạnh Thát (2005), L ch s Phật giáo
Vit Nam, t.3, Nxb T ng h p, Tp. H
Chí Minh.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98 - 2016 )
46
| 1/7

Preview text:


LỊCH SỬ - KHẢO CỔ - DÂN TỘC HỌC
Tư tưởng Phật giáo trong
đường lối trị nước của các vua Trần Nguyễn Thúy Thơm *
Tóm tắt: Phật giáo dưới triều Trần kế thừa tinh hoa của Phật giáo thời Lý và trước
đó, được trọng dụng, tôn vinh và có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Các vua Trần đã khôn khéo biết tiếp thu tất cả các dòng văn hóa ngoại nhập vốn có lâu
đời, trong đó có phật giáo, tiếp biến kết hợp với văn hóa dân tộc. Bài viết phân tích tư
tưởng Phật giáo của vua Trần trong đường lối trị nước trên.
Từ khóa: Vua Trần; Phật giáo; tư tưởng. 1. Mở đầu
Triều Trần đạt được nhiều chiến công
Trong lịch sử dân tộc, triều T ần r
được hiển hách, trong đó có ba lần đánh tan
đánh giá là vương triều phát triển rực rỡ quân Nguyên - Mông (một đội quân xâm
nhất trong các triều đại phong kiến Việt lược có tầm cỡ thế giới, chinh phục hầu hết
Nam. Đó là thời kỳ Phật giáo Thiền Tông các quốc gia hùng mạnh lúc bấy giờ,
được coi như Quốc giáo, trở thành bệ đỡ tư nhưng cả ba lần xâm lược đều thất bại
tưởng của các vua Trần trong đường lối thảm hại ở Việt Nam).(*)Bên cạnh đó, triều
lãnh đạo, đất nước. Giữa Phật giáo và triều Trần cũng đạt được những thành tựu kinh
đình có sự gắn kết sâu rộng, tạo nên sức tế - xã h i
ộ quan trọng. Dưới thời Trần, đất
mạnh giữ gìn, xây dựng và bảo vệ đất nước. nước độc lập, nhà nước phong kiến được
Các vua Trần chủ trương nhập thế, tu và tục củng cố và đi vào ổn định. Phật giáo trở
không tách rời nhau, thể hiện qua tư tưởng thành điểm tựa tinh thần cho việc quản lý
“Hòa quang đồng trần”, khuông phò dân và xây dựng đất nước. ặc M dù sùng đạo
tộc, cứu nhân độ thế ngay tại trần gian. Đây Phật, song các vua Trần không coi Phật
cũng là thời kỳ Phật giáo hoà nhập sâu đậm giáo là hệ tư tưởng duy nhất để lãnh đạo,
với nền văn hóa dân tộc; có ảnh hưởng sâu điều hành, quản lý đất nước. Các vua chủ
rộng đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, trương xây dựng một nền văn hóa có sự
thế giới quan, nhân sinh quan của các tầng dung hòa, cân bằng vị thế ữa gi ba tôn giáo
lớp nhân dân, đến tư tưởng trị nước, lập lớn trong xã hội bấy giờ là Nho, Phật và
pháp, hành pháp, lối sống, nếp sống của Đạo. Điều này thể hiện qua các chính sách
tầng lớp vua quan triều đình. Nhờ thấm của triều đình. Nhà vua vừa cho dựng
nhuần tư tưởng từ bi, bác ái, cứu nhân độ
thế, xá tội của Phật giáo, triều Trần cùng
nhân dân đoàn kết một lòng xây dựng đất (*) Thạc sĩ, Thích Minh Thịnh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. ĐT: 0904975877. nước vững mạnh.
Email: minhthinh1968@yahoo.com. 40 Nguyễn Thúy Thơm
chùa, lập các đạo cung, đạo quán, xây đền, tộc Việt Nam với tư tưởng nhân ái, cứu
miếu; vừa đặt giai phẩm cho tăng đạo, sắc khổ, cứu nạn của đạo Phật. Đối với những
phong cho các vị Nho thần; cho dựng ăn V
người vi phạm các quy định của nhà nước,
Miếu và Quốc Tử Giám, mở khoa thi Nho các vua Lý thường lấy lòng khoan dung mà
học nhưng đồng thời mở cả khoa thi Tam tha thứ. Năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi
giáo dành cho quan lại chuyên trách việc đã tha tội làm phản cho Đông Chinh
tôn giáo, tế lễ hoặc những người đứng đầu Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức
các đền miếu chùa chiền. Các vua Trần Vương. Năm 1043, Nùng Trí Cao ở Châu
cũng xác định rõ tác dụng của từng hệ tư Quảng Nguyên làm phản, sau khi bắt được
tưởng khi điều hành chính sự. Bài viết này Trí Cao vua không những tha tội mà còn
chỉ phân tích tư tưởng Phật giáo trong ban cho đô ấn, phong làm Thái bảo và ban
đường lối trị nước của các vua Trần xây cho mấy châu. Tư tưởng từ bi, bác ái, nhân
dựng pháp luật; chăm lo đời sống ủ
c a dân; đạo, cấm sát sinh, không chỉ thể hiện trong
giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội.
lập pháp, hành pháp mà còn thể hiện ở
2. Xây dựng luật pháp
trong việc xá tội cho phạm nhân, xá tô thuế
Tư tưởng về lập pháp và hành pháp của lao dịch, chăm lo người già, trẻ em. Tư
triều đình tuy có sự thay đổi rõ rệt qua các tưởng nhân đạo đó có nguồn gốc từ Phật
triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần nhưng đều có giáo [1, tr.50 - 53].
sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Phật giáo.
Trần Thái Tông, một ông vua từng
Dưới triều Đinh, Tiền Lê, luật pháp sử dụng xông pha trận mạc, luôn ghi nhớ lời của
những hình phạt mạnh, mang tính bạo lực, Quốc sư Phù Vân: “Phàm đã làm vua của
thể hiện trong các quy định như “người nào thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ làm
trái phép sẽ bị chịu tội bỏ vạc dầu nấu hay ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của
cho hổ ăn”. Dưới triều Lý, luật pháp lại thiên hạ làm tấm lòng của mình”. Trong
chứa đựng tinh thần nhân ái, khoan dung, Thiền tông chỉ nam, ông đã nói lên sự kết
mang dấu ấn của tư tưởng từ bi, hỉ xả của hợp giữa đời và đạo: “Đạo Phật không
đạo Phật. Đại Việt sử ký toàn thư chép: chia Nam Bắc, đều có thể tu cầu. Tính
“Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền người có hiền ngu, đều cùng được giác
nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, ngộ, vì vậy, đại giáo của đức Phật là
cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. phương tiện để mở lòng mê muội, là con
Vua lấy làm thương xót sai trung thư sửa đường soi rõ lẽ tử sinh. Còn trách nhiệm
định luật lệnh châm trước cho thích dụng nặng nề của Tiên Thánh là đặt mực thước
với thời bây giờ, chia ra môn loại, biên ra cho tương lai, nêu khuôn phép cho hậu
nhiều khoản làm sách hình luật của một thế”. Hòa nhập Phật giáo và Nho giáo vì
triều đại”. Chính “lòng thương xót” của vua một mục đích chung của công cuộc ổn
Lý đối với dân chúng đã chi phối nội dung định xã hội. Trong điều hành chính sự, tư
luật pháp của nhà nước, lòng thương xót ấy tưởng từ bi, hỷ xả, xá tội nhân đạo của
là sự dung hợp giữa truyền thống của dân Phật giáo được quán triệt sâu sắc. 41
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016
Chuyện Hoàng Cự Đà không được ăn đều có Phật tính”, có sẵn mầm giác ngộ để
xoài và chuyện vua Thánh Tông đốt tài liệu tương lai thành Phật. Đây là một chủ thuyết
xin hàng của các quan đã cho thấy thái độ thực sự bình đẳng, nó giúp hạn chế xóa
khoan dung của các vua Trần: “Vua Thái nhòa ranh giới đẳng cấp phong kiến của
Tông một hôm bảo các quan hầu cận ăn thời Trần. Đối với những ông vua kiêm
xoài, Hoàng Cự Đà không được ăn. Đến khi Thiền sư, như: Trần Thái Tông, Trần Thánh
quân Nguyên đến bến Đông, Cự Đà ngồi Tông, Trần Nhân Tông thì chủ thuyết bình
thuyền nhẹ trốn đi. Và Hoàng Giang gặp đẳng đó không phải là khẩu hiệu, mà thể
Hoàng Thái Tử đi thuyền ngược lên. Cự Đà hiện bằng đường lối chính sách, biện pháp
tránh sang bờ bên kia, thế thuyền đi rất gấp. trong cung cách ứng xử hàng ngày. Đó là
Quan quân hô to hỏi Quân Nguyên ở đâu? những ông vua từ bi nhất, hiếu sinh nhất,
Cự Đà trả lời không biết, hãy hỏi bọn ăn bình đẳng nhất, như ( câu “Quân dân như cá
xoài ấy”. Sau khi phá được giặc, thái tử xin với nước” ngày nay).
trừng phạt Cự Đà để răn đe những kẻ làm
Từ một nền Phật giáo quyền năng, do
tội bất trung. Vua nói: “Cự Đà tội đáng chết nhu cầu của lịch sử, Phật giáo của giai đoạn
cả họ, song đời xưa có việc Dương Chân này biến thành một nền Phật giáo chống
không được ăn thịt dê đến nỗi làm quân ngoại xâm, với người đứng đầu là những vị
nước Trịnh bị thua. Việc của Cự Đà là lỗi vua anh minh, thấm nhuần tinh thần dân tộc
của ta; tha cho tội chết, cho đánh giặc để và giáo lý nhà Phật. Trên cơ sở nền tảng đó,
chuộc tội” [6, tr.394]. Câu chuyện Thánh Phật giáo đã tham gia vào phong trào đấu
Tông đốt tài liệu hàng giặc của các quan tranh vì nền độc lập và giành thắng lợi.
được sử cũ chép lại như sau: Khi quân
3. Chăm lo đời sống của dân
Nguyên đang mạnh, triều thần lắm kẻ hài
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo
lòng, có giấy tờ giao thiệp với giặc. Sau về bình đẳng, từ bi, bác ái, vua quan, tướng
giặc thua chạy về Bắc, triều đình bắt được tá, quân lính và thường dân dưới triều Trần
một tráp biểu hàng của các quan. Đình thần đã đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Các vua
muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng hoàng Trần đã kế thừa và phát triển những tư
nghĩ rằng làm tội những kẻ tiểu nhân cũng tưởng trị nước thời Lý, với phương châm trị
vô ích bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên nước “yêu dân như con”, vua luôn quan tâm lòng mọi người.
đến quyền lợi của dân, chăm lo cho dân. Sử
Tinh thần dân tộc và ý chí yêu nước của cũ chép lại các đời vua Trần noi gương, kế
vua quan nhà Trần được thể hiện rõ trong tiếp nhau khoan thư sức dân, giảm nhẹ tô
Hội nghị Bô lão ở Diên Hồng (năm 1285), thuế, cứu trợ dân nghèo khi đời sống gặp
Hội nghị tướng sĩ ở Bình Than (năm 1282). khó khăn. Tháng 7 năm 1265, nước to, vỡ
Đó là sự biểu hiện tinh thần dân chủ, đoàn vào phường Cơ Xá, người và súc vật chết
kết vua tôi nhất trí một lòng quyết tâm bảo đuối nhiều, vua Thánh Tông đã đại xá cho
vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa đất thiên hạ... Năm 1290 đói to, 3 thăng gạo trị
nước vào con đường thanh bình, thịnh trị. giá 1 quan tiền, nhiều người dân phải bán
Theo giáo lý nhà Phật “tất cả chúng sinh ruộng đất, bán con trai, con gái làm nô tỳ 42 Nguyễn Thúy Thơm
cho người khác, 1 người trị giá 1 quan tiền. tần là Thái Bình Trần Thị tham lam cướp
Trước tình cảnh đó, vua Nhân Tông xuống ruộng đất của dân, có người kiện, vua giao
chiếu phát thóc công để chẩn cấp cho dân cho Uy Giản hầu (không rõ tên) là con rể
nghèo và miễn thuế nhân đinh [2, tr.35 - 67]. của vua theo đơn mà trả lại ruộng cho dân.
Bản thân các vua Trần cứu trợ dân nghèo: Uy Giản vâng chiếu trả lại. Sau khi Thái
“Năm 1303, Thượng hoàng (Nhân Tông) ở Bình chết, Uy Giản đem tất cả ruộng đất
Phủ Thiên Trường, mở hội Vô lượng ở chiếm đoạt của dân trả lại cho chủ cũ, được
chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để vua khen ngợi” [2, tr.106].
chẩn cấp cho người nghèo trong nước và
Những dẫn liệu trên đây cho thấy, vua
giảng kinh giới thí [2, tr.146].
quan nhà Trần đặc biệt chăm lo cho đời
Việc cứu đói của các vua Trần là tấm sống dân nghèo. Mỗi khi người dân gặp khó
gương để nhân dân noi theo, trước hết là khăn hoạn nạn, thiên tai, mất mùa, bệnh
những nhà giàu. Vì thế, khi vua khuyên nhà dịch... nhà vua đều ra lệnh chẩn cấp lương
giàu tham gia vào công việc này, nhiều thực cứu đói, phát thuốc chữa bệnh, miễn
người đã hưởng ứng: “Mùa thu, năm 1358, giảm tô thuế. Bản thân các vua khi mới lên
vua Dụ Tông xuống chiếu khuyên các nhà ngôi trị vì, đều thực hiện miễn giảm tô thuế,
giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân khoan thư sức dân, đại xá cho thiên hạ. Bên
nghèo, quan tư sở tại tính xem số thóc đã cạnh đó, triều đình còn lệnh cho chính
quyên ra bao nhiêu trả lại bằng tiền” [3].
quyền địa phương lập các kho chứa thóc dự
Bốn năm sau lại mất mùa, vua Dụ Tông trữ, khuyên nhà giàu chẩn cấp cho dân
tiếp tục khuyên nhà giàu cùng vua cứu đói nghèo. Do vậy, mối quan hệ giữa triều đình
cho dân: “Tháng 8, năm 1362, đói to, vua - người dân; nhà giàu - người nghèo ngày
Dụ Tông xuống chiếu cho các nhà giàu càng bền chặt. Việc các vua Trần quan tâm
dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban đến miếng cơm manh áo cho dân là do
tước phẩm theo thứ bậc khác nhau. Tháng thấm nhuần tư tưởng đạo Phật. Đó cũng
9, vua đến phủ Thiên Trường, nhân dân ai chính là biểu hiện của lòng từ bi, cứu khổ
ốm đau thì ban thuốc công, gọi là Hồng và bình đẳng của đạo Phật.
ngọc sương, có thể chữa khỏi bệnh. Người
Bên cạnh đó, triều đình còn chú ý đến
nghèo nghe tin đến xin, cho mỗi người 2 phát triển kinh tế, đặc biệt tập trung vào
viên uống, 2 tiền và 2 thăng gạo” [2, tr.106]. việc trị thủy và thủy lợi để nâng cao sản
Để chủ động đề phòng và cứu đói hiệu xuất nông nghiệp cho nhân dân. Vào năm
quả, vua Hiến Tông đã cho lập những kho 1255, nhà Trần mở chiến dịch đắp đê chống
thóc dự phòng tại các lộ năm 1337 theo kiến lụt, vua Trần Thái Tông sai Lưu Miễn đi
nghị của Nguyễn Trung Ngạn [2, tr.146].
bồi đắp đê các sông ở Thanh Hóa. Các vua
Để giúp dân có đủ ruộng đất cầy cấy, Trần còn huy động dân đắp đê giữ nước
chủ động nguồn lương thực, vua đã ra lệnh sông Hồng từ đầu nguồn cho đến cửa biển
cho những cung tần tham lam chiếm giữ để ngăn nước lụt ngập tràn, gọi là đê Đỉnh
nhiều ruộng đất trả lại cho dân: “Năm 1317, Nhĩ. Nhiều khi, chính vua thân chinh đi
Thượng hoàng của vua Minh Tông có cung xem xét việc đắp đê. Năm 1315, vua Trần 43
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016
Minh Tông đã thân chinh đi kiểm tra tình thuần thành không chỉ chăm lo phát triển
hình đắp đê. Thấy vậy, quan Ngự Sử đài kinh tế, tạo tiền đề cho sự ổn định chính trị,
nói: “Bệ hạ nên chăm sửa sang đức chính, thực hiện chính sách khoan thư sức dân, mà
đắp đê là việc nhỏ, đi xem làm gì?”, Trần còn quan tâm đến các vấn đề phúc lợi xã
Khắc Chung, cùng đi theo vua đáp lại rằng: hội, thực hành giáo lý Phật giáo “tu nhân
“Phàm dân gặp nạn lụt, người làm vua phải tích đức”, “gieo các hạnh lành”. Tiêu biểu
cấp cứu cho, sửa sang đức chính không việc là vua Trần Nhân Tông, mỗi khi ra ngoài
gì to bằng việc ấy, cần gì phải yên lặng mới đường gặp gia nhân, các vương thần, vua
gọi là sửa sang đức chính” [3, tr.534 - 535]. hay dừng lại hỏi han, không cho thị vệ nạt
Việc làm của vua và câu trả lời của tướng nộ họ. Vua nói: “Ngày thường thì có thị vệ
đã nói lên sự lo lắng của các nhà lãnh đạo hai bên, đến khi nước nhà hoạn nạn thì chỉ
đến công việc chung lúc bấy giờ.
có bọn ấy đi theo thôi” [3, tr.487]. Một hôm
Đối với các công trình thủy lợi, các vua có người dâng sớ báo cáo với vua Minh
Trần cũng rất chú ý khơi thông dòng chảy, Tông về việc trong dân gian có những
đào những sông mới. Cụ thể, sông Tô Lịch người lang thang tới già cũng không có tên
ở vùng đồng bằng Bắc Bộ được khơi lại hai trong sổ, không chịu thuế dịch, sai phái tạp
lần vào năm 1256 đời vua Trần Thái Tông dịch cũng không chịu đến. Vua nói: “Nếu
và năm 1284 đời vua Trần Nhân Tông: không có người như thế thì sao có thể gọi là
“Mùa xuân tháng giêng, vét sông Tô Lịch” đời thái bình? Người muốn ta trách phạt họ
[3, tr.458]. Bên cạnh đó, nhiều sông mới thì có được việc gì không?” [4, tr.394].
được đào như sông Trầm và sông Hào nối
Trong cách sử dụng người, nhà Trần
liền Thanh Hóa với Nghệ An. Hai sông trên không những biết sử dụng tướng tài, binh
ngoài việc cung cấp nguồn nước dồi dào giỏi mà còn quy tụ được những quân thần
cho nông nghiệp còn là phương tiện giao hiền tài, như: Chu Văn An, Đặng Tảo,
thông giúp nhân dân đi lại thuận tiện, mở Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa, Trần Đình
mang sự giao dịch giữa các vùng. Nhờ đó, Thâm. Theo Lê Quý Đôn: đó là “những
dân ta đã tạo thế đứng vững chắc trên các người, “cứng rắn, cao thượng, thanh liêm,
khu vực đồng bằng, ổn định đời sống dân có phong độ như sĩ quân tử đời Tây Hán,
cư. Dưới thời Trần, nhân dân được mùa to thật không phải tầm thường có thể theo kịp
vào những năm 1269, 1280, 1295, 1296, được”. “nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi
1321... Nhìn chung, công tác trị thủy và mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ;
thủy lợi thời Trần không chỉ là một thành cho nên nhân vật trong một thời có chí khí
tựu lớn trong nền văn minh nông nghiệp tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra
dân tộc mà còn góp phần quan trọng đối với ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử
xu thế thống nhất của nước nhà thời bấy sách, trên không hổ với trời, dưới không
giờ. Chính nó đã tái tạo, phục hưng và củng thẹn với đất. Ôi như thế, người đời sau có cố đất nước.
thể theo kịp thế nào được! Từ bản triều về
4. Giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội sau, phong độ ấy dần dần không nghe thấy
Chính các vua Trần là những Phật tử nữa” [5, tr.299 - 300]. 44 Nguyễn Thúy Thơm 5. Kết luận
[3] Cadiere, L. (2010), Văn hóa, tín ngưỡng
Phật giáo thời Trần một mặt tự có sự
và thực hành tôn giáo ngư i ờ Việt, Nxb
phát triển từ nội lực, mặt khác có cơ sở Thuận Hóa, Huế.
chính trị - xã hội để phát triển (sự tôn sùng, [4] Nguyễn Huệ Chi (1981), “Các yếu tố Phật,
trọng dụng từ vua quan cho đến thần dân).
Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như
Đến lượt mình Phật giáo cũng góp phần tác
thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học
động trở lại tư tưởng chính trị, xã hội, đời
thời đại Lý - Trần”, Tìm hiểu xã hội Việt
sống văn hóa tinh thần của tầng lớp vua
Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội,
quan triều đình và người dân Việt Nam. Hà Nội.
Lịch sử nhà nước trên thế giới cũng như [5] Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo
ở Việt Nam cho thấy, nhà nước nào cũng
trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở
phải tự chọn cho mình một nền tảng tư
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
tưởng để tổ chức xã hội [1, tr.48] Phật giáo [6] Nguyễn Hồng Dương (2008), “Nghiên cứu
về mặt tư tưởng đã có ảnh hưởng trực tiếp
và ứng dụng các giá trị Phật giáo trong xã
đến tư tưởng chính trị của những vị vua,
hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên
quan, những người cầm quyền trong thời cứu Tôn giáo, số 5.
Trần. Trong bối cảnh toàn bộ sức mạnh [7] Nguyễn Hồng Dương, Phùng Đạt Văn
của dân tộc được huy động cho công cuộc
(Chủ biên) (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và
giữ nước, các nhà thiền học uyên thâm
xã hội dân gian, Nxb Từ điển Bách khoa,
đồng thời là các ông vua của đất nước đã Hà Nội.
trở thành các anh hùng khi vận nước nguy [8] Viện Sử học (1981), Tìm hiểu xã hội Việt
nan. Bởi vậy, tinh thần nhập thế của Phật
Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội,
giáo thời Trần ngày càng tỏ rõ tính ưu Hà Nội.
thắng và siêu việt. Các vua Trần đã đưa ra [9] Lê Quý Đôn (2007), Kiến Văn tiểu lục,
nhiều chủ trương chính sách mang ảnh
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. hưởng ủ
c a Phật giáo như: (khoan, giản, an, [10] Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn
lạc, từ, bi, hỷ, xả...) để chăm lo cho dân.
thư, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Mặt khác, Phật giáo cũng góp phần vào [11] Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn việc giải đáp, i
giả quyết các yêu cầu và
thư, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
nhiệm vụ thực tiễn là bảo vệ Tổ quốc, [12] Nguyễn Lang (1992), Ngô Thì Nhậm trong đánh đuổi xâm lược.
văn học Tây Sơn, Việt Nam Phật giáo sử
luận, t.1,2, Nxb Văn học, Hà Nội.
Tài liệu tham kho
[13] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo
[1] Đặng Văn Bài (2008), “Nhận diện để phát
sử luận, t.1,2, Nxb Văn học, Hà Nội.
huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt
[14] Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5.
hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[2] Ban Phật giáo Việt Nam (1992), Thiền học [15] Lê Mạnh Thát (2005), Lịch sử Phật giáo
đời Trần, Nxb Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam, t.3, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Việt Nam. Chí Minh. 45
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 46