lOMoARcPSD|45474828
Đây là một sự thật đầy thú vị nhưng cũng ẩn chứa nhiều bực bội và bất trắc. Làm sao để liên hệ với một người thuộc một nền
văn hóa khác? Nên nói gì, không nên nói gì để bắt đầu một cuộc trò chuyện? Chủ đề nào thuộc loại cấm kị mà nên để ý?
KẾT: Lưu ý:
Phân tích của Hofstede được thực hiện theo quốc gia và có vẻ thích hợp với nhiều nước nhưng lại không hợp lý cho những
quốc gia được cơ cấu dựa trên nguồn gốc dân tộc hay địa lý. Ví dụ tại Canada, Văn hóa của người Canada nói tiếng Pháp sẽ
khá khác biệt so với những người Canada nói tiếng Anh. Hoặc ở Italy, điểm nam tính sẽ khác nhau giữa miền Bắc và miền
Nam.
Điểm cốt lõi:
Văn hóa đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh quy tắc và mối quan hệ giữa các cá nhân tại nơi làm việc. Được nuôi
dưỡng trong nền văn hóa nào thì tự nhiên bạn sẽ được chuẩn bị về hành vi ứng xử phù hợp với nền văn hóa ấy mà không cần
phải suy nghĩ về phản ứng, sở thích và cảm xúc của bạn.
Nhưng khi bước vào một nền văn hóa khác, đột nhiên mọi thứ sẽ thay đổi. Bạn không biết phải làm gì hoặc nói gì cho phù
hợp. Do đó bạn nên sử dụng mô hình kích thước văn hoá của Hofstede để đánh giá cách tiếp cận, các quyết định và hành
động cho phù hợp với nhận thức chung của xã hội khi nghĩ và phản ứng với hành động đó của bạn.
Tất nhiên sẽ không có xã hội nào đồng nhất từ trên xuống dưới và luôn có độ lệch so với tiêu chí Hofstede nhưng ít nhất bạn
vẫn không bị lạc đường vì đã có sẵn cẩm nang hướng dẫn. Người ta thường sợ những gì không biết và bạn sẽ được thúc đẩy
bởi sự tự tin và sự an tâm từ việc nghiên cứu mô hình văn hóa này.
Áp dụng vào cuộc sống:
• Dành chút thời gian xem xét thang điểm của từng quốc gia do Hofstede xác định. Đặc biệt chú ý đến các quốc gia
mà cộng sự của bạn đang sống.
• Từ bảng điểm đó, hãy suy nghĩ về các tương tác đã xảy ra giữa bạn và cộng sự ở các nước khác. Việc đối thoại và
liên kết có có ý nghĩa hơn sau khi nghiên cứu 5 kích cỡ này không?
• Thách thức chính mình tìm hiểu thêm về một nền văn hóa cụ thể. Nếu công việc của bạn đòi hỏi phải tiếp xúc với
người nướcngoài, hãy xem thang điểm của nước đó và áp dụng điểm Hofstede để khám phá và xác định những gì cần biết
• Nếu được yêu cầu làm việc với một người đến từ một nền văn hóa khác, sử dụng điểm số của Hofstede và ghi chú về
cách tiếp cận của bạn, cần chuẩn bị cái gì để thảo luận, và lý do tại sao bạn làm như vậy. Sau đó, đánh giá hiệu suất của bạn
và nghiên cứu sâu hơn để chuẩn bị cho lần tới.
• Trên hết là bạn phải biến sự nhạy cảm về văn hóa trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày bằng cách tìm hiểu
giá trị của sự khác biệt giữa con người và tôn trọng sự khác biệt giữa mỗi quốc gia.
#+5I#$'95I#$'9 !,'Q* $'9/%4 #`7Q#;\'!%E\7
O 7]= #•Q!BIB5:D/$#$O#$99S(!I#$'9 V6o!;mhi P
$v!o9!,5mji]#:$ O &7C* #5mkiF)5m–i%4 +N!"O61!+Z #5m—i+ZD;$I25m˜i!O+N
]7% 3E"#$Q#QO5+_ +,%I#$'9 ]O$S;\'!%/ O 7]= mhi5mji5mki5m˜i
D$C23!Q4 O 6'!5!o% =+3+N+$Z 5!"#$ O W =m–i5m—iE
Khía cạnh văn hóa thứ hai: Yếu tố định hướng dài hạn – LONG TERM ORIENTATION
Đặc điểm văn hóa định hướng dài hạn khiến đa số người trong xã hội sẽ liên kết các kinh nghiệm trong quá khứ để giải
quyết các vấn đề trong thực tại và tương lai.
Những quốc gia mang đặc điểm văn hóa định hướng dài hạn sẽ thường duy trì các truyền thống và chuẩn mực xã hội, và e
dè với sự thay đổi quá nhanh của xã hội.
Ngược lại với yếu tố định hướng dài hạn là tính thực dụng. Mọi người thường nghĩ lý do của các vấn đề là do hoàn cảnh,
họ tiếp cận vấn đề thực tế và vì thế họ sẽ linh hoạt giải quyết vấn đề dựa vào sự thích nghi với hoàn cảnh. Do đó, bất kì
vấn đề nào họ cũng sẽ có hướng giải quyết.
Khía cạnh thứ 3: Yếu tố mang tính nam quyền – MASCULINITY
Khái niệm về nam quyền (masculinity) và nữ quyền (femininity) trong Hofstede làm xáo trộn các vấn đề nam quyền và nữ
quyền (Sharma, 2010). Việc tái khái niệm lại cho khía cạnh nam quyền và nữ quyền mức độ cá nhân là nam quyền và
bình đẳng giới. Nam quyền đại diện cho sự quyết đoán, tự tin, xâm lược và tham vọng. Trong khi đó, bình đẳng giới chính
là mức độ mà mọi người cảm nhận đàn ông và phụ nữ bình đẳng về vai trò xã hội, khả năng, quyền và trách nhiệm
(Schwartz và cộng sự, 2009).