Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nềnkinh tế nước ta hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN,
CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng
quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh
tế nước ta hiện nay. Họ và tên: MSV:
Tên lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh(222)_15 Mã lớp học phần: Giảng viên: Hà Nội- 2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….. 2
NỘI DUNG………………………………………………………………………….. 3
Phần 1: Cơ sở lý luận………………………………………………………………... lOMoAR cPSD| 23022540
1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác…………………………...3 2.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa………………………………….. 3 3. Quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam……………………………………………………. 5 a. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội c.
Quan niệm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Phần 2: Vận dụng…………………………………………………………………… 1.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ………………………… 13 2.
Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta ........................................ 12
3. Hạn chế ................................................................................................................ 14
4. Đề xuất một vài biện pháp ................................................................................. 15
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 18 1 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người có sự nghiệp cách mạng vĩ đại, với việc vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, tình hình xã hội cụ thể của đất nước
mình, Người đã đề cử những đường lối đúng đắn, đưa Cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. lOMoAR cPSD| 23022540
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã trải qua hơn 60 năm lịch sử, đó
là quãng thời gian cùng nhau chứng kiến giai đoạn chuyển mình của lịch sử từ hình thái
kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan theo đúng quy luật tiến hoá của lịch sử. Tuy nhiên với một đất nước đi lên
từ “một đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu” thì thật sự không hề dễ dàng và nhanh
chóng như các nước đi lên từ tư bản chủ nghĩa. Song, Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
dân Việt Nam vẫn kiên định với con đường này trong suốt dòng chảy lịch sử. Để thực
hiện điều đó cần có một cơ cấu kinh tế phù hợp và hợp lý. Cụ thể cần xác định rõ vai
trò, tỷ trọng và các mối quan hệ hợp thành, đủ yêu cầu về cả chất lượng lẫn số lượng,
phù hợp với từng giai đoạn, khoảng thời gian cụ thể của đất nước.
Vậy phải làm sao để có được cái nhìn toàn diện để phát triển kinh tế? Ta cần nhìn
về tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xãhội. Đó
là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược cùng tư duy logic vượt thời đại mà tới nay Đảng
và Chính phủ vẫn học tập và làm theo. Vì vậy mà đề tài “tìm hiểu và phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay” được thể hiện ở dưới đây. 2 NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác:
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp
luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội.
Có thể nói, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã tạo ra bước đột phá
trong toàn bộ quan điểm về xã hội loài người, trang bị phương pháp luận khoa học để
phân tích, làm rõ quá trình hình thành, vận động và phát triển của lịch sử loài người. lOMoAR cPSD| 23022540
Thực tế cho thấy rằng, dòng chảy của lịch sử nhân loại luôn diễn ra theo sự thay
thế các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao. Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến ra
đời từ hình thức chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời từ hình
thái phong kiến và trong lòng của chủ nghĩa tư bản lại ra đời chủ nghĩa xã hội. Các quan
điểm phủ định học thuyết này vì cho rằng chủ nghĩa tư bản là cuối cùng, là đỉnh cao phát triển của nhân loại.
Chính bước chuyển từ thủ công nghiệp phường hội lên công trường thủ công, rồi
từ công trường thủ công lên nền đại công nghiệp, cùng sự phân công lao động và nhu
cầu trao đổi do lực lượng sản xuất phát triển (từ người lao động đến tư liệu sản xuất ngày
càng phát triển nhanh chóng). Kết quả là những xiềng xích phong kiến đã bị đập tan
nhường chỗ cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và trong lòng tư bản chủ
nghĩa ấy lại xuất hiện các điều kiện, tiền đề kinh tế, xã hội, vật chất chuẩn bị cho sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải qua
một giai đoạn trung gian, C.Mác và Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. Theo C.Mác hình
thức quá độ trong thời đại của ông là thời kỳ quá độ trực tiếp khi chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa ra đời có quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao. Theo ông, chỉ
có từ tư bản chủ nghĩa phát triển thì nó mới đủ điều kiện và là tiền đề để các nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 3
V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời
Lênin cụ thể hóa việc phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai
đoạn: Giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được
gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu dài. Lênin cũng đã phân tích ra rằng không chỉ những
nước tư bản phát triển mới có thể quá độ lên xã hội chủ nghĩa mà những nước tư bản
kém phát triển hay những nước có hình thái chế độ phong kiến vẫn đi lên, vẫn quá độ
lên được chủ nghĩa xã hội thông qua “bước nhảy”. “Bước nhảy” mà ông nêu ra là bỏ
qua hình thái kinh tế - xã hội là tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vậy “bỏ qua” ông đề cập đến là như thế nào? “Bỏ qua" ở đây không phải là phủ
nhận tất cả mọi thứ của hình thái kinh tế - xã hội ấy đưa lại cho nhân loại, cho xã hội mà
là bỏ qua kiến trúc thượng tầng - kiểu nhà nước bóc lột, nhà nước tư sản bên cạnh đó kế
thừa các thành tựu khoa học kỹ thuật. Lênin đã chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, lOMoAR cPSD| 23022540
nhiều thành phần kinh tế trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất (những yếu tố
của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau). Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều
thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự
tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa
dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau,
trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Lấy ví dụ cụ thể, nước Nga vĩ đại. Lênin không chỉ đưa ra cơ sở lý luận mà còn
trực tiếp chỉ huy, đem nó đưa vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga sau nội
chiến. Từ mùa xuân năm 1921, Nga chuyển sang giai đoạn mới của cách mạng, Lênin
cùng Đảng Bôn-sê-vích Nga đã nhìn thấy những bất cập, từ đó đưa ra và thực hiện Chính
sách kinh tế mới (NEP) để thay thế Chính sách cộng sản thời chiến. Chính sách kinh tế
mới với nhiều nội dung khác nhau, trong đó có nội dung cơ bản là sử dụng sức mạnh
kinh tế của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; phát triển sản xuất 4 và
lưu thông hàng hóa; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích phát triển
sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích phát triển kinh tế tư
bản tư nhân, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, chấn chỉnh lại các doanh nghiệp nhà
nước, chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế... Và V.I.Lênin cũng chủ trương đẩy mạnh
hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm quản lý…
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi
nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Tùy vào hoàn cảnh
mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau…”. Bác đã chỉ ra những đặc điểm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước mình, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc
điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài". lOMoAR cPSD| 23022540
Theo Bác, “nói một cách tóm tắt và mộc mạc thì chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc, là làm sao cho dân giàu nước mạnh”1
Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phổ biến, có
tính quy luật trên thế giới. Nhưng việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả
năng thực tế của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một,
từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng. Người cũng nêu rõ rằng: “Ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài", “phải làm dần
dần", “không thể một sớm, một chiều", “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại". Tư tưởng
chủ đạo của Bác về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước,
“bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh", nhưng “chớ ham làm
1 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.391 5
mau, ham rầm rộ…”. Xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Theo Hồ
Chí Minh, thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là thời kỳ cải biến xã hội cũ thành xã
hội mới - một xã hội chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Bác chỉ ra rằng, đây là thời
kỳ phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, những ý nghĩa thành kiến có gốc rễ
sâu xa. Phải xóa bỏ kiến trúc thượng tầng - hay chính là giai cấp bóc lột, phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước nông nghiệp lạc hậu rồi từ đó đi dần lên chủ
nghĩa xã hội thì mới có thể thoát khỏi ách thực dân, phong kiến. Vì vậy, nó là công
cuộc biến đổi, thay máu sâu sắc, khó khăn nhất thậm chí còn khó khăn, phức tạp hơn cả
việc đánh giặc. Cho nên, như đã đề cập ở trên, việc Việt Nam muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều, không thể làm mau càng không
thể ham mau được mà phải làm dần dần, làm từng bước từng bước một.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của dân tộc ta trong thời kỳ quá độ này chính là đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn
tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng các yếu mới phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa
xã hội trên các lĩnh vực của đời sống. Bác đã chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội rất toàn diện.
Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất (hay chính là nhân dân cùng
các tư liệu sản xuất bổ trợ) là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công lOMoAR cPSD| 23022540
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế,
cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí
Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế
cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá trình
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây dựng
thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân.
Trên lĩnh vực chính trị, Đảng và Nhà nước phải xây dựng được chế độ dân chủ
vì đây là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng được chế độ này phải chống 6
lại tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết trong bộ máy chính quyền đồng
thời, bồi dưỡng, giáo dục để nhân dân có tri thức, có năng lực làm chủ chế độ xã hội.
Với văn hoá, chúng ta phải triệt để tẩy trừ di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
lên văn hóa, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu và phát
triển những tiến bộ của thế giới để xây dựng một nền văn hoá dân tộc có tính dân tộc,
khoa học và đại chúng. Không chỉ vậy, đất nước ta còn phải xây dựng một xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người. Đảm bảo được rằng nó thỏa mãn không
chỉ đời sống cá nhân, phát huy tính cách riêng mà còn hài hoà với đời sống chung, với
lợi ích chung của tập thể.
c. Quan niệm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Như đã đề cập ở phần mục trước đó, với bối cảnh nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc
hậu, Hồ Chí Minh đã xác định được nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải
cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại.
c.1: Cơ cấu thành phần kinh tế:
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ăngghen,
Lênin về những vấn đề kinh tế - chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế của nước nhà trong nhiều thành phần,
Hồ Chí Minh đã vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng kinh tế của Người về các hình thức sở hữu và kinh tế nhiều thành phần
được thể hiện rõ nhất trong hai tác phẩm là “Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo
cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa” (năm 1959).
Người đưa ra kết luận rằng “mục đích của chế độ ta là xoá bỏ các hình thức sở
hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên lOMoAR cPSD| 23022540
một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Tuy
nhiên, Bác cũng đã chỉ rằng mục đích đấy phải được thực hiện từng bước phù hợp với
điều kiện cụ thể của dân tộc, đất nước mình.
Khi đất nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản như 7
Trung Quốc hay Việt Nam phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ
mới có năm loại kinh tế khác nhau: A
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân) B
- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã
hội) C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội) D - Tư bản của tư nhân
E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển vượt trội nhất vì vậy
mà Bác Hồ đã quan điểm rằng nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã
hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn hơn 30 năm Việt Nam phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta đã có sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, tháng 12 năm 1986. Đã tạo ra bước đột phá về tư duy đổi mới thể chế, cơ chế trong
quản lý kinh tế và đã vận dụng một cách sáng tạo nhất quan điểm của Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986 - Đại hội đổi
mới, Đảng xác định năm thành phần kinh tế chủ yếu: kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể, gia đình); kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ; kinh tế tự túc, tự cấp; kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991)
Đảng ta tiếp tục định ra năm thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Vì vậy mà nghị quyết Đảng
năm ấy đã chỉ ra “từ các hình thức sở hữu cơ bản, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân trở thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh
đa dạng, đan xen, hỗn hợp". Tại Đại hội IX (năm 2001), gồm có sáu thành phần kinh tế:
thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế hợp tác xã, thành phần kinh tế cá thể
tiểu chủ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản 8 nhà nước và lOMoAR cPSD| 23022540
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; Kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu cổ phần).
Tại Đại hội X (năm 2006), gồm có năm thành phần : thành phần kinh tế nhà nước, Thành
phần kinh tế tập thể, Thành phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư bản tư nhân ), Thành phần kinh tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai thành
phần kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một thành
phần đó là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là đều
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối với
kinh tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư
nhân. Tại Đại hội XI (năm 2011), gồm có 4 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội XII
(năm 2016), Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh
tế nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu
chúng ta so sánh với các thành phần kinh tế mà Lênin và Hồ Chí Minh đề cập, thì không
thấy thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đây là thành phần kinh tế mà Lênin cho rằng
có vai trò rất quan trọng trong việc liên kết giữa tư bản tư nhân và chủ nghĩa xã hội. Và
gần đây nhất là tại Đại hội XIII năm 2021 đã xác định cơ cấu các thành phần kinh tế bao
gồm: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về vai trò các thành phần kinh tế qua từng giai
đoạn phát triển có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Tuy nhiên luôn thực
hiện nhất quán với chính sách nhiều thành phần kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c.2: Cơ cấu vùng kinh tế:
Nói về quan điểm của bản thân về cơ cấu vùng kinh tế (đồng bằng, trung du,
miền núi và miền biển) , chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra phương hướng là cơ cấu vùng
kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thôn, thành thị và hải đảo để từ đó rút ngắn
khoảng cách thu nhập, văn minh và nhận thức giữa các vùng. 9
Người cũng khẳng định rằng phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc gia
dân tộc độc lập là một quốc gia dân tộc độc lập về mọi mắt, nhất là chính trị và kinh tế,
không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia dân tộc nào. Chúng ta độc lập toàn diện nhưng
không “bế quan toả cảng” mà vẫn có sự giao thương với các nước khác. lOMoAR cPSD| 23022540
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kỹ thuật đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng nếu đất nước mình không có điều
kiện thuận lợi cho khoa học kỹ thuật thì cần phải học tập, tiếp thu từ các nước đi trước,
tìm tòi và tiếp thu những khoa học kỹ thuật ấy, đặc biệt là trong quản lý và sản xuất. Từ
đó, ứng dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc
điểm của nền kinh tế nước nhà. Song song với tiếp thu cái mới, chúng ta cũng phải tiếp
thu và phát triển những tinh hoa của nước nhà, “hoà nhập mà không hoà tan”.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc quản lý kinh tế, đưa ra những nguyên
tắc trong quá trình quản lý cho hợp lý, đảm bảo lợi ích chung của các thành phần kinh
tế, công bằng với từng vùng kinh tế, ngành tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh
tế nước nhà. Kết hợp với đó là những kế hoạch hoá trong phát triển kinh tế cho phù hợp
với từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện
quản lý. Những người quản lý, đặc biệt là Đảng viên phải chống những tiêu cực trong
hoạt động quản lý. Có như vậy thì phát triển các vùng kinh tế trọng điểm mới có thể thành công.
c.3: Cơ cấu ngành kinh tế:
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không bằng nhau, không thể bước mạnh được”. Từ
khi bắt đầu phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông nghiệp. Nông
nghiệp phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nông nghiệp đảm bảo lương thực, thực phẩm
nguồn sông của con người, là cơ sở của các ngành kinh tế khác. Hơn nữa, nhìn từ góc
độ lịch sử, địa lý, nước ta vốn là nước nhiệt đới cận xích đạo lấy nông nghiệp là ngành
kinh tế chủ yếu với bề dày của nền văn minh lúa nước. Nông dân chiếm đại đa số trong
dân cư, có thể thấy chỗ bắt đầu đi lên của ta là nông nghiệp, việc phát triển nông nghiệp
là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển nông nghiệp ở nước ta vô cùng quan trọng, không chỉ bảo đảm lượng
thực, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm việc làm cho người lao động… 10
mà điều quan trọng như đã đề cập ở trên là nó sẽ làm cơ sở ngành cho các ngành kinh tế
khác. Nông nghiệp phải phát triển mà muốn phát triển mạnh và vượt trội, có sản phẩm
dồi dào thì cần có máy móc hiện đại để sản xuất một cách rộng rãi, mà muốn có máy thì
“phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu,... công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường ấm no thật sự của nhân dân ta”2
Không chỉ công-nông, Bác còn rất xem trọng vai trò chìa khoá để thúc đẩy mối
quan hệ ấy chính là thương nghiệp. Người nói: "phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân
có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan lOMoAR cPSD| 23022540
hệ mật thiết với nhau... Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông
nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh. Công tác thương
nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc”3
Có thể thấy rõ, tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu các thành
phần kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ thể hiện quan điểm xuyên suốt là: Tập trung
phát triển nông nghiệp trong mối quan hệ tác động biện chứng với phát triển công nghiệp
thông qua việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, hết sức chú trọng sản xuất lương
thực và gắn bó hài hòa nó với sản xuất thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng và sản xuất
hàng xuất khẩu nhằm tận dụng lợi thế so sánh trong nước và tranh thủ các yếu tố ngoài
nước để thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển. Đối với kinh tế địa phương cũng tập
trung vào thế mạnh của từng địa phương, từng vùng để phát triển đảm bảo nguyên tắc hiệu quả.
Thông qua cơ sở lý luận ở trên về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh
tế của từng nước, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc
điểm cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể để đưa ra các chính sách, phương hướng phát
triển kinh tế phù hợp với điều kiện tổng quan của đất nước, của dân tộc Việt Nam. 2
Hồ Chí Minh Toàn tập, tlđd, t.12, tr. 445. Bài viết Con đường phía trước, đăng báo
Nhân Dân số 2134 ngày 20-01-1960 3
Hồ Chí Minh Toàn tập, tlđd, t.10, tr. 335 Nói chuyện tại Đại hội chiến sĩ thi đua ngành
thương nghiệp lần thứ nhất 6/1956 11
PHẦN 2: VẬN DỤNG
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc
và từ năm 1975, khi đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất hai miền Bắc - Nam, cách
mạng dân tộc - dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như Bác đã từng đề cập đến, nước ta thời kỳ ấy là một đất nước có nền nông
nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, nhảy vọt qua chế độ tư bản chủ nghĩa cùng với
các khó khăn rất lớn. Bên cạnh đó còn là sự chuyển dịch hay tác động chậm và kém lên
các ngành kinh tế dù mang tinh thần đổi mới và phát triển của Đảng và nhà nước. Bởi
vậy mới nói thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta tương đối dài.
Có thể nói, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch
sử đối với Việt Nam. Trong các giai đoạn xã hội thông thường, một quốc gia sẽ quá độ lOMoAR cPSD| 23022540
đi lên xã hội chủ nghĩa tư bản trước như Mỹ, Anh, Pháp, Tây Âu… - đó đc xem như
hướng đi và bước chuyển mình thông thường. Sau đó với những thành tựu và điểm mạnh
từ chủ nghĩa này mà đi lên xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nước ta lại thực hiện bước
chuyển mình bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Để nói tới lý do thì như chúng ta đã biết người dân phải gánh chịu chế độ thực
dân khắc nghiệt, cơ cực, mất đi cái quyền mà bên kia bán cầu luôn tôn vinh và đề cao là
tự do và dân chủ, Vậy nên tính chất ở chủ nghĩa xã hội mới là những mong muốn mà
người dân muốn được đặt ra. Ở đấy, tiếng nói của dân tộc được phản ánh, mong muốn
chính đáng được đáp ứng. Vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ
chung của nhân loại. Đi theo dòng chảy của thời đại tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
Tính dân tộc và nhu cầu độc lập dân tộc luôn tồn tại trong mong muốn của dân
tộc ta. Quyền lực phải được phản ánh thông qua ý thức dân chủ và Đảng cộng sản có thể
đảm bảo được tính chất ấy. Bởi sự quản lý và lãnh đạo của nhà nước mang tính chất đại
diện và thể hiện tiếng nói của dân tộc. Và những mục tiêu như dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chỉ được xây dựng với mục tiêu to hơn là đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta 12
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội để phù hợp với đặc điểm, bối cảnh, tình hình cách mạng nước ta.
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “nhiệm vụ quan
trọng nhất” ở thời kỳ quá độ “là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội”. Bởi vậy, Đảng ta đã xác định rõ: Trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng
và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm.
Xuyên suốt bảy kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XII)
và cả trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung phát
triển năm 2011. đều đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới, chính
là “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên cơ sở
tổng kết quá trình 30 năm đổi mới, Đảng khái quát lý luận của mình rằng: “Nền kinh tế lOMoAR cPSD| 23022540
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đảng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Và cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng mới diễn ra gần đây
đã cho ta thấy những vai trò của các thành phần kinh tế. “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn,
các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo; tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức
khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy
đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu
cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường
và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế
giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi 13
động. Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh
tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập
thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta.
2.1: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp:
Từ Đại hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ VI thì Đảng và đất nước ta mới thực sự có thay đổi, đặt trọng tâm vào nền
nông nghiệp đã có từ nền móng từ lâu đời theo lời dạy của Hồ Chủ tịch thay vì vội vàng
tập trung đặt trọng tâm vào công nghiệp nặng. Từ đó tạo nên sự khởi sắc bước đầu cho nền kinh tế - xã hội.
Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, cơ cấu kinh tế bắt buộc
phải theo kịp thời đại. Chính vì vậy, trong văn kiện Đảng lần thứ XIII, Đảng đã đề cập
rõ hơn về cơ cấu ngành kinh tế của đất nước. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng được tập trung thực hiện và bước đầu đạt những kết quả quan trọng.
Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản giảm, tỉ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp
chế biến, chế tạo phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng
cao tỷ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ tiếp tục tăng; du lịch phát triển nhanh. Nông nghiệp có bước chuyển lOMoAR cPSD| 23022540
mạnh sang sản xuất hàng hoá, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu
quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình
xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần 2 năm
so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân.
Phát triển kinh tế số bước đầu được chú trọng. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế phát
triển sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức như ký kết nhiều hiệp định thương
mại song phương; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Bộ máy chính quyền đã có những hoạt động thúc đẩy
hội nhập kinh tế hay thu vốn đầu tư như vào sáng ngày 22/04/2023, tại trụ sở Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự và chủ trì Hội nghị gặp mặt các nhà đầu
từ nước ngoài, nhằm tăng tính gắn kết và hợp tác song phương. 14
2.2: Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm:
Việt Nam chúng ta được chia thành bảy vùng kinh tế trọng điểm là Trung du và
miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung Bộ, Ven biển Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Tuỳ thuộc vào đặc điểm địa lý, dân
cư, thói quen tập quán từng vùng mà Đảng và nhà nước có những phương hướng phát
triển khác nhau về kinh tế của mỗi vùng. Xét đến tình hình phát triển của thế giới, đất
nước ta, đặc biệt là bộ máy lãnh đạo cần có những đổi mới trong tư duy chuyển từ “mở
rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp tích cực,
khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”.
Việt Nam cần có sự khai thác lãnh thổ linh hoạt và tối ưu nhất từ đó tạo ra sự đột
phá, đáp ứng các yêu cầu cạnh tranh quốc tế và hội nhập toàn cầu. Để thực hiện được
điều đó, Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần tập trung vào: Hoàn thiện quy hoạch
vùng và lấy đó làm cơ sở hạ tầng kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng
kinh tế hợp lý nhưng vẫn đảm bảo được yếu tố bảo vệ môi trường. Đảng chú trọng phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực, các khu kinh tế và công nghiệp đi đôi
với gia tăng liên kết giữa các địa phương để phát huy tối đa các tiềm năng và lợi thế của vùng kinh tế. 3. Hạn chế
Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong lĩnh vực kinh tế nhưng thực trạng
phát triển kinh tế và vận dụng tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một vài hạn chế, thể hiện như:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, chủ yếu dựa vào yếu tố tăng trưởng theo
chiều rộng, còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của
Nhà nước. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên lOMoAR cPSD| 23022540
liệu cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ theo thời
gian nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một nâng
cao của thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: kinh tế nhà
nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo như đã mong đợi; kinh tế tập thể còn phát triển
chậm và nhỏ. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng đủ vai trò động lực của nền kinh tế, chưa
được tạo điều kiện thoả đáng. Cuối cùng là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp
nhiều khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về chính sách… 15
Những tồn tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan (như bối cảnh kinh
tế thị trường biến động phức tạp, sự ảnh hưởng của dịch COVID-19…) và các nguyên
nhân chủ quan khác. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chưa thật sự đúng
đắn cũng dẫn đến hạn chế trên. Có thể kể đến như công tác tổng kết thực tiễn chưa ngang
tầm với nhu cầu phát triển; nhận thức một số vấn đề chưa có nghiên cứu đủ sâu sắc.
Cạnh đó còn là việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hìn thức, hiệu quả chưa cao…
4. Đề xuất một vài biện pháp:
Thứ nhất, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa phù hợp với điều kiện mới của đất nước và thế giới. Phát triển nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò phát triển thông
qua hệ thống, chính sách phù hợp, bảo đảm: nhóm thể chế tháo gỡ những điểm nghẽn
để doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng lớn mạnh, trở thành nòng cốt của nền kinh tế đất nước.
Doanh nghiệp Việt Nam không phân biệt thành phần, nguồn gốc sở hữu là lực
lượng xung kích tạo ra của cải, vật chất, việc làm, đóng góp nguồn lực cho ngân sách,
cũng là lực lượng chủ lực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới. Việc
tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế cần được thực hiện khẩn trương, tích cực nhằm
thúc đẩy sự gia tăng số lượng doanh nghiệp, đồng thời từng bước nâng cao trình độ, quy
mô các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; có ngày càng nhiều hơn những doanh nghiệp vừa,
doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp có khả năng dẫn dắt ngành, lĩnh vực, đủ sức
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Việc khắc phục hiện trạng doanh nghiệp Việt Nam chủ
yếu có quy mô siêu nhỏ (chiếm 67,2% trong tổng số 811.538 doanh nghiệp tính tới thời
điểm ngày 3-12-2020)(4) đòi hỏi cần thời gian bởi còn nhiều thách thức. Tuy nhiên, lOMoAR cPSD| 23022540
trước mắt, cần có những giải pháp để tháo gỡ những rào cản thể chế do chính yếu tố chủ
quan tạo ra giúp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
Cần tập trung cải thiện môi trường kinh doanh thông qua các thể chế quản trị
quốc gia tốt, theo hướng minh bạch, tạo cơ hội cũng như động lực mong muốn lớn lên
của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục rà soát để tháo gỡ một cách chủ động hơn nữa 16
những quy định còn chồng chéo, bất cập, không minh bạch hoặc các quy định tạo căn
cứ để các cơ quan chức năng có thể can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp; cần bảo đảm môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp tự chủ, tự
quyết, tự lực. Sớm khắc phục tình trạng thiếu ổn định của các quy định thể chế, sự trùng
chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định, sự thiếu kết nối giữa các cơ quan
quản lý nhà nước, sự tắc nghẽn về kỹ thuật, thông tin kém minh bạch… vẫn đang là
những vấn đề nổi cộm trong thể chế thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam phát triển hiện
nay. Tình trạng thiếu minh bạch và thiếu công khai thông tin về cơ hội tiếp cận nguồn
lực, dự án cũng là trở lực cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Việc công khai
các kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển còn chậm và chung chung khiến cho
doanh nghiệp khó có thể biết chính xác thông tin từ phía cơ quan quản lý. Nếu những
bất cập trên tiếp tục tồn tại sẽ khó tạo ra bước phát triển mang tính đột phá của doanh
nghiệp Việt Nam, với vai trò là lực lượng nòng cốt của một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Hơn nữa, cần nhanh chóng hoàn thiện các thể chế phòng vệ phù hợp với thể chế
quốc tế để bảo vệ lợi ích doanh nghiệp Việt Nam, thị trường trong nước. Cần tích cực
triển khai xây dựng các thể chế phòng vệ phù hợp, là việc làm vừa có ý nghĩa trước mắt,
vừa có ý nghĩa lâu dài đối với xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Sớm rà
soát, xây dựng đồng bộ các thể chế phòng vệ về kỹ thuật, bảo hộ hợp lý theo lộ trình các
loại thị trường và các yếu tố thị trường để tạo cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp hỗ
trợ thích hợp cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp Việt Nam. Khác với con đường phát
triển của các doanh nghiệp hàng đầu Nhật Bản, Hàn Quốc những thập niên 60 - 70 của
thế kỷ XX, sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chịu sự chế định rất chặt
chẽ bởi các quy định về thể chế trong các tổ chức đa phương, song phương mà Việt Nam
tham gia. Do đó, vai trò “bà đỡ” của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp không
thể thực hiện được một cách đơn giản theo ý muốn chủ quan, mà cần thông qua một hệ
thống thể chế phòng vệ thích đáng, mạnh, có chất lượng.
Thứ ba, muốn phát triển lớn mạnh và lâu dài thì cần chú trọng từ bộ máy lãnh
đạo hay chính là chú trọng xây dựng thể chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu
về môi trường quốc tế. Sự khó khăn nhiều mặt trong việc am hiểu môi trường quốc tế sẽ
có thể khắc phục được khi chúng ta có được đội ngũ nhân lực tham gia hoạt động trong
môi trường quốc tế đủ mạnh, đủ đức, đủ tài. Muốn vậy, hệ thống thể chế liên 17 quan
đến tổ chức đào tạo, sử dụng, bố trí, phát triển đội ngũ cán bộ này cần thực chất, rõ ràng, lOMoAR cPSD| 23022540
đầu tư bài bản. Đồng thời, đầu tư nghiên cứu bổ sung phát triển các nhận thức lý luận để
làm tiền đề bảo đảm cho những đổi mới tư duy về kinh tế một cách vững vàng nhất. lOMoAR cPSD| 23022540 18 KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã thể hiện thông qua những nội dung đặc sắc trên cơ sở kế thừa và phát triển
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, xã hội Việt Nam. Thực tiễn luôn
vận động biến đổi nhưng nội dung tư tưởng về thời kỳ này của Người vẫn nguyên giá
trị, cần tiếp tục bổ sung và phát triển trong điều kiện mới.
Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta tổng kết được rằng Người đã chia cơ cấu kinh
tế thành: thành phần kinh tế, ngành kinh tế và vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu nhiều thành
phần được phân tích sâu sắc và rành mạch nhất, chỉ rõ và đưa ra phương hướng phát
triển phù hợp. Năm thành phần kinh tế khi đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội được chỉ ra
nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng. Trên cơ sở đấy, Đảng đã đề ra những
đường lối chính sách phù hợp, khả thi, tối ưu hoá hiệu quả cho từng loại hình kinh tế.
Nhờ vậy mà nền kinh tế đã có sự tiến bộ, phát triển vượt bậc, đóng góp cho cho thành
công của thời kỳ đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân. 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội lOMoAR cPSD| 23022540 2.
Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 3. C.Mác
và Ph.Ăng ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 4.
V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 5.
Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX,
X, XI, XII, XIII (1996, 2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 7. Tạp chí cộng sản (2011): Tìm hiểu quan điểm của Đại hội XI của Đảng về các
thành phần kinh tế - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
8. Tạp chí Tổ chức nhà nước (2022): Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới (tcnn.vn)
9. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XII
10. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XIII
11.Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bổ sung, phát triển của Đảng ta 12. Học thuyết
C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội - hòn đá tảng cho xu hướng phát triển tất yếu của
lịch sử xã hội loài người | TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẾN TRE 13. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 14. Dân chủ mới | Việt Nam
15. THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI - TỪ CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN VIỆT NAM
16. N hững điểm mới về kinh tế trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng 17. Quan điểm
của Đảng về vai trò các thành phần kinh tế ở nước ta từ Đại hội VI đến Đại hội XIII 09/11/2021
18. Tư tưởng Hồ chí Minh về phát triển kinh tế 20