









Preview text:
  lOMoAR cPSD| 47206071
5 cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế 
Hội nhập kinh tế quốc tế là một khái niệm rộng rãi. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương 
tiện để tăng phúc lợi. hội nhập kinh tế quốc tế được cho là bao gồm sự quốc tế hóa thị trường vốn, lao 
động, công nghệ và khởi nghiêp ngoài thị trường hàng hóa và dịch vụ hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế, 
theo nghĩa đơn giản và phổ biến nhất, là nơi các nền kinh tế quốc gia gắn kết với nhau. Hội nhập kinh tế 
là mối liên kết thể chế giữa các nền kinh tế 
(Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa thương mại,2020)  PTAs Khái niệm 
Thỏa thuận Thương mại ưu đãi (Preferential Trade Arrangement/PTA) là các bên tham gia thỏa thuận hạ 
thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy trì hàng rào đó với các bên thứ ba không 
tham gia thỏa thuận. Đây được hiểu là 1 khối thương mại mà trong đó cho phép trao đổi hàng hóa ở 
mức ưu đãi giữa các quốc gia thông qua cách giảm thuế quan nhưng không bãi bỏ hoàn toàn. PTAs được 
thiết lập thông qua hiệp định thương mại giữa các quốc gia, đây được xem như là giai đoạn đầu tiên của 
hội nhập kinh tế. Hầu hết các PTA đều có mục tiêu chính là trở thành 1 FTA (hội nhập ở mức độ cao hơn ) 
phù hợp với hiệp định chung về thương mại. Khu vực thương mại ưu đãi được hình thành với mục tiêu 
chính là tăng chiều sâu và phạm vi giảm thuế quan. Động lực chính để các quốc gia thúc đẩy tham gia 
các PTA là: Nhu cầu hàng hóa cộng nhu cầu tìm kiếm thị trường mới cộngkhủng hoảng kinh tế. Các 
chương trình đàm phán thương mại đa phương dần không đạt được hiệu quả cao do thiếu tiến bộ trong 
việc đảm bảo các rào cản thương mại thấp hơn. Đây là công cụ phổ biến dành cho các quốc gia đang 
phát triển gỡ bỏ hoàn toàn các rào cản thương mại và thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình thâm nhập chuỗi  cung ứng toàn cầu.  Đặc điểm 
Các hiệp định thương mại ưu đãi đặt ra các quy tắc thương mại, trong số các tác động khác, thu hẹp sự 
khác biệt về chi phí hoạt động giữa các nước thành viên. Ví dụ, một số PTA thiết lập các tiêu chuẩn tối 
thiểu về lao động và môi trường và các biện pháp bảo vệ đối với sở hữu trí tuệ. Nếu chi phí tuân thủ cao, 
những cải cách dựa trên quy tắc đó có thể cản trở dòng chảy thương mại và đầu tư, khiến một số doanh 
nghiệp kém cạnh tranh hơn trên thị trường nước ngoài. Để đảm bảo các nước thành viên tuân thủ các 
quy định của hiệp định, các PTA thiết lập các cơ chế giải quyết tranh chấp. Các cơ chế đó có thể có hai 
dạng: Một là cung cấp nền tảng pháp lý để các nước đưa ra yêu sách chống lại các nước thành viên khác; 
còn lại cho phép các nhà đầu tư ở các nước thành viên đưa ra các yêu sách chống lại chính phủ của các  nước thành viên khác. 
Nội dung chương trình PTA là việc ký kết giữa các nước thành viên về việc áp dụng một mức thuế quan 
ưu đãi trên cơ sở đàm phán đa phương hoặc song phương, sau đó mức cam kết được đưa ra áp dụng 
cho tất cả thành viên theo nguyên tắc tối huệ quốc, có nghĩa là sẽ áp dụng mức giảm thuế quan (MOP) 
hiện hành đối với các sản phẩm PTA là 50% so với mức tối huệ quốc của nước nhập khẩu 
PTA là tiền đề để các quốc gia thành viên thúc đẩy hội nhập kinh tế, thương mại sâu sắc hơn. Điều đó 
được hiểu là trên nền tảng PTA, các quốc gia thành viên trong tương lai sẽ đẩy mạnh cam kết hợp tác 
thông qua việc loại bỏ hoàn toàn các rào cản thương mại tự do, kể cả thuế quan và các hàng rào phi 
thuế quan. Điều tương tự, từ nền tảng PTA, các quốc gia thành viên trong tương lai sẽ thiết lập một hiệp 
định có khung pháp lý được qui định rõ hơn và được cam kết cao hơn về cơ chế giải quyết tranh chấp 
giữa nhà nước-nhà đầu tư, các vấn đề liên quan đến tự do hóa và bảo hộ đầu tư như chuyển vốn, lợi 
nhuận, minh bạch trong tịch biên tài sản và bồi thường, đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư được 
cấp phép và cũng như qui định bồi thường trong việc xảy ra tranh chấp.      lOMoAR cPSD| 47206071 (theo WTO,2016) 
(các câu hỏi liên quan đến cam kết hàng hóa Việt Nam xuất khẩu,WTO,2019)   
https://www.cbo.gov/sites/default/files/114th-congress-2015-2016/reports/51924tradeagreements.pdf  Ưu điểm: 
PTA hỗ trợ đầu tư giữa các thành viên các quốc gia bằng cách nới lỏng các quy định về đầu tư nước 
ngoài và cung cấp các biện pháp bảo vệ pháp lý được cải thiện cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các hiệp 
định thương mại ưu đãi cũng đặt ra các quy tắc thương mại rằng, trong số các tác động khác, chênh lệch 
hẹp về chi phí của hoạt động giữa các nước thành viên. Ví dụ:một số PTA thiết lập lao động tối thiểu và 
môi trường tiêu chuẩn và bảo vệ đối với sở hữu trí tuệ. Nếu chi phí tuân thủ cao, những loại dựa trên 
quy tắc cải cách có thể cản trở dòng chảy thương mại và đầu tư, khiến một số doanh nghiệp kém cạnh 
tranh trên thị trường nước ngoài. Các hiệp định thương mại ưu đãi tạo thuận lợi cho thương mại và đầu 
tư giữa các nước thành viên. Để khuyến khích các nước thành viên thương mại, PTA giảm hoặc loại bỏ 
các rào cản đối với thương mại, chẳng hạn như thuế nhập khẩu (thuế mà các nước áp dụng đối với hàng 
hóa sản xuất ở nước ngoài), hạn chế thương mại dịch vụ và các quy tắc thương mại khác cản trở luồng 
thương mại. Thúc đẩy hòa bình và ổn định ở các khu vực thành viên bằng việc tôn trọng nguyên tắc luật 
pháp trong quan hệ các nước thành viên và phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc của LIÊN HỢP QUỐC. 
Nguyên tắc này được thể hiện ở việc các nước thành viên không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều 
bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi. PTA là cơ sở để các nước duy trì 
sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi và từ đó tìm kiếm các cách thức nhằm đạt một sự hợp tác chặt chẽ hơn 
nữa. PTA giúp các quốc gia thành viên đang phát triển và chưa phát triển tăng trưởng nhanh chóng 
nhóm mặt hàng xuất khẩu truyền thống và đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. PTA góp phần 
thúc đẩy quốc gia thành viên thực hiện một các biện pháp cơ cấu nhằm thiết lập lại tăng trưởng ổn định 
và bền vững, phù hợp với xu hướng tự do hóa thương hóa, tăng cường trao đổi. Khi các công ty đa quốc 
gia hợp tác với các công ty địa phương để phát triển các nguồn lực, họ sẽ đào tạo họ về các phương 
pháp hay nhất. Điều đó cho phép các công ty địa phương tiếp cận với những phương pháp mới (theo 
WTO,2016) Nhược điểm: 
Trên thực tế PTA vẫn không phải là công cụ để các nước tự do hóa thương mại. Theo báo cáo của WTO 
“Các sản phẩm nhạy cảm và khó tự do hóa trong WTO cũng khó được tự do hóa trong các PTA. 66% thuế 
suất có thuế suất MFN trên 15 điểm phần trăm vẫn chưa được cắt giảm trong các PTA. ”Giống như trong 
trường hợp các biện pháp bảo hộ dự phòng và các quy tắc xuất xứ hạn chế, các tiêu chuẩn có thể dẫn 
đến việc nâng cao các rào cản bên ngoài đối với các quốc gia bên ngoài PTA; do đó làm xói mòn lợi ích 
của tự do hóa đa phương. Theo một hiệp định thương mại ưu đãi song phương, hai quốc gia hạ thuế 
quan xuống 0 nhưng chỉ đối với hàng nhập khẩu từ nhau. Các nhà xuất khẩu nước thứ ba không được 
hưởng lợi từ việc cắt giảm thuế quan, vì vậy các hiệp định thương mại ưu đãi tạo ra sự phân biệt đối xử. 
Tự do hóa ưu đãi về bản chất có những tác động không rõ ràng đối với thương mại. Ngoài yếu tố kích 
thích thương mại toàn cầu, mặt trái của các hiệp định PTA là vô tình “bóp méo” thương mại, gây nên 
tình trạng chuyển hướng thương mại. Theo báo cáo của DeRosa (2007) về  Các tính toán dựa trên 
ước tính mô hình trọng lực về tác động của các liên minh thuế quan lớn và các hiệp định thương mại tự 
do đối với thương mại nội khối và ngoài khối.”.“Các thỏa thuận thương mại lớn như thỏa thuận của LIÊN 
MINH CHÂU ẤU, NAFTA, ASEAN, EFTA đang tạo ra thương mại. Mặt khác những hiệp định nhỏ, song 
phương như Canada-Israel, EU – Na Uy, Mỹ- Israel lại đang gây nên tình trạng chuyển hướng thương mại 
“PTA là bước đầu trong tiến trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đối với một quốc gia. Ngày càng 
nhiều quốc gia tham gia hiệp định PTA song phương và đa phương, nhưng vẫn chỉ có khoảng 15% 
thương mại hàng hóa toàn cầu thực sự được nhận ưu đãi. Tổng giám đốc Pascal Lamy của WTO đã lý giải      lOMoAR cPSD| 47206071
điều này bởi vì thuế MFN đã khá thấp với hơn một nửa thương mại hàng hóa toàn cầu đã áp dụng thuế 
suất MFN bằng 0. Trên thực tế, chưa đến 2% thương mại thế giới đủ điều kiện hưởng biên ưu đãi trên 
10 điểm phần trăm. Một yếu tố hết sức quan trọng nữa là đối tác của PTA thường có xu hướng ký kết 
thêm các PTA khác, tham gia thêm nhiều thỏa thuận. Do đó, quyền tiếp cận ưu đãi mà một nhà xuất 
khẩu được hưởng trên thị trường của đối tác sẽ sớm bị “xói mòn” do sự hiện diện của các nhà sản xuất 
ưu đãi khác. Chính điều đó đã gây nên những lầm tưởng về mức độ thuận lợi của PTA. Chính nguy cơ 
chệch hướng thương mại mà đại đa số các PTA ít nói về ưu đãi thuế quan mà tập trung vào những vấn 
đề như môi trường pháp lý thuận lợi để bảo vệ nhà đầu tư mạnh mẽ hơn, dịch vụ cơ sở hạ tầng tốt 
hơn, quyền tự do di chuyển của nhân viên công ty, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tạo thuận lợi cho 
thương mại. Theo nghĩa chặt chẽ nhất, khuôn khổ này nói rằng hội nhập song phương hoặc khu vực bổ 
sung hoặc thay thế cho tự do hóa đa phương. Các thành viên PTA có thể giảm thuế quan toàn cầu thông 
qua các vòng đàm phán thương mại đa phương định kỳ hoặc hạ thấp sau đó một cách tuần hoàn thông 
qua một mạng lưới các PTA. Tuy nhiên, nếu các PTA ngày càng ít về thuế quan, thì mô hình này ngày càng 
trở nên ít phù hợp. PTA có thể phức tạp bởi các quy tắc xuất xứ (cách các cơ quan chức năng xác định 
nơi xuất xứ của một sản phẩm và do đó liệu nó có đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi hay không). Chi 
phí mà các công ty phải đối mặt để đáp ứng các yêu cầu có thể cao hơn lợi ích mà họ nhận được từ mức 
thuế thấp hơn. (theo WTO,2016) 
Khu vực thương mại tự do (FTA) 
Đây là một khối thương mại mà ít nhất 2 thành viên trong khối đã ký thỏa thuận thương mại tự do. Khu 
vực thương mại tự do được hình thành về cơ bản sẽ giúp giảm các rào cản thương mại, hạn ngạch nhập 
khẩu và thuế quan. Đồng thời là thành viên trong khu vực cũng sẽ có lợi ích tăng cường thương mại 
hàng hóa và dịch vụ giữa các nước. Khu vực thương mại tự do được hiểu là hạn chế tối đa biên giới giữa 
các quốc gia, thậm chí có nhưng khu vực thương mại tư do cho phép các thể nhân tự do đi lại giữa các 
quốc gia. FTA được xem như là cải tiến, là điều khác biệt hoàn toàn so với những qui định MFN (nguyên 
tắc đãi ngộ tối huệ quốc) trong WTO vì các ưu đãi mà các bên trong một khu vực thương mại tự do độc 
quyền dành cho nhau đi khác ngoài các cam kết gia nhập của họ.  Phân loại FTA 
Theo tiêu chí số lượng và khu vực địa lý, thì FTA có các loại sau: 
FTA song phương: FTA giữa 2 đối tác 
FTA khu vực: có 2 loại FTA khu vực ( FTA giữa nhiều đối tác trong cùng khu vực, FTA trong đó có một bên 
đối tác là tổ chức tập hợp nhiều nền kinh tế) 
Theo tiêu chí về phạm vi và nội dung cam kết, FTA có các loại sau: 
FTA truyền thống: thường có phạm vi nội dung hẹp, mức độ tự do hóa hạn chế 
FTA truyền thống thường chỉ bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong lĩnh vực thương mại 
hàng hóa. Một số ít FTA truyền thống có thêm các cam kết về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,… 
nhưng nhìn nhung các cam kết này vẫn chưa có ràng buộc ở mức độ cao 
FTA thế hệ mới: có phạm vi rộng, mức độ tự do hóa cao 
FTA thế hệ mới bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại hàng hóa, bên cạnh đó cũng rất chú trọng 
đến các lĩnh vực như dịch vụ, lao động, môi trường,…đồng thời đặt ra nhiều quy tắc tiêu chuẩn xuất xứ  hàng hóa, dịch vụ.  Đặc điểm 
Với FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả cam kết kéo dài 10 năm. Với các FTA thế hệ mới, 
quốc gia thành viên sẽ phải thực hiện cam kết trong vòng 5 - 7 năm; trong đó, nhiều điều khoản phải 
thực hiện ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2 - 3 năm      lOMoAR cPSD| 47206071
FTA được hình thành dựa trên cơ sở tôn trọng vùng lãnh thổ, có cơ quan hải quan đủ thẩm quyền chịu 
trách nhiệm quản lý và thực thi, các điều khoản trong hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS của 
WTO, cũng như các điều khoản trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT của WTO Một 
FTA tiêu chuẩn thường bao gồm nội dung các quy định: tính minh bạch, thủ tục hành chính, thuế nội địa, 
các ngoại lệ an ninh và chung, mối liên quan đến các hiệp định khác, thực thi hiệp định, ủy ban hỗn hợp. 
Nội dung thương mại hàng hóa trong một FTA phải bao gồm các thành phần: phân loại, đối xử quốc gia, 
cắt giảm thuế quan và lộ trình, trợ cấp xuất khẩu, các biển pháp phi thuế quan, tự vệ song phương, bảo 
vệ cán cân thanh toán. Nội dung quy tắc xuất xứ trong một FTA tiêu chuẩn có những thành phần như: 
phân loại xuất xứ, công thức tính hàm lượng giá trị nội địa, các yếu tố trực tiếp-gián tiếp, thủ tục và giấy 
kiểm tra chứng nhận xuất xứ. Khác với FTA truyền thống, FTA thế hệ mới có sự quy định chặt chẽ nội 
dung thương mại dịch vụ. Ngoài những quy định cơ bản như tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, cam 
kết bổ sung, đối xử tối huệ quốc,.. FTA thế hệ mới còn bao hàm những nội dung tương đối mới mẻ như 
bảo vệ cán cân thanh toán, các biển pháp tự vệ khẩn cấp cũng như nhà cung cấp dịch vụ độc quyền và 
đặc quyền. Qui định về sở hữu trí tuệ của một hiệp định FTA truyền thống thường chú trọng những nội 
dung như tính minh bạch, nâng cao nhận công chúng về sở hữu trí tuệ, các chế dân sự-hình sự cũng như 
các biển pháp kiểm soát tại biên giới. Không chỉ dừng laị ở đó, FTA thế hệ mới còn thiết lập những khung 
pháp lý vững chải trong công tác cải thiện môi trường kinh doanh. 
(trungtamwto.vn, vietnam-nhat-ban 245 noi dung hiep-dinh viet nhat_ve_doi_tac_kinh_te,2015) Lợi  ích của FTAs: 
Các FTA truyền thống cũng như FTA thế hệ mới được coi như là một chiến lược dài hạn nhằm giúp 
doanh nghiệp của các quốc gia thành viên tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực, nâng cao năng lực 
xuất khẩu và khả năng cạnh tranh. Các FTA đã tạo ra động lực và “sức ép” mới để quốc gia hoàn thiện 
thể chế kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính 
sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước theo đó cũng dần được hoàn thiện, tiệm cận với các chuẩn mực 
quốc tế. Khi tham gia các FTA, cạnh tranh tăng lên có thể làm cho doanh nghiệp trong nước, cũng như 
nhiều doanh nghiệp có công nghệ sản xuất lạc hậu rơi vào tình trạng khó khăn, theo đó khả năng thất 
nghiệp sẽ xảy ra trong một bộ phận người lao động. Hàng rào thuế quan tuy được gỡ bỏ nhưng các hàng 
rào kỹ thuật đối với 1 số quốc gia còn ít, không hiệu quả và có nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ các 
sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng rất lớn, trong khi đó, sản xuất trong 
nước lại không được bảo vệ, làm gia tăng những nguy cơ về ô nhiễm môi trường và các vấn đề xã hội, an 
ninh (đặc biệt là an ninh mạng)… Bất lợi của FTAs: 
Với mức độ mở cửa tự do hóa sâu hơn, các lĩnh vực còn thiếu, còn yếu của một số quốc gia thành viên 
mà tiêu biểu là: Giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực, lao động kỹ thuật có tay nghề cao… sẽ khó 
có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi phân luồng đầu tư từ nước ngoài, với dòng vốn mạnh mẽ đổ vào 
trong nước, cạnh tranh cao sẽ gây sức ép đối với DN. Quyền SỞ HỮU TRÍ TUỆ không phải lúc nào cũng 
được các chính phủ quốc tế hoặc các đối thủ kinh doanh coi trọng như quyền sở hữu tại quốc gia của 
một công ty. Bằng sáng chế, quy trình và các phát minh khác, bao gồm nhãn hiệu, màn hình đồ họa và 
hình ảnh, đôi khi được sao chép trong môi trường thương mại tự do. Bất lợi này làm giảm cơ hội của 
công ty để mang lại việc làm mới ở cấp địa phương trong khi vẫn cung cấp mức lương hợp lý. Rủi ro 
thao túng tiền tệ. Ở một thị trường rộng lớn hơn, điều hành tỉ giá luôn là bài toán khó đối với ngân hàng 
TRUNG ƯƠNG, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Ví dụ: hãng tin Bloomberg đưa tin, Bộ Tài chính 
Mỹ đã gửi báo cáo đánh giá cho Bộ Thương mại nước này và xác định rằng VND bị định giá dưới giá trị 
khoảng 4,7% trong năm 2019, một phần bởi động thái mua ròng 22 tỷ USD của Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam trong năm ngoái. Có thể làm căng thẳng cạnh tranh quốc tế đối với các nền kinh tế trong 
nước. Các hiệp định thương mại tự do chỉ đảm bảo rằng có những lợi ích xảy ra do các hoạt động tăng 
cường trên thị trường xuất nhập khẩu. Không có cách nào để xác định ai sẽ được hưởng lợi nhiều nhất      lOMoAR cPSD| 47206071
từ một thỏa thuận có ít, nếu có bất kỳ hạn chế nào. Năng suất tăng ở nước ngoài có thể gây ra những 
thay đổi thúc đẩy tăng trưởng, có nghĩa là sự cạnh tranh quốc tế trong một số ngành có thể gây thêm áp 
lực lên thị trường chung. Bởi vì thương mại tự do không chỉ định các ngành cụ thể cho bất kỳ quốc gia cụ 
thể nào, nên không có cách nào để xác định trước liệu có thể đạt được kết quả tích cực hay không. Khi 
hàng rào thuế quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đang dần được gỡ bỏ thông qua các FTA. Để bảo 
hộ sản phẩm trong nước, các nền kinh tế lớn có xu hướng dựng lên các rào cản thương mại đối với hàng 
hóa xuất nhập khẩu, biển pháp tối ưu nhất là phòng vệ thương mại. Đó có thể là các rào cản kỹ thuật, vệ 
sinh an toàn thực phẩm, chống bán phá giá, chống trợ cấp, rào cản về an ninh quốc phòng. Tất nhiên 
phòng vệ thương mại mang tính 2 chiều, các quốc gia thành viên hoàn toàn có thể áp dụng cho nhau các 
biển pháp phòng vệ. Một mặt giúp doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ luật pháp quốc tế, thay đổi 
chiến lược nhằm phát triển bền vững. Mặt khác phòng vệ thương mại cũng đặt ra nhiều thách thức cho 
xuất khẩu. Bởi vì phòng vệ thương mại hoàn toàn dựa trên những bằng chứng, hồ sơ, tài liệu có được 
trong quá trình điều tra. Thách thức đặt ra khi làm thế nào để doanh nghiệp tham gia hiệu quả các cuộc 
điều tra nếu bị kiện. Đối với vấn đề này, những hiệp định FTA vẫn chưa chủ động nâng cao nhận thức 
cho doanh nghiệp của các quốc gia thành viên về quy trình kiện, hồ sơ, chứng từ sổ sách minh bạch phù 
hợp, cần thiết cho quá trình khởi kiện cũng như kháng án.  (trung tâm WTO, 2015) 
(làm gì để tránh nguy cơ bị gắn mác thao túng tiền tệ, 2019) 
Liên minh thuế quan liên minh thuế quan (với chính sách thương mại 
bên ngoài chung) Khái niệm 
Ở một mức độ hội nhập kinh tế cao hơn, không còn chỉ đơn thuần là tạo nhau những ưu đãi nhất định 
trong trao đổi hàng hóa dịch vụ, các qui định, biển pháp về an toàn đầu tư, lao động, môi trường... Liên 
minh thuế quan là hình thức liên kết kinh tế giữa các nước trên cơ sở hình thành một thị trường hàng 
hóa, dịch vụ thống nhất với các thành viên, thiết lập một hệ thống chung về thuế quan và hạn ngạch 
nhập khẩu áp dụng cho các quốc gia không phải là thành viên. Liên minh thuế quan thường có biểu thuế 
quan, các thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu vào trong 
khối. Một liên minh thuế quan là một khối thương mại tự do trong đó bao gồm một khu vực 
thương mại tự do với thuế quan bên ngoài khu vực. Là giai đoạn 3 của hội nhập kinh tế” Đặc  điểm 
Liên minh thuế quan là nển tảng để các quốc gia thành viên dần phát triển thành “thị trường duy nhất”, 
với sự lưu thông tự do của không chỉ các loại hàng hóa mà cả dịch vụ, con người và tiền tệ, không bị giới 
hạn bởi biên giới của các nước thành viên.Hướng đến mục tiêu các quốc gia thiết lập chính sách cân đối 
mậu dịch với các nước không phải thành viên của liên minh, liên minh thuế quan được ra đời nhằm xóa 
bỏ thuế quan, những hạn chế về mậu dịch giữa các quốc gia. Nội dung chính của liên minh thuế quan 
thường bao gồm: thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, phòng vệ thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, 
các biển pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Trong xu thế toàn cầu hóa, nội 
dung của một liên minh thuế quan còn bao hàm các nội dung như công nghệ điện tử trong thương mại, 
cạnh tranh, pháp lý và thẻ chế. Cơ chế bảo vệ nền xuất khẩu nội địa cũng được liên minh thuế quan hết 
sức lưu ý, theo đó khi một hàng hoá nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến công nghiệp sản xuất mặt hàng 
đó trong nước, ( vượt quá mức trần về khối lượng nhập khẩu, về khối lượng, trị giá thực hiện theo quy 
định “giới hạn cạnh tranh cần thiết”.) nước cho hưởng ưu đãi sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết 
theo cơ chế bảo vệ của hệ thống GSP. (GOV Thừa Thiên Thuế, 2017) Ưu điểm: 
Các quốc gia thành viên đang phát triển hoặc chưa phát triển của liên minh sẽ được hưởng những cam 
kết mở cửa thị trường cụ thể thông qua việc cơ cấu sản phẩm giữa các thành viên trong liên minh là 
tương đối bổ sung cho nhau chứ không cạnh tranh trực tiếp nên sẽ giảm bớt những tác động bất lợi      lOMoAR cPSD| 47206071
truyền thống của việc mở cửa thị trường. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép quốc gia thành 
viên tránh khỏi những khó khăn liên quan đến qui tắc xuất xứ, gia tăng hiệu quả kinh tế và văn hóa chính 
trị giữa các thành viên. Liên minh thuế quan áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP. Hệ thống 
này dành ưu đãi về thuế nhập khẩu cho hàng hoá có xúât xứ từ các nước chậm phát triển và đang phát 
triển xuất khẩu vào các nước có chế độ GSP trên cơ sở đơn phương (Không đòi hỏi có đi, có lại). Mức 
thuế GSP thấp hơn thuế MFN, và có thể đến 0% tuỳ theo quy định của nước cho hưởng. Đây cũng chính 
là yếu tố thúc đẩy các quốc gia tham gia liên minh thuế quan. Miễn giảm thuế được điều chỉnh theo 
mức độ nhạy cảm của sản phẩm, được chia làm bốn loại sau: Các sản phẩm rất nhạy cảm: ví dụ như sản  phẩm dệt may. 
Các sản phẩm nhạy cảm: sản phẩm da, giày dép 
Các sản phẩm ít nhạy cảm: đồ trang sức, hàng điện tử và một số hàng hoá khác. 
Các sản phẩm không nhạy cảm: nội thất bằng gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ chơi, hàng thể thao. Nước 
được hưởng GSP có thể không tiếp tục được hưởng với một số hàng hoá hoặc tất cả các hàng hoá khi đã 
phát triển đến mức “trưởng thành”. Có hai dạng trưởng thành. Dạng thứ nhất dẫn tới việc xóa bỏ điều 
kiện hưởng GSP cho một hoặc nhiều mặt hàng của nước hưởng lợi, chẳng hạn, khi việc nhập khẩu một 
mặt hàng hoặc nhiều mặt hàng vượt giới hạn cạnh tranh cần thiết. Dạng thứ hai dẫn tới việc xoá bỏ bắt 
buộc toàn bộ điều kiện hưởng GSP của nước hưởng lợi, điều này xảy ra khi GNP tính theo đầ người của 
nước đó vượt quá mức ngưỡng thu nhập do Ngân hàng thế giới định ra cho các nước có thu nhập cao 
hoặc xoá bỏ khi nước đó không còn được xem là nước đang phát triển. Giảm sự chệch hướng thương 
mại. Chệch hướng thương mại xảy ra khi các nước không phải là thành viên lợi dụng sự không đồng nhất 
của thuế quan bên ngoài giữa các nước thành viên. Họ có xu hướng xuất khẩu cho các thành viên áp 
dụng tỷ giá thấp hơn và sau đó bán cho các nước có tỷ lệ cao hơn. Khi một quốc gia không phải thành 
viên bán hàng hóa cho quốc gia có FTA có thuế suất thấp, sau đó bán lại cho một quốc gia có thuế cao 
hơn. Điều này dẫn đến biến dạng thương mại và việc áp dụng 1 loại thuế quan dành cho bên ngoài ( các 
quốc gia không phải thành viên) khi giao dịch sẽ hạn chế tối đa được vấn đề đó.Thương nhân có nhiều 
nguồn hàng hơn, nên có thể linh hoạt thương lượng thương thảo. Giảm chi phí giao dịch do không kiểm 
soát biên giới và hàng rào thương mại. (theo trung tâm WTO,2015) Nhược điểm: 
Tương tự như hiệp định FTA, yêu cầu chất lượng sản phẩm xuất khẩu tương đối cao, và quan trọng đối 
với các quốc gia thành viên đang phát triển hoặc chưa phát triển nhận được sự không minh bạch nên rất 
khó lương. Bản thân một liên minh thuế quan cho đến thời điểm hiện tại ngoài việc là công cụ để quốc 
gia thúc đẩy tối đa những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo nhưng do việc yêu cầu chất lượng sản phẩm, 
những quy trình thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp và không rõ ràng. Sự liên kết kinh tế mà liên 
minh thuế quan đem lại là điều mà chúng ta thấy rõ. Nhưng bên cạnh đó, chính những sự ràng buộc 
trong việc điều chỉnh lượng sản phẩm nhập khẩu vào khối cả về mặt tuyệt đối và tương đối có thể dẫn 
đến việc sụt giảm thị phần và gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Cộng hưởng với việc các cuộc 
khủng hoảng dư thừa sản phẩm, sự phát triển nhanh chóng của các biển pháp an ninh đặc biệt và chống 
bán phá giá với sản phẩm nhất định có thể dẫn đến sự chi phối lượng xuất nhập khẩu sản phẩm nhất 
định trên thị trường thế giới, gây ra nhiều tổn hại cho một liên minh thuế quan. Điều đó dẫn đến các các 
cuộc khởi xướng điều tra biển pháp tự vệ toàn cầu không mong muốn Các khoản trợ cấp ưu (ưu đãi 
thuế, miễn giảm thuế, ưu đãi khoản vay, hỗ trợ xuất khẩu,..) từ chính phủ trong nước dành cho doanh 
nghiệp trong nước có thể được xem như là các khoản trợ cấp có thể đối kháng, gây ra thiệt hại đáng kể 
cho ngành sản xuất nội địa của các nước thành viên trong liên minh. Hàng rào kỹ thuật rất khắt khe 
khiến cho doanh nghiệp từ các quốc gia thành viên nghèo và đang phát triển gặp khó khăn trong tiến 
trình xuất khẩu hàng hóa. Các liên minh thuế quan ngày nay đưa ra các qui định chặt chẽ về kiểm dịch 
sản phẩm, trong đó có nhiều loại sản phẩm bắt buộc phải có cấp chứng thư vệ sinh an toàn đối với sản 
phẩm xuất khẩu. Các yếu tố đó khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng cao, dẫn đến giá bán tăng      lOMoAR cPSD| 47206071
lên, khả năng cạnh tranh bị ảnh hưởng sâu sắc. Đây là điều dễ hiểu bởi để bảo vệ hàng hóa trong nước, 
các quốc gia bắt buộc phải tăng cường các hàng rào kỹ thuật với mục tiêu bảo vệ sức khỏe người tiêu 
dùng, phát triển bền vững. 
(khởi xướng điều tra biển pháp tự vệ, 2020)  Thị trường chung  Khái niệm 
Được xây dựng theo mô hình dân chủ đại diện, trong mô hình này sẽ có 1 tổ chức trung tâm là Hội Đồng 
Chung làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của thị trường chung, tổ chức này có thẩm quyền tư pháp 
đối với tất cả các vấn đề liên quan đến luật pháp của mô hình thị trường chung Đặc điểm: 
Mô hình này luôn đảm bảo sự lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. Thị trường 
chung duy trì chính sách chung về thương mại, nông ngư nghiệp và phát triển địa phương. Một đồng 
tiền chung sẽ được sử dụng trong mô hình này. Mô hình này được xem như là sự phát triển mô hình nhà 
nước liên bang. Thị trường chung mang tính chất quốc tế lại vừa có tính chất quốc gia. Mọi hoạt động 
kinh tế, chính trị, văn hóa đều được hợp nhất nhằm hướng đến mục tiêu lớn nhất là một thị trường 
chung, hoàn toàn bình đẳng dưới sự định hướng của Hội Đồng Chung. Cơ cấu của thị trường chung bao 
gồm: Ủy Ban Chung, Hội đồng bộ trưởng chung, Quốc hội chung, tòa án chung và tòa kiểm toán chung. 
Quy trình ban hành quyết định chung ảnh hưởng đến mô hình thị trường chung đòi hỏi nhiều thủ tục 
phức tạp và phải trải quá trình được thông qua ba tổ chức cơ bản là Nghị viện chung,Hội đồng chung và 
Ủy ban chung.Cụ thể như sau: 
Nghị viện: Tham gia sâu vào hoạt động lập pháp 
Hội đồng: Sau khi thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, Hội đồng Chung sẽ giao lại cho Ủy ban 
chung xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành. 
Ủy ban chung: Các hiệp định của thị trường chung yêu cầu Hội đồng chung phải phát biểu trên cơ sở đề  xuất của Ủy ban. 
Khác với pháp luật quốc tế, pháp luật trong thị trường chung có thể được áp dụng trực tiếp trên lãnh thổ 
của các nước thành viên. Trong phạm vi thẩm quyền của thị trường chung, pháp luật của nước thành 
viên không còn quyền điều chỉnh và được thay thế bởi pháp luật của Liên minh chung. Các nguyên tắc cơ 
bản của pháp luật thị trường chung có giá trị bắt buộc cao, chế tài rộng, tương thích với pháp luật quốc 
tế; sau đó là hệ thống các văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống 
pháp luật chung. Ưu điểm: 
Di chuyển tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn, một thị trường chung thường được coi là một 
thị trường duy nhất, cho phép sự di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất mà không bị cản trở bởi biên 
giới quốc gia thành viên. Đối với một nền kinh tế, thị trường chung tạo điều kiện cho hiệu quả giữa các 
quốc gia thành viên - các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế mạnh 
mẽ hơn. Khi thị trường trở nên hiệu quả hơn, các công ty kém hiệu quả cuối cùng sẽ đóng cửa do cạnh 
tranh khốc liệt hơn. Các công ty thường được hưởng lợi từ các nền kinh tế có qui mô và tăng lợi nhuận, 
và đổi mới nhiều hơn để cạnh tranh trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt hơn.  Nhược điểm: 
Thị trường chung có quy định cho phép công dân các nước di chuyển tự do giữa các nước thuộc khối. Có 
thể tình trạng khu vực chung gặp khó khăn về kinh tế, công nhân từ các nước thành viên không thịnh 
vượng sẽ đổ về nước thị vượng hơn để tìm việc làm. Những người nhập cư từ quốc gia đang phát triển 
sang quốc gia thịnh vượng đã khiến giảm việc làm, tiền lương của người dân địa phương, thậm chí là đã 
đặt gánh nặng lên các dịch vụ công của nước phát triển hơn. Chuyển hướng thương mại xảy ra khi 
những quốc gia hay vùng lãnh thổ không phải là thành viên hiệu quả đang chen chúc ra khỏi thị trường      lOMoAR cPSD| 47206071
chung. Hơn nữa, một quốc gia có thể thể hiện mức lương chán nản nếu nước này phải đối mặt với sự 
gia tăng các yếu tố sản xuất khi cung vượt cầu (Giáo trình Kinh tế quốc tế, 2014)  Liên minh tiền tệ 
Hình thức liên kết kinh tế về lĩnh vực tài chính, tiền tệ mà trong đó các nước thành viên áp dụng 
các biện pháp nhằm tiến tới việc phát hành và sử dụng một đồng tiền chung trên tinh thần liên 
minh ấy phải đảm bảo xây dựng được các điều kiện cần thiết để giúp các thành viên ổn định và 
thịnh vượng hơn so với nếu họ là các nền kinh tế độc lập. Các quốc gia và vùng lãnh thổ thành 
viên trong mô hình này sẽ từ bỏ đồng tiền củ và từ bỏ chính sách tìền tệ độc lập của ngân hàng 
trung ương của mình và thành lập một đồng tiền chung với lượng cung tiền được điều tiết bằng 
một ngân hàng trung ương mới.  Đặc điểm 
Một liên minh tiền tệ luôn đi kèm việc thiết lập chính sách tiền tệ duy nhất và thành lập một 
ngân hàng trung ương duy nhất. Sẽ có 1 loại tiền tệ duy nhất được lưu thông đối với mô hình 
này, tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ các nước thành viên và đồng tiền chung sẽ được cố định,được 
sử dụng trên thị trường tài chính và ngoại hối. Trong khu vực đồng tiền chung, sự ổn định và 
thịnh vượng phụ thuộc vào sự phát triển của mỗi nước thành viên. Vì vậy, việc phải chia sẻ 
nhiều hơn về chủ quyền riêng của mỗi thành viên để góp phần xây dựng thành công một liên 
minh kinh tế chung thực sự là yêu cầu bắt buộc. Theo đó, không một quốc gia cam kết nào có 
thể tự in tiền của mình để trả nợ chính phủ hoặc thâm hụt, hoặc cạnh tranh với các loại tiền tệ 
khác của liên minh tiền tệ. Các thành viên trong một liên minh tiền tệ phải tuân thủ các quy 
định chung cụ thể khi sử dụng đồng tiền chung, chính vì vậy mà các quốc gia thanh viên không 
thể in tiền riêng của mình để trả nợ chính phủ hoặc thâm hụt. 
“Mặt khác, liên minh tiền tệ không phải là một liên minh tài khóa, điều đó có nghĩa rằng các 
thành viên khác nhau có cấu trúc thuế khác nhau và ưu tiên chi tiêu. Do đó, tất cả các thành 
viên có thể vay bằng đồng tiền chung với lãi suất thấp nếu có tình trạng cuộc khủng hoảng tài  chính toàn cầu.” 
(Liên Minh Kinh Tế Và Tiền Tệ Châu Âu (EMU)-Ngọc Hải M.Pearly,2017) 
Chính sách tiền tệ của liên minh tiền tệ là các biện pháp mà Hệ thống các ngân hàng trung ương 
thực hiện với mục tiêu chính là đảm bảo sự ổn định về giá thông qua định chế tài chính duy 
nhất là Ngân hàng trung ương chung. Ngân hàng trung ương chung hỗ trợ các chính sách kinh 
tế chung trong nhằm thực hiện các mục tiêu của liên minh. “Một liên minh tiền tệ hành động 
theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường mở, cạnh tranh tự do, đảm bảo một chính sách 
lãi suất. Để đạt được mục tiêu của mình, Liên minh tiền tệ có một loạt các công cụ chính sách 
tiền tệ. Về nguyên tắc, để đối phó với một cuộc khủng hoảng, phản ứng thông thường của một 
ngân hàng trung ương là hạ lãi suất. Mức giảm lãi suất này có tác động lan tỏa khắp nền kinh tế 
thông qua các ngân hàng, có nghĩa là hỗ trợ cho các đơn vị làm ăn kinh tế mắc nợ (hộ gia đình, 
doanh nghiệp, Nhà nước...). Ngoài ra, tỷ lệ lãi suất giảm sẽ kích thích tín dụng, cũng như kích 
thích đầu tư và tiêu dùng, từ đó hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Sự biến động của lãi suất là công 
cụ chính trong chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương.” 
(chính sách tiền tệ điều chỉnh để ứng phó với cuộc khủng hoảng y tế của EU, 2020)      lOMoAR cPSD| 47206071 Ưu điểm 
Thông qua việc sử dụng đồng tiền chung, người tiêu dùng và doanh nghi p trong khệ  ối có 
thể so sánh giá cả hàng hóa và dịch vụ m t cộ ách dễ dàng, thúc đẩy sự minh bạch trong giữa 
các nước thành viên, thúc đẩy giao thương, tăng tiêu dùng, phát triển thị trường hàng hóa, dịch 
vụ. Góp phần tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghi p trong khệ ối, cải thiện mức sống 
của người dân. Đồng tiền chung về lý thuyết giúp xóa bỏ các nghi p vệ ụ giao dịch ngoại hối trực 
tiếp giữa các đồng tiền n i khộ ối với nhau, cũng như các giao dịch gián tiếp qua đồng tiền khác. 
Điều này giúp các cá nhân, tổ chức có tham gia hoạt đ ng thương mộ  ại, đầu tư trong khối  sẽ tiết ki m khoệ 
ản chi phí chuyển đổi giữa các loại ngoại tệ. Các quốc gia có thể thành 
viên tránh được sức ép của vi c phệ á giá đ t ng t hay việc cộ ộ 
ác nhà đầu cơ tiền t tranh  thệ 
ủ sự không ổn định của từng đồng tiền riêng lẻ để trục lợi. Về lý thuyết, các nhà đầu tư 
dễ dàng di chuyển vốn trong n i khối, chi phộ 
í giao dịch ngoại hối giảm, thị trường thống 
nhất, giá cả ổn định.  Nhược điểm 
Về lý thuyết, nếu có sự cạnh tranh tăng trong nền kinh tế toàn cầu thì điều đó sẽ kích thích vốn 
và lao đ ng di chuyộ ển từ khu vực có năng suất lao đ ng thộ 
ấp đến nơi có năng suất lao 
đ ng ộ cao. Từ đó có thể dẫn đến khả năng gây ra h u quậ ả nghiêm trọng vì lực lượng lao đ ng 
độ óng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong khối. Hơn nữa, 
Nếu tại các nước kém phát triển hơn, chính phủ bu c chắc chắn sẽ phải gia tăng cộ  ác 
khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã h i cho người dân để tránh tình trạng di cư. Điều này dẫn đến  thâm hộ 
ụt ngân sách gia tăng. “Sự khác biệt gia tăng giữa các nền kinh tế thành viên sẽ 
làm gia tăng các phong trào chính trị, tuy rất đa dạng nhưng có chung những giải pháp mang 
màu sắc dân tộc chủ nghĩa, cho rằng cần phải quay trở lại với các đồng tiền quốc gia. Trên thực 
tế, khi dùng đồng tiền chung, việc loại bỏ rủi ro mất giá cũng khuyến khích dòng vốn luân 
chuyển dễ dàng trong nội bộ liên minh tiền tệ. Nhưng khi chi phí vay giảm, nợ tư nhân lại gia 
tăng là yếu tố rủi ro đối với nợ có chủ quyền của các quốc gia này” 
(Đồng tiền chung châu Âu, Hoàng Đình Nhàn, 2019)          lOMoAR cPSD| 47206071