Anh/chị hãy luận chứng cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực tiễn ở nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thì nền kinh tế nước ta phải tồn tại nhiều thành phần | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, đã trải qua chiều dài lịch sử hơn 150 năm. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thời đại, giải quyết những vấn đề cấp bách do thời đại đặt ra. Những thành tựu của nó trong thế kỷ XX là liên tục, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
TP.HCM
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
----- -----🙞🙜🕮🙞🙜
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:Anh/chị hãy luận chứng cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực
tiễn ở nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thì nền
kinh tế nước ta phải tồn tại nhiều thành phần.
Nhóm sinh viên thực hiện
1. Đỗ Văn Nhật MSSV: 23146321
2. Nguyễn Xuân Nhi MSSV: 23146322
3. Phạm Hoàng Phú MSSV: 23146330
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY VÀ HƯỚNG DẪN
THẠC SĨ TRẦN TIẾN PHÁT
TP.Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng ….. năm …..
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN...............................................2
1.1.Cơ sở lý luận.....................................................................................................2
1.1.1. Chủ nghĩa duy vật.........................................................................................2
1.1.2. Cơ sở học thuyết hình thái kinh tế - xã hội..................................................3
1.2.Phương pháp luận duy vật..............................................................................4
II. THỰC TIỄN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI THÌ NỀN KINH TẾ NƯỚC TA PHẢI TỒN TẠI NHIỀU
THÀNH PHẦN.........................................................................................................5
2.1.Thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta 5
2.2.Thực tiễn Việt Nam hiện nay trước yêu cầu phải tồn tại nhiều thành phần
kinh tế....................................................................................................................15
KẾT LUẬN.............................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin một hệ thống luận khoa học cách mạng, đã
trải qua chiều dài lịch sử hơn 150 năm. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin sự kết hợp chặt chẽ giữa luận với thời đại, giải quyết những vấn đề cấp
bách do thời đại đặt ra. Những thành tựu của trong thế kỷ XX liên tục,
nghiêm túc trong việc phát triển và tìm ra những quy luật khách quan tác động vào
hội loài người trong vòng một trăm năm lịch sử. mặt tất cả các bước
ngoặt của thế kỷ nhằm chứng minh làm sáng tỏ những vấn đề tính quy luật
của đời sống hội. cung cấp cho loài người những nhận thức đúng đắn, cách
nhìn thấu đáo, khách quan, trải qua kinh nghiệm thực tiễn.
Chủ nghĩa hội con đường xây dựng chủ nghĩa hội nước ta vấn
đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính
trị của Đảng. Hiện nay, việc luận chứng sở luận, phương pháp luận thực
tiễn ở nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế nước
ta phải tồn tại nhiều thành phần vô cùng cấp thiết. Do đó, nhóm sinh viên đã nghiên
cứu và thực hiện đề tài:
Anh/Chị hãy luận chứng sở lý luận, phương pháp luận và thực tiễn
nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế nước ta
phải tồn tại nhiều thành phần”
1
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
I.1. Cơ sở lý luận
I.1.1. Chủ nghĩa duy vật
“Chủ nghĩa duy vật một trong những trường phái triết học lớn trong lịch
sử, bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật
khẳng định rằng vật chất tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ tính thứ hai;
bản chất của tồn tại này vật chất cũng tức thừa nhận minh chứng rằng: suy
đến cùng, bản chấtsở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên hội chính
là vật chất”.
Trong quá trình phát triển lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua
03 hình thức trình độ cơ bản khác nhau, đó là:
“Chủ nghĩa duy vật chất phác: kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật chất phác xuất hiện tồn tại cả phương
Đông và phương Tây. Điển hình của chủ nghĩa duy vật chất phác là các học thuyết
triết học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc (phương Đông) và Hy Lạp (Phương
Tây). Chủ nghĩa duy vật chất phác trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
chủ nghĩa duy vật giai đoạn này đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể;
lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể là
bản nguyên của thế giới. Do đó quan điểm nhận thức của nhà triết học duy vật thời
kỳ này mang nặng trực quan nên những kết luận của họ mang nặngnh cảm tính,
ngây thơ”.
“Quan niệm của Talet cho rằng bản nguyên của thế giới cho rằng nước, Hêraclit
cho rằng lửa, Đêmôcrit cho rằng không khí hay triết học trung quốc cho rằng
đó là ngũ hành: Kim, thủy, hỏa thổ. Dù còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật
2
về bản đúng lấy bản thân bản chất của giới tự nhiên để giải thích cho tự
nhiên chứ không viện đến thần linh hay Thượng Đế để giải thích”.
“Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của các học
thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) các nước Tây Âu (tiêu
biểu chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh Pháp) đạt những thành tựu lớn
ảnh hưởng đến triết học. Phương pháp duy siêu hình máy móc được coi trọng.
Đây thời học cổ điển thu được những thành tựư rực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp duy siêu hình, máy
móc của cơ học cổ điển”.
Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, thế giới giống như
một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập,
tĩnh tại; nếu biến đổi thì đó chỉ sự tăng giảm đơn thuần về số lượng do
những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình tuy chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi
liên hệ phổ biến sự phát triển nhưng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại
thế giới quan duy tâm tôn giáo, nhất giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời
Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sau đó được Lênin
bổ sung bảo vệ phát triển. Đây hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật.
I.1.2. Cơ sở học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay
còn gọi chủ nghĩa duy vật biện chứng về hội) dùng để chỉ hội từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. chính là các
3
hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống
xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - hội một hệ thống hoàn chỉnh, cấu trúc phức tạp, trong
đó các mặt bản lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng
tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - hội vị trí riêng tác động qua lại lẫn
nhau, thống nhất với nhau.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng
nhất của chủ nghĩa duy vật về lịch sử; trong đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã
chỉ ra những quy luật vận động chung nhất của hội loài người. vậy, đã
nhiều nước chọn học thuyết hình thái kinh tế - hội sở luận để xây dựng
chủ nghĩa hội, trong đó Việt Nam. Cấu trúc bản của hình thái kinh tế
hội bao gồm:
Lực lượng sản xuất: Là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế -
hội. Hình thái kinh tế - hội khác nhau lực lượng sản xuất khác nhau. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất: Tạo thành sở hạ tầng của hội quyết định tất cả
mọi quan hệ hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - hội một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất
hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao: (i) Hình thái kinh tế - hội cộng
sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy); (ii) Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu
lệ (giai cấp chủ nô mang sứ mệnh lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông
nô; (iii) Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ
4
nông dân; (iv) Hình thái kinh tế-xã hội bản chủ nghĩa (giai cấp sản) gồm tri
thức, tiểu tư sản; (v) Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân).
I.2. Phương pháp luận duy vật
Phương pháp là một mạng lưới hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri
thức về những quy luật khách quan dùng để kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải
trí nhận thức và hoạt động giải trí thực tiễn nhằm mục đích thực thi tiềm năng đã
xác lập .
Phương pháp luận là lý luận về chiêu thức, là mạng lưới hệ thống những
quan điểm, những nguyên tắc chỉ huy con người tìm tòi, kiến thiết xây dựng, lựa
chọn và vận dụng những giải pháp trong nhận thức và thực tiễn. Trong đó quan
trọng nhất là những nguyên tắc có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có công dụng
khuynh hướng việc xác lập phương hướng điều tra và nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn
và vận dụng giải pháp.
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức,
phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả.
II. THỰC TIỄN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI THÌ NỀN KINH TẾ NƯỚC TA PHẢI TỒN TẠI NHIỀU
THÀNH PHẦN
II.1. Thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
“Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: sự tồn tại của nhiều chế độ sở hữu, nhiều
hình thức sở hữusở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ "thành phần kinh tế". ý kiến
muốn thay thuật ngữ "thành phần kinh tế" bằng "khu vực kinh tế" hay "loại hình
kinh tế". ý kiến cho rằng: không dùng các thuật ngữ trên, gọi trực tiếp tên
của mỗi bộ phận của nền kinh tế kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
5
nhân... Điều quan trọng không phải tên gọi, cần quan tâm xem mỗi bộ phận
và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân vận động, phát triển
đóng góp như thế nào vào sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có việc giải
phóng, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển chung
của đất nước”.
Theo Lênin, thuật ngữ thành phần kinh tế hàm nghĩa quan hệ sản xuất (trong đó
bản là quan hệ sở hữu) ứng với một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định
đại diện cho một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nhưng chưa bị xóa bỏ, hoặc
đang trong quá trình phát triển để trở thành phương thức sản xuất thống trị (với
nghĩa phổ biến). Việc xác định thành phần kinh tế là để có chính sách đúng đắn đối
với chúng.
“Trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, nên
còn nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. vậy còn nhiều
thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Việc phân định các
thành phần kinh tế mới hiểu được các đặc trưng bản xu hướng vận động của
chúng để chính sách phù hợp nhằm phát huy được tiềm lực của chúng vào phát
triển kinh tế - hội đất nước. Khi phân định thành phần kinh tế V.I.Lênin nhấn
mạnh hai điểm: phải phản ánh đúng tình hình thực tế nêu mối quan hệ giữa
các thành phần kinh tế”.
Tiêu thức chủ yếu làm cơ sở cho việc phân định các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:
(i) Quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu phải phù hợp, gắn với trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh
tế phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
(ii) cấu các thành phần kinh tế phải phản ánh đúng tình hình thực tế của
nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể.
6
(iii) Sự phát triển của các thành phần kinh tế mối liên hệ tất yếu khách
quan theo một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất từ
thấp lên cao và theo định hướng XHCN.
Khi xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta cần phải xét tới "tính tương đương", "đồng đẳng" giữa các
thành phần kinh tế thì mới phù hợp với chủ trương: "các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác cạnh tranh lành mạnh"
1
. Như vậy, “phải coi các thành phần kinh tế
những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất đều vai trò quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương
hỗ với nhau, bình đẳng với nhau, không nên đặt cho một bộ phận này vai trò
quan trọng hơn bộ phận khác. Với ý nghĩa đó, cần phân chia "thành phần kinh tế
nhà nước" hiện nay thành hai cấu phần: phi doanh nghiệp doanh nghiệp. Phần
phi doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân
Nhà nước được nhân dân giao quyền đại diện chủ sở hữu thì không thuộc thành
phần kinh tế nào cả. Toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân này thì
Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước đại diện chủ sở hữu, Nhà nước
quản lý bằng pháp luậtsử dụng hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện vật chất -
kỹ thuật, điều kiện tài chính..., tạo ra môi trường kinh tế - hội chung để các
thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng. Nhà nước không thuộc thành phần
kinh tế nào cả, Nhà nước được Nhân dân ủy quyền, giao quyền thống nhất quản lý,
sử dụng hiệu quả các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (như đất đai các tài
nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo,
vùng trời các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước các nguồn
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 83
7
vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...). Các tài sản thuộc sở
hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì
phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ
quan quản nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế. Nhà nước thay mặt Nhân dân quản lý, sử dụng những tài sản thuộc sở
hữu toàn dân, tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển của
các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng,
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế để các thành phần kinh
tế phát triển. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc
trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát
triển kinh tế - hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước tạo môi trường
pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường hội, cung cấp các dịch vụ công,
hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà
nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước
với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển
kinh tế - hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế giữ vai
trò quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân. Như vậy
"thành phần kinh tế nhà nước" chỉ còn lại phần doanh nghiệp nhà nước.thể giữ
nguyên tên thành phần kinh tế nhà nước, nhưng chỉ bao gồm các doanh nghiệp
nhà nước, hay để cho không lầm lẫn với thành phần kinh tế nhà nước theo quan
niệm hiện nay (bao gồm cả hai cấu phần phi doanh nghiệp và doanh nghiệp), thì có
thể gọi thành phần kinh tế công (chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước).
Thành phần kinh tế công này mới "tương đương", mới "đồng đẳng" với các thành
phần kinh tế khác. Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài
sản hữu hình hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các
chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. như vậy thì thành phần kinh
8
tế công mới thực sự bình đẳng,ơng đồng với các thành phần kinh tế khác. "Mọi
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo chế thị
trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"
2
. Thực hiện nhất quán một chế độ
pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế”.
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam còn tồn tại cả
chế độ sở hữu nhân (chế độ hữu), cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu)
và hình thức sở hữu hỗn hợp, thì nên phân chia nền kinh tế nước ta thành ba thành
phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:
“Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí,
vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước
(được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản vốn nhà nước tại
doanh nghiệp đầu vốn (cả vốn bằng hiện vật vốn bằng tiền) cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN
được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo chế thị trường.
Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
những địa bàn quan trọng quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo
cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch trách
nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN,
Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất
những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân
sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105
9
nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh
doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản
trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo
chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ sử dụng hiệu quả các nguồn lực
hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...”
Thành phần kinh tế tư nhânmột động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ
thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá
thể, các hộ tiểu chủ, các chủ nhân, các nhàbản, các tập đoàn bản... với các
loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh thể (hộ nông dân,
hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang trại, hộ tiểu chủ,
doanh nghiệp nhân, doanh nghiệp nhân bản (tư bản trong nước bản
ngoài nước), tập đoàn bản. "Hoàn thiện chế, chính sách khuyến khích, tạo
thuận lợi phát triển mạnh kinh tế nhân hầu hết các ngành lĩnh vực kinh
tế..."
3
. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập
đoàn kinh tế nhân mạnh, công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của
thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ vừa . Ngày
4
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108
4
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm
(khóa XII) đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân lành
mạnh theo chế thị trường một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài….; một
phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ sử dụng hiệu quả
các nguồn lực phát triển”; “Kinh tế nhân một động lực quan trọng để phát triển kinh tế….
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với
tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng tỷ trọng đóng góp trong GDP”;
“Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhân lành
mạnh đúng định hướng”; “Kinh tế nhân được phát triển tất cả các ngành, lĩnh vực
pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo…” (Tài liệu nghiên
cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73)
10
nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp
không cần quy mô lớn vẫnthể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời,
với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo...
thể kết nối để tạo thành sự hợp tác quy lớn trong việc sản xuất sản phẩm,
không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm. Những thay đổi đó làm
cho tính tất yếu chuyển sở hữu nhân thành sở hữu hội để đáp ứng nhu cầu
quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất có tính xã hội đã trở nên yếu đi, không còn thực
sự cấp bách. Nói cách khác, thể nhiều cách hợp tác sản xuất giữa những con
người với nhau trong xã hội mà không cần sở hữu chung với vai trò trung gian của
Nhà nước. Ngoài ra, việc sở hữu chung dưới hình thái sở hữu nhà nước khi nguồn
lực và của cải còn khan hiếm so với nhu cầu sẽ có thể dẫn tới sử dụng tài sản chung
một cách lãng phí hoặc bị công chức nhà nước lạm dụng, tham nhũng lợi ích
riêng của họ.
Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó chủ nghĩa bản nhà
nước theo cách gọi của V.I.Lênin) “bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên sở liên kết các chủ sở hữu
khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công chủ thể kinh tế nhân trong
nước; giữa chủ thể kinh tế công chủ thể kinh tế nhân nước ngoài; giữa các
chủ thể kinh tế nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế nhân trong
nước và chủ thể kinh tế nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức
liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất
chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ
tiên tiến quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng mở rộng thị trường tiêu
thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường công ty liên doanh, công ty
hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai chủ sở hữu trở
lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở
hữu đủ khả năng tham gia mạng sản xuất chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
11
Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này đối tượng sở
hữu gồm tài sản hữu hình hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được
hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện
cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp
này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ
tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn các tài sản từ
các nguồn khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh
doanh tích lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế
này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động
bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh
nghiệp, hợp tác quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử
dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích
cho các chủ thể đóng góp vào lợi ích chung. quy chế chặt chẽ ràng buộc
trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất -
kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại
hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc
gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy
mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các
hợp tác cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu nhân, của
những người sản xuất hàng hóa nhỏ hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh
doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp táccủa những công nhân văn minh là hợp tác
XHCN (ở nước ta chưa loại hình hợp tác này), còn hợp tác của những
người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ nghĩa tư
bản nhà nước, là một loại hình kinh tế hỗn hợp”.
Với cách tiếp cận và xác định thành phần kinh tế như trên, thì các thành phần
kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng
với nhau bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế quan hệ
12
tương hỗ với nhau, hợp táccạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh
tế đều vận động, phát triển trên nền tảng chung các nguồn lực (đất đai, vùng
biển, đảo, vùng trời các tài nguyên gắn với chúng; ngân sách nhà nước các
nguồn vốn khác Nhà nước huy động được, các quỹ dự trữ; các nguồn lực trí
tuệ...) thuộc sở hữu toàn dân Nhà nước được Nhân dân ủy quyền đại diện chủ
sở hữu, quản lý, sử dụng hiệu quả mục tiêu phát triển đất nước. Muốn sử dụng
các nguồn lực chung đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải thông
qua đấu giá công khai, minh bạch, hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế với Nhà
nước theo chế thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế cũng được sử dụng các sở kết cấu hạ tầng kinh tế - hội do Nhà nước
sử dụng nguồn lực chung thuộc sở hữu toàn dân, xây dựng để phục vụ chung cho
sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc; các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được sử dụng thị trường chung, đồng tiền chung, các dịch vụ công... của
Nhà nước. Nhà nước tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng, theo
cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực của hội vào phát triển kinh tế - hội của đất nước. vậy,
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho
các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và
thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tiếp cậnxác định các thành phần kinh tế như
trên cũng cho thấy vị trí, vai trò các thành phần kinh tế là tương đương nhau; nhưng
thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt,
thiết yếu; những địa bàn quan trọng quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực
doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư" , thì thành phần kinh tế
5
công giữ vị trí, vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - hội của đất nước.
DNNN phảiơn lên để hiệu quả sản xuất - kinh doanh tương xứng với lượng
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106
13
vốn các nguồn lực khác các DNNN đang nắm giữ; DNNN phấn đấu đi đầu
trong nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ mới, phấn đấu đạt năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao nhất.
“Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại, phát
triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế
quốc dân đều vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - hội của
đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế… Nhà
nước vớicách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt
Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc
sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành
phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung phát triển kinh tế - hội đất nước
nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên
CNXH. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai trò
quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây
dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ
quá độ lên CNXH nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong
đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế nhân
là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế nhân
là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng
nhau huy động sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực hội đóng góp vào sự phát
14
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
V.I.Lênin cũng so sánh: “Chủ nghĩa bản xấu so với chủ nghĩa hội. Chủ
nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan
liêu do tình trạng phân tán của những người sản xuất tạo nên. chúng ta chưa
điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa hội, bởi vậy trong
một mứcđộ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên
của nền tiểu sản xuất trao đổi; bởi vậy phải lợi dụng chủ nghĩa bản (nhất
bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung
gian giữa người tiểu sản xuất chủ nghĩa hội, làm phương tiện, con đường,
phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên” .
6
V.I.Lênin nhấn mạnh: có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân (chứ đừng nói
gì chủ nghĩa tư bản nhà nước nữa) để xúc tiến chủ nghĩa xã hội, để đóng vai trò trợ
thủ cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó không có gì là ngược đời.
Hơn nữa, một nước tiểu nông, "hễ trao đổi, thì sự phát triển của nền
kinh tế nhỏ một sự phát triển tiểu sản, một sự phát triển bản chủ nghĩa, đó
một chân không thể chối cãi được, một chân đẳng của kinh tế chính trị
học, đã được kinh nghiệm hàng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình
thường xác nhận" .
7
"Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự
trao đổi nhân, không phải quốc doanh, tức của thương mại, tức của chủ
nghĩa bản, một sự phát triển không thể tránh được khi hàng triệu người sản
xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng
nó. Dại dột về phương diện kinh tế, chính sách ấy không thể nào thực hiện
được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ
6
V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276
7
V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276
15
bị phá sản... Hoặc giả (chính sách cuối cùng thể áp dụng được duy nhất hợp
lý) không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩabản
tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước” .
8
II.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay trước yêu cầu phải tồn tại nhiều thành
phần kinh tế
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ,
luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta
hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất
còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu nhân (chế độ hữu) với nhiều hình
thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ,
của nhàbản (sở hữu tư nhânbản), của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu
hội (chế độ công hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu
nhà ớc, sở hữu tập thể…, đồng thời còn hình thức sở hữu hỗn hợp hình
thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó
sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.
Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành
phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:
Thành phần kinh tế công bao gồm “các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí,
vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước
(được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản vốn nhà nước tại
doanh nghiệp đầu vốn (cả vốn bằng hiện vật vốn bằng tiền) cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN
được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo chế thị trường.
Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
8
V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276
16
những địa bàn quan trọng quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.
Thành phần kinh tế tư nhân có chủ thể là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ
kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư
bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh thể
(hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang trại,
hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước
và tư bản ngoài nước), tập đoàn tư bản.
Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó chủ nghĩa bản nhà
nước theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp
tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trênsở liên kết các chủ sở hữu khác
nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công chủ thể kinh tế nhân trong nước;
giữa chủ thể kinh tế công chủ thể kinh tế nhân nước ngoài; giữa các chủ thể
kinh tế nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế nhân trong nước
chủ thể kinh tế nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết
sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất chuỗi giá
trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến
quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình
tổ chức sản xuất - kinh doanh thường công ty liên doanh, công ty hợp doanh,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại
hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu đủ
khả năng tham gia mạng sản xuất chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung
của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản
hữu hình hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự
đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện cùng lợi. Mỗi
chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động
hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng
17
góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn các tài sản từ các nguồn
khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh
tích lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các
tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra
Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác
xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài
sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể
đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những
người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản sản xuất - kinh doanh với kết
quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản
xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia
đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại
hình hợp tác cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa
trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất
hàng hóa nhỏ hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp.
V.I.Lênin coi hợp tác của những công nhân văn minh hợp tác XHCN (ở
nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này), còn hợp tác xã của những người sản xuất
nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu nhân về liệu sản xuất là một loại hình kinh tế hỗn
hợp...
Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu
hình hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở
hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. . Mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế đều phải hoạt động theo chế thị trường, bình đẳng cạnh tranh
theo pháp luật . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
18
| 1/25

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT TP.HCM NAM
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC -----🙞🙜🕮🙞🙜-----
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:Anh/chị hãy luận chứng cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực
tiễn ở nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thì nền
kinh tế nước ta phải tồn tại nhiều thành phần.
Nhóm sinh viên thực hiện
1. Đỗ Văn Nhật MSSV: 23146321
2. Nguyễn Xuân Nhi MSSV: 23146322
3. Phạm Hoàng Phú MSSV: 23146330
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY VÀ HƯỚNG DẪN THẠC SĨ TRẦN TIẾN PHÁT
TP.Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng ….. năm ….. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN...............................................2
1.1.Cơ sở lý luận.....................................................................................................2
1.1.1. Chủ nghĩa duy vật.........................................................................................2
1.1.2. Cơ sở học thuyết hình thái kinh tế - xã hội..................................................3
1.2.Phương pháp luận duy vật..............................................................................4
II. THỰC TIỄN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI THÌ NỀN KINH TẾ NƯỚC TA PHẢI TỒN TẠI NHIỀU
THÀNH PHẦN.........................................................................................................5
2.1.Thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 5
2.2.Thực tiễn Việt Nam hiện nay trước yêu cầu phải tồn tại nhiều thành phần
kinh tế....................................................................................................................15
KẾT LUẬN.............................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, đã
trải qua chiều dài lịch sử hơn 150 năm. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thời đại, giải quyết những vấn đề cấp
bách do thời đại đặt ra. Những thành tựu của nó trong thế kỷ XX là liên tục,
nghiêm túc trong việc phát triển và tìm ra những quy luật khách quan tác động vào
xã hội loài người trong vòng một trăm năm lịch sử. Nó có mặt ở tất cả các bước
ngoặt của thế kỷ nhằm chứng minh và làm sáng tỏ những vấn đề có tính quy luật
của đời sống xã hội. Nó cung cấp cho loài người những nhận thức đúng đắn, cách
nhìn thấu đáo, khách quan, trải qua kinh nghiệm thực tiễn.
Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn
đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính
trị của Đảng. Hiện nay, việc luận chứng cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực
tiễn ở nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế nước
ta phải tồn tại nhiều thành phần vô cùng cấp thiết. Do đó, nhóm sinh viên đã nghiên
cứu và thực hiện đề tài:
Anh/Chị hãy luận chứng cơ sở lý luận, phương pháp luận và thực tiễn ở
nước ta trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế nước ta
phải tồn tại nhiều thành phần” 1 NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
I.1. Cơ sở lý luận
I.1.1. Chủ nghĩa duy vật
“Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch
sử, bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật
khẳng định rằng vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính thứ hai;
bản chất của tồn tại này là vật chất cũng tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy
đến cùng, bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất”.
Trong quá trình phát triển và lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua
03 hình thức trình độ cơ bản khác nhau, đó là:
“Chủ nghĩa duy vật chất phác: Là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật chất phác xuất hiện và tồn tại cả ở phương
Đông và phương Tây. Điển hình của chủ nghĩa duy vật chất phác là các học thuyết
triết học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc (phương Đông) và Hy Lạp (Phương
Tây). Chủ nghĩa duy vật chất phác trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
chủ nghĩa duy vật giai đoạn này đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể;
lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể là
bản nguyên của thế giới. Do đó quan điểm nhận thức của nhà triết học duy vật thời
kỳ này mang nặng trực quan nên những kết luận của họ mang nặng tính cảm tính, ngây thơ”.
“Quan niệm của Talet cho rằng bản nguyên của thế giới cho rằng là nước, Hêraclit
cho rằng là lửa, Đêmôcrit cho rằng là không khí hay triết học trung quốc cho rằng
đó là ngũ hành: Kim, thủy, hỏa thổ. Dù còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật 2
về cơ bản là đúng vì lấy bản thân bản chất của giới tự nhiên để giải thích cho tự
nhiên chứ không viện đến thần linh hay Thượng Đế để giải thích”.
“Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học
thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu (tiêu
biểu là chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh và Pháp) đạt những thành tựu lớn và
ảnh hưởng đến triết học. Phương pháp tư duy siêu hình máy móc được coi trọng.
Đây là thời kì mà cơ học cổ điển thu được những thành tựư rực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy
móc của cơ học cổ điển”.
Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, thế giới giống như
một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập,
tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do
những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình tuy chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi
liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại
thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời
Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sau đó được Lênin
bổ sung bảo vệ và phát triển. Đây là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.
I.1.2. Cơ sở học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay
còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã 3
hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống
xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong
đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn
nhau, thống nhất với nhau.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng
nhất của chủ nghĩa duy vật về lịch sử; trong đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã
chỉ ra những quy luật vận động chung nhất của xã hội loài người. Vì vậy, đã có
nhiều nước chọn học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam. Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
Lực lượng sản xuất: Là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế -
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất
hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao: (i) Hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy); (ii) Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô
lệ (giai cấp chủ nô mang sứ mệnh lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông
nô; (iii) Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và 4
nông dân; (iv) Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri
thức, tiểu tư sản; (v) Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân). I.2.
Phương pháp luận duy vật
Phương pháp là một mạng lưới hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri
thức về những quy luật khách quan dùng để kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải
trí nhận thức và hoạt động giải trí thực tiễn nhằm mục đích thực thi tiềm năng đã xác lập .
Phương pháp luận là lý luận về chiêu thức, là mạng lưới hệ thống những
quan điểm, những nguyên tắc chỉ huy con người tìm tòi, kiến thiết xây dựng, lựa
chọn và vận dụng những giải pháp trong nhận thức và thực tiễn. Trong đó quan
trọng nhất là những nguyên tắc có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có công dụng
khuynh hướng việc xác lập phương hướng điều tra và nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng giải pháp.
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức,
phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả.
II. THỰC TIỄN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI THÌ NỀN KINH TẾ NƯỚC TA PHẢI TỒN TẠI NHIỀU THÀNH PHẦN
II.1. Thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
“Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: sự tồn tại của nhiều chế độ sở hữu, nhiều
hình thức sở hữu là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ "thành phần kinh tế". Có ý kiến
muốn thay thuật ngữ "thành phần kinh tế" bằng "khu vực kinh tế" hay "loại hình
kinh tế". Có ý kiến cho rằng: không dùng các thuật ngữ trên, mà gọi trực tiếp tên
của mỗi bộ phận của nền kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư 5
nhân... Điều quan trọng không phải là tên gọi, mà cần quan tâm xem mỗi bộ phận
và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân vận động, phát triển và
đóng góp như thế nào vào sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có việc giải
phóng, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển chung của đất nước”.
Theo Lênin, thuật ngữ thành phần kinh tế hàm nghĩa quan hệ sản xuất (trong đó cơ
bản là quan hệ sở hữu) ứng với một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định
đại diện cho một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nhưng chưa bị xóa bỏ, hoặc
đang trong quá trình phát triển để trở thành phương thức sản xuất thống trị (với
nghĩa phổ biến). Việc xác định thành phần kinh tế là để có chính sách đúng đắn đối với chúng.
“Trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, nên
còn nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Vì vậy còn nhiều
thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Việc phân định các
thành phần kinh tế mới hiểu được các đặc trưng cơ bản và xu hướng vận động của
chúng để có chính sách phù hợp nhằm phát huy được tiềm lực của chúng vào phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Khi phân định thành phần kinh tế V.I.Lênin nhấn
mạnh hai điểm: phải phản ánh đúng tình hình thực tế và nêu rõ mối quan hệ giữa
các thành phần kinh tế”.
Tiêu thức chủ yếu làm cơ sở cho việc phân định các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:
(i) Quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu phải phù hợp, gắn với trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh
tế phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
(ii) Cơ cấu các thành phần kinh tế phải phản ánh đúng tình hình thực tế của
nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể. 6
(iii) Sự phát triển của các thành phần kinh tế có mối liên hệ tất yếu khách
quan theo một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất từ
thấp lên cao và theo định hướng XHCN.
Khi xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta cần phải xét tới "tính tương đương", "đồng đẳng" giữa các
thành phần kinh tế thì mới phù hợp với chủ trương: "các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh"1 . Như vậy, “phải coi các thành phần kinh tế là
những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất đều có vai trò quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương
hỗ với nhau, bình đẳng với nhau, không nên đặt cho một bộ phận này có vai trò
quan trọng hơn bộ phận khác. Với ý nghĩa đó, cần phân chia "thành phần kinh tế
nhà nước" hiện nay thành hai cấu phần: phi doanh nghiệp và doanh nghiệp. Phần
phi doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân mà
Nhà nước được nhân dân giao quyền đại diện chủ sở hữu thì không thuộc thành
phần kinh tế nào cả. Toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân này thì
Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước
quản lý bằng pháp luật và sử dụng hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện vật chất -
kỹ thuật, điều kiện tài chính..., tạo ra môi trường kinh tế - xã hội chung để các
thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng. Nhà nước không thuộc thành phần
kinh tế nào cả, Nhà nước được Nhân dân ủy quyền, giao quyền thống nhất quản lý,
sử dụng có hiệu quả các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (như đất đai và các tài
nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo,
vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83 7
vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...). Các tài sản thuộc sở
hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì
phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ
quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế. Nhà nước thay mặt Nhân dân quản lý, sử dụng những tài sản thuộc sở
hữu toàn dân, tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển của
các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng,
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế để các thành phần kinh
tế phát triển. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc
trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo môi trường
pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công,
hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà
nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước
với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế giữ vai
trò quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân. Như vậy
"thành phần kinh tế nhà nước" chỉ còn lại phần doanh nghiệp nhà nước. Có thể giữ
nguyên tên là thành phần kinh tế nhà nước, nhưng chỉ bao gồm các doanh nghiệp
nhà nước, hay để cho không lầm lẫn với thành phần kinh tế nhà nước theo quan
niệm hiện nay (bao gồm cả hai cấu phần phi doanh nghiệp và doanh nghiệp), thì có
thể gọi là thành phần kinh tế công (chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước).
Thành phần kinh tế công này mới "tương đương", mới "đồng đẳng" với các thành
phần kinh tế khác. Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài
sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các
chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. Có như vậy thì thành phần kinh 8
tế công mới thực sự bình đẳng, tương đồng với các thành phần kinh tế khác. "Mọi
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị
trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"2. Thực hiện nhất quán một chế độ
pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”.
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam còn tồn tại cả
chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu), cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu)
và hình thức sở hữu hỗn hợp, thì nên phân chia nền kinh tế nước ta thành ba thành
phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:
“Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí,
vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước
(được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN
được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường.
Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo
cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN,
mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất
những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân
sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105 9
nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh
doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản
trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ
chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã
hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...”
Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ
thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá
thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các
loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể (hộ nông dân,
hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang trại, hộ tiểu chủ,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản
ngoài nước), tập đoàn tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo
thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh
tế..."3. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập
đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của
thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa4. Ngày
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108
4 Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm
(khóa XII) đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế tư nhân lành
mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài….; là một
phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển”; “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế….
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với
tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP”;
“Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành
mạnh và đúng định hướng”; “Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo…” (Tài liệu nghiên
cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73) 10
nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp
không cần quy mô lớn vẫn có thể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời,
với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo...
có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm,
mà không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm. Những thay đổi đó làm
cho tính tất yếu chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu xã hội để đáp ứng nhu cầu
quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất có tính xã hội đã trở nên yếu đi, không còn thực
sự cấp bách. Nói cách khác, có thể có nhiều cách hợp tác sản xuất giữa những con
người với nhau trong xã hội mà không cần sở hữu chung với vai trò trung gian của
Nhà nước. Ngoài ra, việc sở hữu chung dưới hình thái sở hữu nhà nước khi nguồn
lực và của cải còn khan hiếm so với nhu cầu sẽ có thể dẫn tới sử dụng tài sản chung
một cách lãng phí hoặc bị công chức nhà nước lạm dụng, tham nhũng vì lợi ích riêng của họ.
Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà
nước theo cách gọi của V.I.Lênin) “bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các
hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu
khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong
nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các
chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong
nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức
liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và
chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ
tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu
thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty
hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở
lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở
hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. 11
Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở
hữu gồm tài sản hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được
hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và
cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp
này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ
tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ
các nguồn khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh
doanh tích lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế
này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động
và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh
nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử
dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích
cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc
trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất -
kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại
hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc
gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy
mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các
hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của
những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh
doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác
xã XHCN (ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này), còn hợp tác xã của những
người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ nghĩa tư
bản nhà nước, là một loại hình kinh tế hỗn hợp”.
Với cách tiếp cận và xác định thành phần kinh tế như trên, thì các thành phần
kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng
với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ 12
tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh
tế đều vận động, phát triển trên nền tảng chung là các nguồn lực (đất đai, vùng
biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với chúng; ngân sách nhà nước và các
nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các quỹ dự trữ; các nguồn lực trí
tuệ...) thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được Nhân dân ủy quyền đại diện chủ
sở hữu, quản lý, sử dụng hiệu quả vì mục tiêu phát triển đất nước. Muốn sử dụng
các nguồn lực chung đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải thông
qua đấu giá công khai, minh bạch, hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế với Nhà
nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế cũng được sử dụng các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do Nhà nước
sử dụng nguồn lực chung thuộc sở hữu toàn dân, xây dựng để phục vụ chung cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được sử dụng thị trường chung, đồng tiền chung, các dịch vụ công... của
Nhà nước. Nhà nước tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng, theo
cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy,
mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho
các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và
thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tiếp cận và xác định các thành phần kinh tế như
trên cũng cho thấy vị trí, vai trò các thành phần kinh tế là tương đương nhau; nhưng
thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt,
thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà
doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư"5 , thì thành phần kinh tế
công giữ vị trí, vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
DNNN phải vươn lên để có hiệu quả sản xuất - kinh doanh tương xứng với lượng
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106 13
vốn và các nguồn lực khác mà các DNNN đang nắm giữ; DNNN phấn đấu đi đầu
trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới, phấn đấu đạt năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao nhất.
“Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại, phát
triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là
một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế
quốc dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế… Nhà
nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt
Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc
sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành
phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước
nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên
CNXH. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai trò
quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ
quá độ lên CNXH có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong
đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân
là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng
nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát 14
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
V.I.Lênin cũng so sánh: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan
liêu do tình trạng phân tán của những người sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy trong
một mứcđộ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên
của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là
bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung
gian giữa người tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường,
phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”6.
V.I.Lênin nhấn mạnh: có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân (chứ đừng nói
gì chủ nghĩa tư bản nhà nước nữa) để xúc tiến chủ nghĩa xã hội, để đóng vai trò trợ
thủ cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó không có gì là ngược đời.
Hơn nữa, ở một nước tiểu nông, "hễ có trao đổi, thì sự phát triển của nền
kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa, đó
là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị
học, đã được kinh nghiệm hàng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình thường xác nhận"7.
"Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự
trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ
nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản
xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng
nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện
được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ
6 V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276
7 V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276 15
bị phá sản... Hoặc giả (chính sách cuối cùng có thể áp dụng được và duy nhất hợp
lý) không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà
tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước”8.
II.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay trước yêu cầu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ,
luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà
còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình
thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ,
của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu
xã hội (chế độ công hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời còn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình
thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ
sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.
Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành
phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:
Thành phần kinh tế công bao gồm “các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí,
vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước
(được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN
được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường.
Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
8 V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276 16
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.
Thành phần kinh tế tư nhân có chủ thể là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ
kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư
bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể
(hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang trại,
hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước
và tư bản ngoài nước), tập đoàn tư bản.
Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà
nước theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp
tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác
nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước;
giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể
kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và
chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết
sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá
trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và
quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình
tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại
hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu có đủ
khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung
của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản
hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự
đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi
chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động
có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng 17
góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ các nguồn
khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh
tích lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các
tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra
Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác
xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài
sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và
đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những
người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết
quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản
xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia
đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại
hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa
trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất
hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp.
V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác xã XHCN (ở
nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này), còn hợp tác xã của những người sản xuất
nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một loại hình kinh tế hỗn hợp...
Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu
hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở
hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. . Mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh
theo pháp luật . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. 18