Anh, chị hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Anh, chị hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45469857
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................................................ 3
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩaxã hội ở Việt Nam .................................................................................................................... 3
II. Giá trị của quan điểm đối với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay ...................................................................................................................................................... 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. “Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, phát triển kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”
<h 琀琀 ps://kinhtevadubao.vn/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-phat-trien-kinh-te-trong-
boi canh-hien-nay-cua-viet-nam-12550.htm l>
3. Hồ Chí Minh đã “Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên
Xô. nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa hội
(cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”
<h 琀琀 p://philosophy.vass.gov.vn/triet-hoc-mac-lenin/Quan-niem-cua-Chu-琀椀 ch-Ho-Chi-
Minh-veco-cau-kinh-te-nhieu-thanh-phan-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-Viet-
Nam26.0.html>
lOMoARcPSD| 45469857
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
Con đường n chủ nghĩa hội Việt Nam thể khác với Liên Xô. Người viết: “Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa hội (cộng sản) như Liên Xô. nước thì phải kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa hội (cộng sản) - như các nước Đông
Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”. Theo cách hiểu của chúng tôi, “chế độ dân chmới“
thể giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thơi kỳ quá đđi lên chủ nghĩa
hội” ta đang dùng hiện nay. Đáng tiếc là, trong khi còn chưa hội đủ những điều kiện
cần thiết, nhất về phương diện sức sản xuất của xã hội, các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam… đã nôn nóng, vội vã kết thúc sớm thời kỳ “dân chủ mới“ để nhanh chóng trở
thành những nước xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và phát triển.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chnghĩa hội nhằm
giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của đất nước được coi như một sự sáng
tạo, một nhân tố mới trong công cuộc đổi mới nước ta. Thực ra, vấn đề này đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, đề cập vận dụng từ rất sớm. thực sự một bộ
phận quan trọng không thể tách rời của một chỉnh thể thống nhất những tư tưởng kinh tế
của Người.
lOMoARcPSD| 45469857
3
NỘI DUNG
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cần phải trải qua giai đoạn dân chủ mới, bởi
“… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa”.
Chính điểm xuất phát thấp này đã qui định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế – xã hội
và sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế khác nhau. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận
chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại thành
một chỉnh thể kinh tế hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan vai trò nhất
định đối với sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát triển chúng
theo định hướng hội chủ nghĩa. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, năm
loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tứclà
nửa chủ nghĩa xã hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của nhà nước (…).
Trong năm loại ấy, loại A kinh tế lãnh đạo phát triển mau hơn cả, cho n
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa hội chứ không theo hướng chủ nghĩa
bản”.
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá độ. Do
đó, chúng ta cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất của
xã hội, mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần những ưu tiên đúng mức đối với thành
phần kinh tế quốc doanh để nó phát triển và trở thành thành phần kinh tế chủ đạo, đủ sức
hướng dẫn các thành phần kinh tế khác vận động phát triển theo định hướng hội
chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh cũng nằm trong quá trình vận động theo các tầng nấc từ
thấp đến cao, tương ng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qui hội
hóa của nền sản xuất xã hội.
Trong rất nhiều bài viết, bài nói của mình, Chtịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
đến việc thành lập các tổ chức hợp tác xã từ trình độ thấp đến trình độ cao. Người coi đây
cách thức tổ chức thích hợp với điềâu kiện một nước lực lượng lao động hội
phần lớn là nông dân và hoạt động kinh tế chủ yếâu là sản xuất nông nghiệp như nước ta.
lOMoARcPSD| 45469857
4
Người đã nhấn mạnh rằng: Tất cả đường lối, phương châm chính sách của Đảng đều nhằm
nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích
đó thì nhất định phải củng cố phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải không ngừng nâng
cao thu nhập của xã viên.
Nói về vai trò mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:
1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh công. Nó là nền tảng sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới(…).
những nhà bản dân tộc kinh tế nhân của nông dân thủ công nghệ. Đó
cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần
giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm
họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời,
vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá
mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” .
Từ sau năm 1945, đặc biệt trong thời kỳ khôi phục kinh tế miền Bắc, những
tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng vào thực tiễn một cách
nhuần nhuyễn sáng tạo. thể nói, trong suốt giai đoạn từ năm 1955 đến 1960, miền
Bắc thực sự bước vào “thời kỳ vàng son“ của quá trình khôi phục và phát triển kinh tế.
Những thành tựu kinh tế thu được trong thời kỳ đó toàn diện vững chắc; chất lượng,
tốc độ năng suất lao động đều vượt xa so với trước chiến tranh (năm 1939) mấy
thập kỷ sau đó. Đó chính thắng lợi của đường lối phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. trở thành nguồn động lực to lớn
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân, tạo cơ sở vật chất làm nền tảng cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau thời kỳ khôi phục cải tạo hội chủ nghĩa, cuối tháng 12-1959, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Điều
cần lưu ý là, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa hội trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt: đất nước còn đang chiến tranh, ảnh hưởng của chủ
nghĩa giáo điều khá mạnh khi hâu hết các nước thuộc hệ thống hội chủ nghĩa đều áp
dụng nguyên bản hình xây dựng chủ nghĩa hội kiểu Liên Xô… Trong điều kiện
phức tạp như vậy, để bảo đảm xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ động và sáng suốt vạch ra một đường lối phát triển kinh tế độc đáo,
sáng tạo phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Người chỉ rõ: “Trong ớc ta
hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
lOMoARcPSD| 45469857
5
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta xóa bỏ các hình thức không hội chủ nghĩa, làm cho
nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể “.
Đối với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các nh thức sở hữu, giữa các
thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, “Chúng ta phải
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Hợp tác hóa nông nghiệp khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo hội chủ nghĩa
ởmiền Bắc. Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp nước ta, cần phải
trải qua hình thức tổ đổi công hợp tác sản xuất nông nghiệp. Đó việc rất cần
thiết(…).
- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộä quyềnsở
hữu về liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tưliệu
sản xuất của cải khác của họ; ra sức ớng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà ớc. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa hội bằng nh thức công hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác” .
Ở đây, Hồ Chí Minh đã thấy rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan và
vẫn tác dụng quan trọng đối với sản xuất. Song, cũng do hoàn cảnh khách quan quy
định, việc cải tạo các thành phần kinh tế phi hội chủ nghĩa, đưa người lao động vào
con đường làm ăn tập thể nhằm xóa bỏ lối sản xuất manh mún, ít hiệu quả và xóa bỏ mọi
hình thức bóc lột đối với người lao động... cần phải được tiến hành từng bước. Theo quan
điểm của Người, việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó không thể tiến hành một cách
nóng vội, phải tuân thủ các nguyên tắc: từng bước, vững chắc hoàn toàn tự nguyện;
phải quán triệt phương châm cải tạo để sử dụng sử dụng để cải tạo. Bất cứ một hình
thức tổ chức sản xuất nào cũng phải ớng đến mục tiêu cao nhất phát triển sản xuất,
góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, bảo đảm lợi ích của các
thành phần kinh tế cũng như của người lao động. Đặc biệt, các thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể cần phải chứng tỏ bằng thực tế sự ưu việt, tính hơn hẳn của mình so với
lOMoARcPSD| 45469857
6
nền kinh tế cá thể. Sự chỉ đạo có tính nguyên tắc đó đã thể hiện duy kinh tế sắc bén của
Người.
Khi nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới 2 vấn đề lớn là: Vai trò của các ngành trong cơ cấu kinh tế và mối
quan hệ cân đối giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Về vai trò của các ngành trong cơ cấu kinh tế
Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế chủ yếu nông nghiệp, công nghiệp, các ngành
dịch vụ chưa phát triển. Khi xét về các ngành kinh tế, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới
ba ngành: nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp
Một là: Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế
Theo Hồ CMinh, đây ngành vai trò đặc biệt quan trọng sở để phát
triển các ngành khác.
Hồ Chí Minh viết: “Nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế, mà sản xuất nhỏ
lại chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp, vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực
nguyên liệu đồng thời một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn thị trường tiêu
thụ to nhất hiện nay cho nên, cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới cơ sở
để phát triển các ngành kinh tế khác”
1
Sở dĩ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp bởi đất nước Việt
Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, người dân đa số là nông dân, đời sống gặp nhiều khó
khăn, nên vấn đề lương thực, thực phẩm hết sức quan trọng, vậy chỉ phát triển
nông nghiệp mới đảm bảo cung cấp lương thực cho toàn xã hội.
Người viết: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, nhiệm
vụ quan trọng nhất của chúng ta hiện nay phát triển sản xuất. Tất cả mọi ngườicông,
nông, trí thức tất cả cán bộ viên chức mọi cấp, mọi ngành đều phải góp sức làm
cho sản xuất phát triển. chúng ta phải làm cho nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh
mẽ và vững chắc, phải đảm bảo cho lương thực được dồi dào”
2
Ngoài vai trò cung cấp lương thực cho toàn hội, nông nghiệp n vai trò
sở để phát triển ng nghiệp, nguồn cung cấp lao động cho công nghiệp một
nguồn xuất khẩu quan trọng tạo nguồn vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá. Do đó, Phải
cải tạo phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà,
phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển ”
3
lOMoARcPSD| 45469857
7
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nhận thấy nếu chỉ phát triển nông nghiệp thì không đem lại
đời sống no ấm, bền vững cho nhân dân. Do vậy, Người cũng đặc biệt coi trọng phát triển
ngành công nghiệp.
Hai là: Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế
Theo HCMinh, trong thời kquá độ nhiệm vụ trung m, xuyên suốt đó công
nghiệp hoá để thực hiện nhiệm vụ này chỉ ngành công nghiệp mới thể đáp ứng
được. Người viết:
Đời sống của nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường.
Muốn nhiều máy thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy móc, ra
gang, thép, than, dầu... Đó con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp
hoá nước nhà”
4
Vậy, phát triển công nghiệp không chỉ giúp hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm của cả
thời kỳ quá độ mà phát triển công nghiệp còn là nhiệm vụ đối với cả ngành nông nghiệp
đó công nghiệp mang lại liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng cần thiết cho nhân dân; công
nghiệp cung cấp máy móc thiết bị vật cho nông nghiệp; công nghiệp còn yếu tố quyết
định năng suất lao động trong nông nghiệp, đưa nông nghiệp n sản xuất lớn. Do đó,
công nghiệp phát triển kéo theo nông nghiệp cũng phát triển.
Ba là: Vai trò của ngành thương nghiệp trong nền kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, cơ cấu ngành kinh tế phát triển nếu không chỉ có ngành nông nghiệp
công nghiệp cũng cần một ngành không kém phần quan trọng đó ngành
thương nghiệp. Thương nghiệp vai trò cầu nối giữa công nghiệp nông nghiệp,
giữa sản xuất tiêu dùng, giữa nông thôn thành thị, giữa công nhân với nông dân. Tất
cả sản phẩm của ngành nông nghiệp công nghiệp nhờ thương nghiệp mới thể
cung cấp tới nhân dân và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hồ Chí Minh coi nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp là ba mặt quan trọng trong
nền kinh tế, nhưng nếu khâu thương nghiệp bđứt thì không nối được công nghiệp với
nông nghiệp; không gắn được sản xuất với tiêu dùng như vậy sẽ làm cho nền kinh tế
không phát triển, trì trệ.
lOMoARcPSD| 45469857
8
Thứ hai: Về mối quan hệ cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế
Theo Hồ chí Minh, ba ngành nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp không phát
triển riêng rẽ, độc lập còn luôn mối quan hệ gắn chặt chẽ, đan xen, nương tựa
vào nhau trong nền kinh tế.
Về mối quan hệ cân đối trong phát triển nông nghiệp và công nghiệp
Ở nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Tiến lên chủ nghĩa hội phải đi bằng hai chân: công nghiệp nông nghiệp. Công
nghiệp của ta đã tiến bộ, nếu nông nghiệp không tiến bộ hoặc cứ cầm chừng thì như
què, vì vậy, phải cố gắng mà đưa nông nghiệp tiến lên”
6
Phát triển công nghiệp nông nghiệp phải trong sự vận động của tổng thể các
ngành và các ngành khác cũng phải hướng vào công nghiệp và nông nghiệp để sản xuất
phục vụ tốt nhất cho nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Phải lấy nông nghiệp làm chính
nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân
hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế... các nhành y phải lấy phục vụ
nông nghiệp làm trọng tâm”
7
Có thể thấy, tưởng Hồ Chí Minh về cấu ngành kinh tế cho thấy những quan
điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện Người có một tầm nhìn kinh tế rất toàn diện, có
nhiều quan điểm đúng đắn phù hợp với nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
II. Giá trị của quan điểm đối với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta hiện nay
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu
ngành kinh tế là một căn cứ lý luận để Đảng ta vận dụng trong điều hành nền kinh tế đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội Việt Nam một kinh nghiệp quý báu để Đảng Nhà nước ta vận
dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới kinh tế hiện nay.
Trong thực tiễn, vận dụng tưởng của Người nền kinh tế Việt Nam đang trên đà
khởi sắc đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần nâng cao đời sống nhân dân,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ lên CNXH của Hồ Chí Minh không
chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ, mà còn được bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới; qua đó, tiếp
lOMoARcPSD| 45469857
9
tục khẳng định và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành 3
nghị quyết về kinh tế, trong đó có nghị quyết về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN". Đây là điều
kiện thuận lợi để thành phần kinh tế tư nhân phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, đóng góp
nhiều hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi
dậy tiềm năng của đất nước được xem là sự sáng tạo, là một trong những nhân tố mới
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
phát hiện, đề cập trong các tác phẩm, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát
triển đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, dự báo xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, yêu cầu đặt ra phải nhanh chóng nắm bắt, thích
ứng với nguyên tắc, quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Việc đẩy
nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế theo nguyên tắc
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc
huy động, phân bổ sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với chế thị trường, phát triển
đất nước. Hoạch định các chế, chính sách kinh tế cần chú trọng kết hợp giữa phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ công bằng hội, tạo hội cho người dân tham gia
nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt đông của Nhà nước cho phù hợp
hơn với yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Vận dụng ởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong tình hình mới, một mặt
cần nghiên cứu, rút ra bài học từ luận thực tiễn của công cuộc đổi mới, để điều chỉnh,
bổ sung, từng bước hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong đó, cần nhanh chóng tập trung xây dựng hệ tiêu chí cụ thể trên từng lĩnh vực của
nền kinh tế, như: tiêu chí về sở hữu, về các thành phần kinh tế; tiêu chí về tổ chức quản
lý, điều tiết nền kinh tế; tiêu chí về chế huy động, phân phối nguồn lực phân phối
kết quả hoạt động kinh tế; tiêu cvề các yếu tố thị trường, c loại thị trường; tiêu chí
về các yếu tố bảo đảm định hướng hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường; tiêu chí
về hội nhập kinh tế quốc tế. Cần chú ý những tiêu chí cụ thể về mức độ can thiệp của Nhà
nước vào nền kinh tế; tự do hóa thương mại và gia nhập thị trường; về bảo đảm tính minh
bạch, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, mức độ tự do kinh tế, môi trường kinh
doanh và hoạt động của các doanh nghiệp.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, với vai trò “Đảng là người lãnh đạo”, là linh hồn
của công cuộc đổi mới, để xứng đáng Đảng cầm quyền, phải chú trọng công tác xây
lOMoARcPSD| 45469857
10
dựng Đảng, trong đó trọng tâm là xây dựng Đảng về đạo đức; tăng cường đấu tranh chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, chống lợi ích nhóm, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân,
tức chống “giặc nội xâm”; tăng cường biện pháp, chế kiểm soát quyền lực
trong Đảng trong hthống bộ máy công quyền. Cần tiếp tục đổi mới ng tác kiểm
tra, kiểm soát, song song với việc giám sát thực thi điều lệ các quy định của Đảng;
tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong quản lý xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, phát triển kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng hội. Thực hiện lời dạy của Người, mỗi tổ chức Đảng,
mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục phát huy trí tuệ, sức lực tinh thần phục vụ nhân
dân, thể hiện trên từng vị trí công tác của mình, đoàn kết chặt chẽ, triển khai thực hiện
sáng tạo, hiệu quả chtrương, đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà
nước; tích cực tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong nội bộ Đảng. Cán
bộ lãnh đạo, người đứng đầu, bằng việc nêu gương, trước hết là nêu gương về tu dưỡng,
rèn luyện phẩm chất đạo đức, gương mẫu đi đầu trong công việc; hoàn thành nhiệm vụ,
nói đi đôi với làm, thường xuyên học tập nâng cao trình độ bản thân; kiên quyết chống
các biểu hiện của chủ nghĩa nhân, tích cực tham gia đấu tranh chống các biểu hiện tiêu
cực, chống tham ô, tham nhũng... củng cố niềm tin giữa Đảng với dân.
Đó sở để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa: “Đảng
ta một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công tư”; thiết thực góp phần: “...xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh”, theo di
nguyện của Người.
lOMoARcPSD| 45469857
11
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội Việt Nam một kinh nghiệp quý báu để Đảng Nhà nước ta vận
dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới kinh tế hiện nay.
Trong thực tiễn, vận dụng tưởng của Người nền kinh tế Việt Nam đang trên đà
khởi sắc đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần nâng cao đời sống nhân dân,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngày nay, nhìn lại những thành tựu to lớn, toàn diện Đảng nhân dân ta đã
giành được, chúng ta càng nhớ đến công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và càng tin
tưởng sâu sắc vào thắng lợi của con đường cách mạng mà Người đã vạch ra cho dân tộc.
Người không chỉ nhà yêu nước đại, người anh hùng giải phóng dân tộc, một nhà hiền
triết, một danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà kinh tế học xuất sắc.
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................................................ 3
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩaxã hội ở Việt Nam .................................................................................................................... 3
II. Giá trị của quan điểm đối với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay ...................................................................................................................................................... 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. “Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, phát triển kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”
boi canh-hien-nay-cua-viet-nam-12550.htm l>
3. Hồ Chí Minh đã “Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên
Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội
(cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”
Minh-veco-cau-kinh-te-nhieu-thanh-phan-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-Viet- Nam26.0.html> lOMoAR cPSD| 45469857 LỜI MỞ ĐẦU
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể khác với Liên Xô. Người viết: “Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông
Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”. Theo cách hiểu của chúng tôi, “chế độ dân chủ mới“
có thể là giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thơi kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội” mà ta đang dùng hiện nay. Đáng tiếc là, trong khi còn chưa hội đủ những điều kiện
cần thiết, nhất là về phương diện sức sản xuất của xã hội, các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam… đã nôn nóng, vội vã kết thúc sớm thời kỳ “dân chủ mới“ để nhanh chóng trở
thành những nước xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và phát triển.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm
giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của đất nước được coi như một sự sáng
tạo, một nhân tố mới trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Thực ra, vấn đề này đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, đề cập và vận dụng từ rất sớm. Nó thực sự là một bộ
phận quan trọng không thể tách rời của một chỉnh thể thống nhất những tư tưởng kinh tế của Người. 2 lOMoAR cPSD| 45469857 NỘI DUNG
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cần phải trải qua giai đoạn dân chủ mới, bởi vì
“… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Chính điểm xuất phát thấp này đã qui định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế – xã hội
và sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế khác nhau. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận
và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố kết lại thành
một chỉnh thể kinh tế – xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan và có vai trò nhất
định đối với sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát triển chúng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm
loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tứclà
nửa chủ nghĩa xã hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của nhà nước (…).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá độ. Do
đó, chúng ta cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất của
xã hội, mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần có những ưu tiên đúng mức đối với thành
phần kinh tế quốc doanh để nó phát triển và trở thành thành phần kinh tế chủ đạo, đủ sức
hướng dẫn các thành phần kinh tế khác vận động và phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh cũng nằm trong quá trình vận động theo các tầng nấc từ
thấp đến cao, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và qui mô xã hội
hóa của nền sản xuất xã hội.
Trong rất nhiều bài viết, bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
đến việc thành lập các tổ chức hợp tác xã từ trình độ thấp đến trình độ cao. Người coi đây
là cách thức tổ chức thích hợp với điềâu kiện một nước mà lực lượng lao động xã hội
phần lớn là nông dân và hoạt động kinh tế chủ yếâu là sản xuất nông nghiệp như nước ta. 3 lOMoAR cPSD| 45469857
Người đã nhấn mạnh rằng: Tất cả đường lối, phương châm chính sách của Đảng đều nhằm
nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích
đó thì nhất định phải củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải không ngừng nâng
cao thu nhập của xã viên.
Nói về vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều: 1.
Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của
kinh tế dân chủ mới(…).
là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó
cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần
giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân. 2.
Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm
họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân. Đồng thời,
vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” .
Từ sau năm 1945, đặc biệt là trong thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc, những
tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng vào thực tiễn một cách
nhuần nhuyễn và sáng tạo. Có thể nói, trong suốt giai đoạn từ năm 1955 đến 1960, miền
Bắc thực sự bước vào “thời kỳ vàng son“ của quá trình khôi phục và phát triển kinh tế.
Những thành tựu kinh tế thu được trong thời kỳ đó là toàn diện và vững chắc; chất lượng,
tốc độ và năng suất lao động đều vượt xa so với trước chiến tranh (năm 1939) và mấy
thập kỷ sau đó. Đó chính là thắng lợi của đường lối phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nó trở thành nguồn động lực to lớn
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân, tạo cơ sở vật chất làm nền tảng cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau thời kỳ khôi phục và cải tạo xã hội chủ nghĩa, cuối tháng 12-1959, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Điều
cần lưu ý là, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt: đất nước còn đang có chiến tranh, ảnh hưởng của chủ
nghĩa giáo điều khá mạnh khi hâu hết các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa đều áp
dụng nguyên bản mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô… Trong điều kiện
phức tạp như vậy, để bảo đảm xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ động và sáng suốt vạch ra một đường lối phát triển kinh tế độc đáo,
sáng tạo và phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Người chỉ rõ: “Trong nước ta
hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: 4 lOMoAR cPSD| 45469857
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức không xã hội chủ nghĩa, làm cho
nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể “.
Đối với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu, giữa các
thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, “Chúng ta phải
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
ởmiền Bắc. Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải
trải qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết(…).
- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộä quyềnsở
hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tưliệu
sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác” .
Ở đây, Hồ Chí Minh đã thấy rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan và
vẫn có tác dụng quan trọng đối với sản xuất. Song, cũng do hoàn cảnh khách quan quy
định, việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đưa người lao động vào
con đường làm ăn tập thể nhằm xóa bỏ lối sản xuất manh mún, ít hiệu quả và xóa bỏ mọi
hình thức bóc lột đối với người lao động... cần phải được tiến hành từng bước. Theo quan
điểm của Người, việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó không thể tiến hành một cách
nóng vội, mà phải tuân thủ các nguyên tắc: từng bước, vững chắc và hoàn toàn tự nguyện;
phải quán triệt phương châm cải tạo để sử dụng và sử dụng để cải tạo. Bất cứ một hình
thức tổ chức sản xuất nào cũng phải hướng đến mục tiêu cao nhất là phát triển sản xuất,
góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm lợi ích của các
thành phần kinh tế cũng như của người lao động. Đặc biệt, các thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể cần phải chứng tỏ bằng thực tế sự ưu việt, tính hơn hẳn của mình so với 5 lOMoAR cPSD| 45469857
nền kinh tế cá thể. Sự chỉ đạo có tính nguyên tắc đó đã thể hiện tư duy kinh tế sắc bén của Người.
Khi nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới 2 vấn đề lớn là: Vai trò của các ngành trong cơ cấu kinh tế và mối
quan hệ cân đối giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Về vai trò của các ngành trong cơ cấu kinh tế
Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, công nghiệp, các ngành
dịch vụ chưa phát triển. Khi xét về các ngành kinh tế, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới
ba ngành: nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp
Một là: Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, đây là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng và là cơ sở để phát triển các ngành khác.
Hồ Chí Minh viết: “Nông nghiệp chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế, mà sản xuất nhỏ
lại chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp, vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực
và nguyên liệu đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu
thụ to nhất hiện nay cho nên, cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở
để phát triển các ngành kinh tế khác”1

Sở dĩ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp bởi đất nước Việt
Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, người dân đa số là nông dân, đời sống gặp nhiều khó
khăn, nên vấn đề lương thực, thực phẩm là hết sức quan trọng, vì vậy chỉ có phát triển
nông nghiệp mới đảm bảo cung cấp lương thực cho toàn xã hội.
Người viết: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, nhiệm
vụ quan trọng nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất. Tất cả mọi ngườicông,
nông, trí thức và tất cả cán bộ và viên chức mọi cấp, mọi ngành đều phải góp sức làm
cho sản xuất phát triển. chúng ta phải làm cho nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh
mẽ và vững chắc, phải đảm bảo cho lương thực được dồi dào”2

Ngoài vai trò cung cấp lương thực cho toàn xã hội, nông nghiệp còn có vai trò là
cơ sở để phát triển công nghiệp, là nguồn cung cấp lao động cho công nghiệp và là một
nguồn xuất khẩu quan trọng tạo nguồn vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá. Do đó, “Phải
cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà,
phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển ”3
6 lOMoAR cPSD| 45469857
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nhận thấy nếu chỉ phát triển nông nghiệp thì không đem lại
đời sống no ấm, bền vững cho nhân dân. Do vậy, Người cũng đặc biệt coi trọng phát triển ngành công nghiệp.
Hai là: Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt đó là công
nghiệp hoá và để thực hiện nhiệm vụ này chỉ có ngành công nghiệp mới có thể đáp ứng được. Người viết:
Đời sống của nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường.

Muốn có nhiều máy thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy móc, ra
gang, thép, than, dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hoá nước nhà”4
Vậy, phát triển công nghiệp không chỉ giúp hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm của cả
thời kỳ quá độ mà phát triển công nghiệp còn là nhiệm vụ đối với cả ngành nông nghiệp
đó là công nghiệp mang lại tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng cần thiết cho nhân dân; công
nghiệp cung cấp máy móc thiết bị vật tư cho nông nghiệp; công nghiệp còn là yếu tố quyết
định năng suất lao động trong nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn. Do đó,
công nghiệp phát triển kéo theo nông nghiệp cũng phát triển.
Ba là: Vai trò của ngành thương nghiệp trong nền kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, cơ cấu ngành kinh tế phát triển nếu không chỉ có ngành nông nghiệp
và công nghiệp mà cũng cần có một ngành không kém phần quan trọng đó là ngành
thương nghiệp. Thương nghiệp có vai trò là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp,
giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa nông thôn và thành thị, giữa công nhân với nông dân. Tất
cả sản phẩm của ngành nông nghiệp và công nghiệp nhờ có thương nghiệp mới có thể
cung cấp tới nhân dân và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hồ Chí Minh coi nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp là ba mặt quan trọng trong
nền kinh tế, nhưng nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không nối được công nghiệp với
nông nghiệp; không gắn được sản xuất với tiêu dùng và như vậy sẽ làm cho nền kinh tế
không phát triển, trì trệ. 7 lOMoAR cPSD| 45469857
Thứ hai: Về mối quan hệ cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế
Theo Hồ chí Minh, ba ngành nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp không phát
triển riêng rẽ, độc lập mà còn luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, đan xen, nương tựa
vào nhau trong nền kinh tế.
Về mối quan hệ cân đối trong phát triển nông nghiệp và công nghiệp
Ở nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân: công nghiệp và nông nghiệp. Công
nghiệp của ta đã có tiến bộ, nếu nông nghiệp không tiến bộ hoặc cứ cầm chừng thì như
què, vì vậy, phải cố gắng mà đưa nông nghiệp tiến lên”6

Phát triển công nghiệp và nông nghiệp phải trong sự vận động của tổng thể các
ngành và các ngành khác cũng phải hướng vào công nghiệp và nông nghiệp để sản xuất
phục vụ tốt nhất cho nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Phải lấy nông nghiệp làm chính
nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân
hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế... các nhành này phải lấy phục vụ
nông nghiệp làm trọng tâm”7

Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế cho thấy những quan
điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện Người có một tầm nhìn kinh tế rất toàn diện, có
nhiều quan điểm đúng đắn phù hợp với nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
II. Giá trị của quan điểm đối với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu
ngành kinh tế là một căn cứ lý luận để Đảng ta vận dụng trong điều hành nền kinh tế đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một kinh nghiệp quý báu để Đảng và Nhà nước ta vận
dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới kinh tế hiện nay.
Trong thực tiễn, vận dụng tư tưởng của Người nền kinh tế Việt Nam đang trên đà
khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần nâng cao đời sống nhân dân,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ lên CNXH của Hồ Chí Minh không
chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ, mà còn được bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới; qua đó, tiếp 8 lOMoAR cPSD| 45469857
tục khẳng định và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành 3
nghị quyết về kinh tế, trong đó có nghị quyết về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN". Đây là điều
kiện thuận lợi để thành phần kinh tế tư nhân phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, đóng góp
nhiều hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi
dậy tiềm năng của đất nước được xem là sự sáng tạo, là một trong những nhân tố mới
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
phát hiện, đề cập trong các tác phẩm, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, dự báo xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng nắm bắt, thích
ứng với nguyên tắc, quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa. Việc đẩy
nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế theo nguyên tắc
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho việc
huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường, phát triển
đất nước. Hoạch định các cơ chế, chính sách kinh tế cần chú trọng kết hợp giữa phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và
nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt đông của Nhà nước cho phù hợp ̣ hơn với yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong tình hình mới, một mặt
cần nghiên cứu, rút ra bài học từ lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, để điều chỉnh,
bổ sung, từng bước hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong đó, cần nhanh chóng tập trung xây dựng hệ tiêu chí cụ thể trên từng lĩnh vực của
nền kinh tế, như: tiêu chí về sở hữu, về các thành phần kinh tế; tiêu chí về tổ chức quản
lý, điều tiết nền kinh tế; tiêu chí về cơ chế huy động, phân phối nguồn lực và phân phối
kết quả hoạt động kinh tế; tiêu chí về các yếu tố thị trường, các loại thị trường; tiêu chí
về các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường; tiêu chí
về hội nhập kinh tế quốc tế. Cần chú ý những tiêu chí cụ thể về mức độ can thiệp của Nhà
nước vào nền kinh tế; tự do hóa thương mại và gia nhập thị trường; về bảo đảm tính minh
bạch, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, mức độ tự do kinh tế, môi trường kinh
doanh và hoạt động của các doanh nghiệp.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, với vai trò “Đảng là người lãnh đạo”, là linh hồn
của công cuộc đổi mới, để xứng đáng là Đảng cầm quyền, phải chú trọng công tác xây 9 lOMoAR cPSD| 45469857
dựng Đảng, trong đó trọng tâm là xây dựng Đảng về đạo đức; tăng cường đấu tranh chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, chống lợi ích nhóm, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân,
tức là chống “giặc nội xâm”; tăng cường và có biện pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực
trong Đảng và trong hệ thống bộ máy công quyền. Cần tiếp tục đổi mới công tác kiểm
tra, kiểm soát, song song với việc giám sát thực thi điều lệ và các quy định của Đảng;
tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong quản lý xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, phát triển kinh tế phải đi đôi với nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện lời dạy của Người, mỗi tổ chức Đảng,
mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục phát huy trí tuệ, sức lực và tinh thần phục vụ nhân
dân, thể hiện trên từng vị trí công tác của mình, đoàn kết chặt chẽ, triển khai thực hiện
sáng tạo, hiệu quả chủ trương, đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà
nước; tích cực tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong nội bộ Đảng. Cán
bộ lãnh đạo, người đứng đầu, bằng việc nêu gương, trước hết là nêu gương về tu dưỡng,
rèn luyện phẩm chất đạo đức, gương mẫu đi đầu trong công việc; hoàn thành nhiệm vụ,
nói đi đôi với làm, thường xuyên học tập nâng cao trình độ bản thân; kiên quyết chống
các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tích cực tham gia đấu tranh chống các biểu hiện tiêu
cực, chống tham ô, tham nhũng... củng cố niềm tin giữa Đảng với dân.
Đó là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”; thiết thực góp phần: “...xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, theo di nguyện của Người. 10 lOMoAR cPSD| 45469857 KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một kinh nghiệp quý báu để Đảng và Nhà nước ta vận
dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới kinh tế hiện nay.
Trong thực tiễn, vận dụng tư tưởng của Người nền kinh tế Việt Nam đang trên đà
khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần nâng cao đời sống nhân dân,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngày nay, nhìn lại những thành tựu to lớn, toàn diện mà Đảng và nhân dân ta đã
giành được, chúng ta càng nhớ đến công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và càng tin
tưởng sâu sắc vào thắng lợi của con đường cách mạng mà Người đã vạch ra cho dân tộc.
Người không chỉ là nhà yêu nước vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc, một nhà hiền
triết, một danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà kinh tế học xuất sắc. 11