Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? |  Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng
trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thùy Linh MSV:
11223673 Lớp tín chỉ: 09
Giảng viên: TS Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI – 2023
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 45568214
Mở đầu……………………………………………………………………………tr.1 I.
Cơ sở lý luận………………………………………………………………........tr.2
1. Quan điểm của Mác Nin về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
……………………………………………………………………………………..tr.2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Việt Nam………………………………………………………………….............tr.2
2.1. Hồ Chí Minh và vai trò của người trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam………………………………………………………………………….......tr.2
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
…………………………………………………………………………………...tr.3
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam…………………………………………………………………tr.4
II. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay……………………………………………………………tr.7
1. Qúa trình đổi mới kinh tế và những mục tiêu mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ đổi mới.
…………………………………………………………………………………...…tr.7
2. Sự vận dụng tưởng Hồ Chí Minh của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành
phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới………………………………………………..tr.9
3. Thành tựu sự vận dụng của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần
nước
ta trong thời kỳ đổi mới……………………………………………………………..tr.10
4. Hạn chế trong xây dựng kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam trong thờ kỳ đổi mới.
…………………………………………………………………………………...…tr.12
5. Đề xuất giải pháp…………………………………………………………………tr.14
Kết luận……………………………………………………………………………..tr.16
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….....tr.17
lOMoARcPSD| 45568214
1
Lời mở đầu
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người đã thấm nhuần quan điểm của
Mác – Lênin và trên cương vị là một nhà lãnh đạo, người đã đưa ra những quan điểm chỉ
đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp nông nghiệp quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta có đặc
điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống hội làm sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - hội quá thấp kém của nước ta. Do đó, thực chất của thời kỳ quá độ lên ch
nghĩa hội ớc ta quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên
tiến, hiện đại.
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng cộng sản và nhân dân Việt nam, đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan,
là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Và bất kỳ nước nào tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì đều phải trải qua thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, Việt Nam xuất phát từ một nước nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp vẫn còn tồn tại khá nặng. Những hệ quả của trạng thái bao cáo tư duy vẫn còn, chưa
thực sự sặc sàng hội nhập. Do vậy, phát triển kinh tế đã trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số
một của toàn Đảng nhân dân. Thật sự thì đó là một quá trình đầy khó khăn và gian khổ.
Chưa có một tiền lệ lịch sử nào như thế trước đây. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần
phải xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế,
tạo điều kiện cho phát triển các ngành kinh tế mới cũng như đa dạng hóa các ngành kinh
tế, từ đó làm bàn đạp đổi mới kinh tế nước ta theo đường lối kinh tế nhiều thành phần.
Tóm lại, yếu tố quan trọng để được được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là đổi mới kinh tế và để làm được điều đó thì phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp
lý. Nhận thức được điều này, em đã chọn phân tích đề tài “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân
tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?”. Do trình độ cũng như hiểu biết còn hạn chế,
nếu có gì sai sót mong thầy bỏ qua.
I. Cơ sở lí luận
1. Quan điểm của Mác Lê Nin về cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH .Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với bất kỳ quốc gia
nào đi lên xã hội chủ nghĩa, bất kể nước đó có nên kinh tế kém hay rất phát triển. Tất nhiên
đối với các nước nền kinh tế phát triển thì thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa hội
nhiều thuận lợi cũng như có khả năng diễn ra ngắn hơn so với các nước có nền kinh tế lạc
hậu. Thời kỳ quá độ n chủ nghĩa hội thời kỳ cải biến cách mạng u sắc, triệt để,
toàn diện từ hội thành hội mới chủ nghĩa hội. diễn ra từ khi giai cấp
sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng hội mới kết thúc khi xây dựng
thành công những sở của chủ nghĩa hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
lOMoARcPSD| 45568214
2
cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được quy định bởi đặc điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội của
chủ nghĩa xã hội.
Theo Mác và lênin, đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với các giai cấp, tầng lớp
XH khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của các giai cấp, tầng lớp này có sự biến đổi
sâu sắc. Lênin đã vận dụng sáng tạo những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa
cộng sản vào đặc thù lịch sử cụ thể nước Nga thông qua việc xác định các thành phần
kinh tế hiện có ở nước Nga trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, “các
thành phần của kết cấu kinh tế-xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào.
tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó. Chúng ta hãy kể ra những thành phần
kinh tế ấy:
-Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
- Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số
nông dân bán lúa mì);
- Chủ nghĩa tư bản tư nhân;- Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
- Chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, so với tính quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nước nga với hoàn cảnh đặc thù là xuất phát từ trình độ phát triển tương đối thấp của
chủ nghĩa tư bản, bên cạnh những thành phần kinh tế phổ biến như chủ nghĩa tư bản tư
nhân, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa xã hội, vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế nông
dân gia trưởng, thể hiện những trình độ phát triển thấp hơn, đồng thời hình thành thành
phần kinh tế mới chủ nghĩa tư bản nhà nước, hình thức trung gian quá độ, thể hiện sự đan
xen, kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là chủ nghĩa
tư bản tư nhân.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
2.1. Hồ Chí Minh và vai trò của người trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Hồ Chí Minh – nhà lãnh tụ đại, một người có vai rất quan trọng trong quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta. Điều đó thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Đầu tiên, bàn về lãnh đạo, người là nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ta.
Người đã vận dụng các nguyên tắc chủ nghĩa xã hội để thúc đẩy cuộc cách mạng bằng
vệc xác định mục tiêu giành độc tập, tự do và chủ quyền cho dân tộc thông qua xây dựng
một xã hội công bằng và bình đẳng.
Bác Hồ còn đóng vai trò trong việc gắn kết cũng như thống nhất dân tộc. Người đã
khéo léo xây dựng sự đoàn kết và thống nhất giữa các tầng lớp, tôn giáo. Bên cạnh đó,
qua việc đề cao tinh thần đoàn kết và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia cả tất cả mọi
người, người đã tạo ra một phong trào đại chúng mạnh mẽ và đánh bại quân đội đế quốc
Pháp.
Xây dựng Đảng và quân đội là một khía cạnh không thể thiếu khi nói đến vai trò của
bác trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt nam. Người đã đưa ra các chiến lược,
lOMoARcPSD| 45568214
3
phương pháp tổ chức và lãnh đạo trong việc chiến đấu chống lại các thế lực thù địch
đạt được mục tiêu giành độc lập chủ nghĩa xã hội, từ đó xây dựng Đảng Cộng sản Việt
nam và quân đội miền Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Khía cạnh cuối cùng chính là xây dựng xã hội công bằng và phát triển kinh tế. Sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chính sách và biện pháp xây dựng
một xã hội công bằng, phát triển kinh tế, đảm bảo phúc lợi cho nhân dân. Người tập trung
vào việc nâng cao mức sống của người dân, đẩy mạnh chương trình đổi mới kinh tế và
phát triển ngành công nghiệp, nông nghiệp cũng như giáo dục. Phát triển kinh tế phải đi
chung với xây dựng xã hội công bằng.
Hồ Chí Minh đã có đóng góp rất to lớn vào quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam thông qua vai trò lãnh đạo, chính trị, gắn kết dân tộc, xây dựng Đảng và quân
đội cũng như xây dựng xã hội công bằng và phát triển kinh tế. Người được coi là một
trong những nhân vật quan trọng và tôn vinh của lịch sử Việt Nam.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam quan
niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một hội thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa hội. Chính
ở nội dung cụ thể này Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
-Thời kỳ quá độ có các đặc điểm:
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta có đặc
điểm lớn nhất từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống hội làm sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất
của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng
dân tộc dân chủ so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này
đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nammột quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội, xây dựng các
tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa
,
tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo xây dựng, trong đó
lấy xây dựng làm trọng tâm, nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
lOMoARcPSD| 45568214
4
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội. Tính chất phức tạp khó khăn của được Hồ Chí Minh giải trên các
điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống hội,
cả lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, cả sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng.
đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
chưa kinh nghiệm, nhất trên lĩnh vực kinh tế. Đây công việc hết sức mới mẻ đối
với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
2.3. Quan điểm của HChí Minh về cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ n
CNXH ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc
trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta
trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức
sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản
xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét
về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế
còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng
mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ,
vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản
chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao
gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp - Kinh tế cá nhân của nông dân và của
thủ công nghệ.
- Kinh tế tư bản của tư nhân.
- Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội
lOMoARcPSD| 45568214
5
chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần kinh
tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với
chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục
kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Trên cơ sở
nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai
đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo
tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành phần kinh tế phổ biến,
kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như vậy, đây chính là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh
tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp, đội
ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình thế
giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu thuẫn.
Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng rõ. Từ thực tiễn
miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức sỡ hữu cơ
bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu
hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ,
một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản” Với sự đa dạng của quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế đang tồn tại và hoạt
động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C- Kinh tế của nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là
nữa CNXH).
D- Tư bản của tư nhân.
E- bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với bản nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế
ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa hội chứ không theo hướng chủ nghĩa bản”
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới Miền Bắc Việt Nam sau
năm 1954 so với cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 những điểm
thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh tế
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại khách
quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh tế quốc
lOMoARcPSD| 45568214
6
doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư nhân. Thành phần
kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước.
- Điểm thay đổi
Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành phần
kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về ruộng
đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều này một
lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc
phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh tế
quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu tiên
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH và thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh
đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành thành phần
kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền kinh tế và
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc doanh là
công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó".
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; tư bản của Nhà nước trở nên
phố biến, vững chắc và phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng định,
kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông nghiệp là
khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kinh nghiệm qua
chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình thức tổ đổing
và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta phát triển từng
bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hóa nông nghiệp nhất định thành
công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với những nhà tư sản công
thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ;
mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế
hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo
theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác”. Kinh tế tư bản Nhà nước, được Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ các nhà tư bản đi
theo chủ nghĩa xã hội và hướng dẫn hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Đây
là thành phần kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm
hướng thành phần kinh tế này quay trở lại phục vụ chủ nghĩa xã hội. Kinh tế của cá nhân,
nông dân và thủ công nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng, “Đối với người làm thủ công và lao
động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản
xuất theo nguyên tắc tự nguyện”. “Đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác và
đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời nó mở mang và tăng cường lực
lượng của thành phần kinh tế quốc doanh, thúc đẩy việc phát triển kinh tế theo chủ nghĩa
xã hội”.
lOMoARcPSD| 45568214
7
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ
mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Người khi
kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm bảo tính quy luật
chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có các thành phần kinh
tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức đó có ý nghĩa vô cùng
to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra các quyết sách đúng đắn
trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc trước đây và trên phạm
vi cả nước.
II. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Qúa trình đổi mới kinh tế và những mục tiêu mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ đổi mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng
trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm 1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại
hội VI là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những
quy luật khách quan… Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn c quy luật thông qua
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt,
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người
mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã
hội chủ nghĩa được củng cố”
.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa hội theo phương hướng hội chủ
nghĩa hoá toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
phát triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều cần phải mở ra một phương hướng
mới để đi lên chủ nghĩa hội. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên chủ nghĩa
hội, chủ nghĩa cộng sản một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều bước
đường khác nhau. Đó là cả một quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ thực
tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh sự dập khuân, máy móc. Lênin đã chỉ
ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất
khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
người hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn tr
thành lạc hậu với cuộc sống.
Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã
đề ra chtrương thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết đổi mới duy. Đổi
mới duy không nghĩa phủ nhận những thành tựu luận đã đạt được, phủ nhận
những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, phủ nhận đường lối
đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Đảng nhận thấy nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cấu kinh
tế, tiến hành cải tạo hội chủ nghĩa trong chế quản kinh tế. Chính vậy
tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng mọi
lOMoARcPSD| 45568214
8
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất ớc sử dụng
hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng xác
định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho thật sự mang bản chất
hội chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây,
những năm trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cấu kinh tế nhiều thành phần nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùngvới
bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công,nông
dân thể, những người buôn bán kinh doanh dịch vụ thể); kinh tế bản nhân,
kinh tế bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công hợp doanh; kinh
tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng o dân tộc thiểu số Tây Nguyên
các vùng khác.
Đảng khẳng định: chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng nói
trên mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn.
Việc thừa nhận nền kinh tế cấu nhiều thành phần thhiện sự nhận thức mới của
Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Lênin đã từng khẳng định: “Về luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời
kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm đặc trưng
của cả hai kết cấu kinh tế hội ấy”. một đoạn khác, nin giải thích hơn: Vậy thì,
danh từ quá độ nghĩa gì? vận dụng vào kinh tế phải có nghĩa trong chế độ hiện
nay những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa bản lẫn chủ
nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận có. Tuy chúng ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với tính cách là một chế độ xã hội, nhưng
chúng ta vẫn có thể sử dụng những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Do vậy, sự
tồn tại của những thành phần kinh tế bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội một điều hiển nhiên, nằm trong quy luật của sự phát triển nói chung, của sự
phát triển xã hội nói riêng.
Từ thực tiễn đất nước sau thập kỷ đầu tiên cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng
ta rút ra kết luận: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá
xa so vớ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi
phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ,
đến quy mô lớn. Trong mỗi bước đi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó tiếp tục đưa
quan hệ sản xuất mới tiến lên hình thức quy mới thích hợp để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển”.
lOMoARcPSD| 45568214
9
2. Sự vận dụng tưởng Hồ Chí Minh của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân vào thời kỳ đổi mới, một
trong những lĩnh vực được Đảng đặc biệt quan tâm đó là đường lối về phát triển kinh tế
nhiều thành phần, xây dựng mô hình kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều
thành phần đã trở thành nền tảng tư tưởng dặc biệt quan trọng giúp cho Đảng ngày càng
hoàn thiện về đường lối phát triển kinh tế thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, những
tư tưởng này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta.
Từ Đại hội VI đến nay, quan điểm phát triển nhiều loại hình sở hữu và kinh tế nhiều thành
phần luôn được Đảng và nhà nước ta bổ sung và ngày càng hoàn hiện.
Về hình thức sở hữu của nền kinh tế: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định
tính đa dạng của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường. Đến đại hội IX, Đảng
ta xác định 3 hình thức sở hữu và tồn tại, bao gồm: “sở hữu toàn dân, sỡ hữu tư nhân, sở
hữu tập thể”. Về thành phần kinh tế: Đảng có những quan điểm phát triển kinh tế nhiều
thành phần ở các kỳ Đại hội. Trong đó, mỗi thành phần Đảng có những quan điểm chiến
lược khác nhau, song quan điểm chiến lược của Đảng vẫn là phát triển kinh tế nhiều
thành phần.Về số lượng thành phần kinh tế mỗi kỳ Đại hội được Đảng ta xác định khác
nhau, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được
nêu lên tại Đại hội VII. Đảng đã đưa ra quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Đảng xác đụng 5 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản nhân liên doanh sản xuất. Đại hội VIII (1996) của
Đảng đã thừa nhận 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế tư cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2001 – 2010 được Đảng nêu tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm
2001, đã được xác định có 6 thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Đến đại hội X, Đảng hoàn thiện hơn trong việc xác định các
thành phần kinh tế, với 5 thành phần kinh tế chính: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.
Với thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, luôn được Đảng xác định “ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, “là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết
cậu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng”. Đối với thành phần
kinh tế khác luôn được Đảng tạo mọi điều kiện phát triển để từng bước đi vào con đường
làm ăn hợp tacs trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Đảng nhấn mạnh sẽ
tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư
lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành
phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản
nhà nước. “Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính
sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát
triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác
nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật
định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
lOMoARcPSD| 45568214
10
nhau nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh
tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021), khi đánh giá kết quả thực hiện nghị
quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận định “Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển, kinh tế vĩ mô ổn định, vững
chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải
thiện”. Đánh giá về các thành phần kinh tế, đại hội XIII cho rằng “các doanh nghiệp nhà
nước từng bước được sắp xết, tổ chức lại có hiệu quả hơn, kinh tế tư nhân ngày càng được
khẳng định là một động lực quan trọng trong nền kinh tế, kinh tế tập thể từng bước gắn
với cơ chế thị trường, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế nước ta.”. Trên cơ sở đánh giá đó, Đại hội XIII cũng xác định
mục tiêu phát triển kinh yế - xã hội đến năm 2030 và tầm nhàn 2045, Đảng nhấn mạnh
mục tiêu tổng quát của chúng ta “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta đã trở thành
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu củ thể: Đến năm 2025, kỷ
niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát
triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến
năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao”. Để đại được mục tiêu tổng quát và những mục tiêu cụ
thể đó, một trong những giải pháp được Đảng nêu lên đó là tiếp tục hoàn thiện toàn diện,
đồng bộ thể chế, phát treenr kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ cấu
kinh tế, Đảng tiếp tục khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà
nước có vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển, kinh tế tư tư nhân là một động lực quan trọng, kinh tế có vồn đầu tư nước ngaoif
được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và phát triển kinh tế - xã
hội.”
Như vậy, xuyên suốt lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Đảng luôn thực hiện nguyên tắc xây dựng nền kinh tế có đa dạng loại hình sở hữu và kinh
tế nhiều thành phần, trong đó vẫn xác định kinh tế Nhà nước là xương sống, chủ đạo có
vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, và cũng tạo mọi điều kiện tối đa phát triển các
thành phần kinh tế khác. Tùy vào bối cảnh lịch sử, Đảng đã có những đường lối, chính
sách phù hợp với thực tiễn để tạo nên động lực to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất
nước.
3. Thành tựu sự vận dụng của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần
nước ta trong thời kỳ đổi mới.
-Tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên.
Tớc năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì,
nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng
kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập
thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn
dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư
lOMoARcPSD| 45568214
11
nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời
(trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10
năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà
nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn
thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và
kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và
quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để tạo nên sự chuyển biến thần k
của sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa có khối
lượng lương thực xuất khẩu lớn (từ 1989 đến nay đã xuất khẩu gần 50 triệu tấn gạo, thu
được trên 11 tỉ USD); vừa phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế, tỷ trọng của kinh tế ngoài
nhà nước đã đạt gần 30%, tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,7%, đều
cao hơn tỷ trọng 27,4% của khu vực nhà nước.
Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, khu vực nhà nước
đã giảm mạnh (từ 30,4% năm 1990 xuống còn 12,9% năm 2005), khu vực ngoài nhà nước
đã tăng lên nhanh (tương ứng từ 69,6% lên 87,1%), trong đó cá thể 60,2%, tư nhân
22,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3,8%, tập thể chỉ còn 1%.
Trong tổng số lao động đang làm việc của cả nước, khu vực kinh tế ngoài nhà nước
chiếm tỷ trọng cao nhất (88,7%), khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ (9,7%), còn khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng còn chiếm tỷ trọng thấp (1,6%). Trong tổng số lao
động đang làm việc tăng thêm, thì khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đã tăng mạnh hơn khu vực nhà nước.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm 53,6%, khu vực ngoài
nhà nước chiếm 30,9%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 15,5%;
nếu tách riêng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thì tỷ trọng vốn đầu tư nước
ngoài đạt gần 40%.
Như vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của đổi mới là nền kinh tế đã
chuyển từ chỗ dựa trên hai loại hình chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sang
nền kinh tế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước tiếp
tục đổi mới, sắp xếp lại, từ trên 13 nghìn nay còn trên 4,5 nghìn; riêng trong 5 năm qua đã
cổ phần hóa 2.254 doanh nghiệp, giao, bán, khoán, cho thuê 139 doanh nghiệp...
-Tạo ra nhiều cơ hội làm việc và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, cơ hội việc làm tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp của Việt
Nam giảm đáng kể trong thời kỳ đổi mới.
Giai đoạn 2015-2020, lực lượng lao động Việt Nam việc làm tăng đều qua các năm
(ngoại trừ năm 2020, tình trạng người lao động bị mất việc làm tăng, do ảnh hưởng của đại
dịch COVID-19).
Theo Tổng cục Thống (2021), số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên “công ăn,
việc làm” tăng đều qua từng năm, với tốc độ tăng trung bình khoảng 0,48% trong giai đoạn
2015-2019. Riêng m 2020, cả nước 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng
lOMoARcPSD| 45568214
12
tiêu cực bởi dịch COVID-19 bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc hoặc nghỉ
luân phiên, giảm giờ làm.
Xét về cấu lao động, giai đoạn 2015-2020 sự chênh lệch khá lớn giữa các khu
vực kinh tế. Cụ thể, trong giai đoạn này có sự chuyển dịch rệt trong cấu lao động giữa
các khu vực: Nếu như năm 2015 cơ cấu lao động KV1 chiếm tới 45,73%; KV2 chiếm
24,19%; KV3 chiếm 30,08%, thì đến năm 2020 tỷ trọng lao động trong các KV1, 2, 3 lần
lượt là: 34,78%; 32,65%; 32,57%.
Tốc độ giảm trung bình lao động KV1 5,4%; tốc độ tăng trưởng lao động trung bình
trong KV2 KV3 lần lượt 6,6% 1,7%. Mặc dù, tốc độ tăng trưởng lao động chậm
nhưng có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu lao động giữa các khu vực. Điều đó cho thấy, cả 3
khu vực đều có sự dịch chuyển lao động.
Từ đầu năm 2021 đến nay, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nặng nề,
nhưng các địa phương kiên định thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh,
bảo vệ sức khỏe người dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - hội. Nhờ thực hiện chủ
trương đúng đắn này, tlệ lao động m việc tại các khu vực doanh nghiệp trong 6 tháng
đầu năm 2021 chỉ giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2020.
Đáng chú ý, tỷ trọng lao động làm việc trong các khu vực không có sự biến động lớn
trong nửa đầu năm 2021, theo đó tỷ trọng lao động KV1 chiếm 27,9%, tăng 1,9%; KV2
chiếm 32,8%, tăng 0,5%; KV3 chiếm 39,3%, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2020 (Tổng
cục Thống kê, 2021).
- Xóa đói giảm nghèo.
Sự đổi mới trong chế quản vận hành nền kinh tế nhiều thành phần cùng chủ
trương xây dựng công bằng hội gắng với phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời k
đổi mới đã làm tỷ lệ người nghèo theo chiều hướng giảm dần. Chỉ 5 năm, giao đoạn 1992
– 1993 đến 1997 1998, tỷ lệ người nghèo Việt nam đã giảm gần một nửa, đây thực sự
là một tốc độ giảm nghèo đáng kinh ngạc. Tỷ lệ người nghèo giảm mạnh ở khu vực thành
thị (-61,3%). Khu vực nông thôn, tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể nhưng vẫn cao so với tỷ
lệ dân số. Về khu vực địa thì vùng Đông Nam Bộ mức giảm nghèo nhanh nhất (76,8%)
và chiếm tỷ lệ nghèo thấp nhất cả nước (7,6%), nguyên nhân do đây vùng kinh tế trọng
điểm, tập trung các trung tâm kinh tế công nghiệp lớn của cả nước, giải quyết công ăn
việc làm tăng thu nhập cho người dân. Vùng miền núi phía Bắc thời kỳ này tuy đã
bước tiến đáng kể trong giảm số hộ nghèo tới một phần tư (-25,4%) nhưng vẫn là vùng
tỷ lệ người nghèo cao nhất cả nước (58,6%).
-Mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế.
Chính sách đổi mới và vận dụng linh hoạt của Đảng đã tạo điều kiện để Việt Nam mở
cửa kinh tế và hội nhập quốc tế. Qua đó, nền kinh tế Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn
đầu trực tiếp từ nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ
nông nghiệp. Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc
gia vùng lãnh thỗ, trong đó 74 nước áo dụng qui chế tối huệ quốc, thiết laoaj
kết hiệp ước thương mại 2 chiều với gần 90 nước vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim
ngạch xuất khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt
Nam đạt 20,3 tỷ USD, năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD.
lOMoARcPSD| 45568214
13
4. Hạn chế trong xây dựng kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam trong thờ kỳ đổi mới.
Đường lối kinh tế nhiều thành phần đã mang lại nhiều lợi ích cho đất nước ta, tuy
nhiên, song hành với đó, cũng tồn rại một số hạn chế cần được cải thiện để đảm bảo phát
triển bền vững.
Hạn chế thứ nhất cũng quan trọng, đó sự chênh lệch đáng kể giữa các thành phần
kinh tế. Trong suốt quá trình xây dựng kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước vẫn
chiếm vị trí quan trọng và có lợi thế hơn so với các thành phần tư nhân. Doanh nghiệp nhà
nước thường được ởng nhiều ưu đãi nguồn lực từ nhà ớc, trong khi các doanh
nghiệp nhân thì vấp phải nhiều khó khăn rào cản. Điều này gây ra sự bất công
không đảm bảo trạng thái cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Hạn chế thứ hai thiếu sự đồng thuận trong việc xây dựng một môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù có sự phát triển đáng chú ý của các
doanh nghiệp nhân, song vẫn n nhiều rào cản quy định phức tạp gây trở ngại cho
hoạt động kinh doanh của họ. Quy trình thủ tục hành chính phức tạp, biên chế quá nhiều,
quyền sở hữu đất đai không ràng và tham những những vấn đề tiêu cực cản trỏ sự phát
triển của các doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba sự thiếu thống nhất trong việc thúc đẩy hội nhập tương tác giữa các thành
phần kinh tế. Sự phát triển không đồng đều giữa các thành phần đã tạo ra khoảng cách v
công nghệ quản lý và nguồn lực giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Điều nay gây
khó khăn cho việc tạo ra sự tương tác và trao đổi thông tin giữa các thành phần, từ đó hạn
chế khả năng học hỏi và chuyên giao công nghệ giữa chúng.
Thứ tư là sự thiếu hụt về nhân lực chất lượng cao trong các ngành kinh tế mới n
công nghệ thông tin và năng lượng tái tạo. Phát triển nguồn nhân chất lượng cao là một
điều tất yếu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định
trong thời đại tri thức mới. Thế nhưng hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
lại rơi vào tình trạng thiếu hụt. Mặc dù sự gia tăng về dân số kéo theo số lượng nguồn
nhân lực trong độ tuổi lao động tăng trưởng mạnh. Thế nhưng con số đạt chất lượng cao,
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp lớn vẫn còn hạn chế. Một trong
những nguyên nhân xuất phát từ công tác giáo dục đào tạo chưa thực sự phù hợp. Lao
động trong nước vẫn chủ yếu là lao động phổ thông. Hoạt động vẫn chủ yếu trong lĩnh
vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, cơ cấu nhân lực lao động cũng còn nhiều bất cập.
Tính đến tháng 3/2021, cả nước có 417,3 nghìn người có chuyên môn kỹ thuật bị thất
nghiệp (chiếm 39,7%), nhưng người có trình độ đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao
nhất (155,5 nghìn người).
Hạn chế thứ năm là sự thiết hụt vốn đầu tư và công nghệ trong các ngành kinh tế
mới. Mặc dù có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự
thiếu hụt vốn đầu tư để phát triển các ngành kinh tế mới. Điều này gây ảnh hưởng đến
khả năng nghiên cứu và phát triển, mua sắm thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng
thu hút nhân lực chất lượng cao. Các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tinm trí tuệ
nhân tạo, năng lượng tái tạo, y tế công nghệ cao… đòi hỏi sự áp dụng công nghệ tiên tiến,
tuy nhân, Việt Nam vẫn đang thiếu nền tảng công nghệ cần thiết để cạnh tranh trong thế
giới kỹ thuật số. Sự thiếu hụt này có thể dẫ đến Việt Nam không thể tạn dụng hết tiềm
năng của các ngành kinh tế mới.
lOMoARcPSD| 45568214
14
Thứ sáu, Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các
nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ
thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu
tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các
dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết
các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so vi
các nước trong khu vực.
Thứ bảy, việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế cũng đặt ra một thách thức khác cho Việt
Nam, việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc tế có thể
mang lại nhiều hội lợi ích cho Việt Nam, tuy nhiên cũng đồng nghĩa với việc phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối tác kinh tế khác. các doanh nghiệp sức cạnh
tranh kém, quy nhỏ nguy phá sản; mất việc làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực
phi chính thức; chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH… do cấu lại
nguồn nhân lực cộng với lao động dôi từ các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá,
sẽ tạo ra các áp lực lớn về việc làm cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong
các doanh nghiệp sẽ mất việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được u cầu
mới đặt ra. Điều này gây tác động xấu về mặt hội, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên,
người lao động mất việc làm, giảm thu nhập…
Cạnh tranh về lao động trình độ cao sẽ ngày càng gay gắt. Hội nhập, toàn cầu hoá trở
thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt lao động kỹ thuật, trình độ quản
lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam nhiều n, đồng thời lao động của Việt
Nam cũng di chuyển ra ớc ngoài nhiều hơn. Cạnh tranh trnên gay gắt hơn, nhiều doanh
nghiệp bị phá sản, nhiều người lao động bị mất việc làm; tốc độ đô thị hoá nhanh, người
nông dân bị thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thiếu đất canh tác… 5. Đề xuất biện pháp.
Biện pháp đầu tiên, Đảng ta phải tập trung bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ các nhận
thức luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ hội chủ nghĩa
và xây dựng một nền kinh tế phù hợp nhất với điều kiện mới của đất nước cũng như là thế
giới, củ thể đó nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, một nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Biện pháp thứ hai cần lưu ý là đa dạng hóa nền kinh tế. Đảng ta cần phát triển đồng
đều các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và thương mạnh. Điều này giúp đa dạng
hóa nền kinh tế, giảm phụ thuộc vào một số ngành kinh tế cụ thể và tạo ra sự cân bằng cân
đối trong phát triển kinh tế.
Thứ ba chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Quá độ từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp dịch vụ là quá trình cần thiết
để tăng ờng năng suất lao động và giá trị gia tăng của nền kinh tế. Đồng thời, việc phát
triển ngành công nghiệp dịch vsẽ tạo ra nhiều hội việc làm tăng thu nhập cho
dân cư.
Thứ , khuyến khích đầu phát triển c ngành kinh tế mới. Cần tạo điều kiện
thuận lợi để đầu phát triển các ngành kinh tế mới như ng nghệ thông tin, năng lượng
tái tạo, du lịch, và các ngành kinh tế sáng tạo khác. Điều này giúp tăng cường khả năng sản
xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường và mang lại sự đổi mới và tăng trưởng bền vững cho nền
kinh tế.
lOMoARcPSD| 45568214
15
Thứ năm, tăng cường hợp tác công tư: Khuyến khích sự hợp tác giữa doanh
nghiệp nhân doanh nghiệp nhà nước, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp
tổ chức sản xuất và kinh doanh trong môi trường thoải mái và công bằng. Sự hợp tác công
thể góp vào việc đẩy mạnh đầu , mở rộng quy sản xuất và nâng cao hiệu suất
kinh doanh.
Thứ sáu, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Cần đầu tư vào
cơ sở hạ tầng với hướng tiếp cận hiện đại, bao gồm giao thông, viễn thông, năng lượng
hạ tầng kỹ thuật. Đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế bằng cách
đẩy mạnh công nghệ, quản lý chất lượng, và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Tiếp theo, thứ bảy bảo vệ môi trường phát triển bền vững. Việc thiết lập
cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ cần được xây dựng theo hướng bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Cần tuân thủ theo tiêu chuẩn môi trường, sử dụng công nghệ xanh, và
khuyến khích cavs ngành kinh tế có tính bền cững và thân thiện với môi trường.
Thứ tám, tăng cường giáo dục và đạo tạo nhân lực để đáp ứng với nhu cầu của thị
trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. nhân lực tốt thì các ngành
kinh tế mới phát triển bền vững.
Thứ chín, tinh giản các quy trình thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp các nhà đầu tư. Điều này giúp đẩy mạnh xây dựng các khu công
nghiệp, chế biến và thu hút các doanh nghiệp đầu tư trong và ngoàiớc giúp tăng cường
lực lượng sản xuất của Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế.
Bên cạnh đó cũng phải hộ trợ c doành nghiệp vừa nhỏ để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo một nền kinh tế phát triển bền vững với các sản phẩm
dịch vụ có chất lượng ngày càng đi lên.
Và cuối cùng là khuyến khích, xây dựng các khu kinh tế đặc biệt để tăng cường sự
phát triển nền kinh tế các khu vực khó khăn. Như thế sẽ tối ưu được các nguồn lực kinh
tế từ mọi nơi trên cả nước tận dụng được các nguồn tài nguyên thiên nhên. Và ng từ
đó,mà thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các vùng.
Phía trên các giải pháp được đề xuất để giúp Đảng Việt Nam ta phát triển kinh tế
toàn diện và bền vững trong thời kỳ quá độ, đóng góp phát triển đất nước, nhân dân cuộc
sống tốt đẹp.
Kết luận
Hồ Chí Minh đã nhận rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế trong sự phát triển toàn
diện của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Để xây dựng một xã hội công bằng và giàu có thì
việc phát triển kinh tế là không thể thiếu. Và để phát triển nền kinh tế bền vững thì phải có
sự hợp trong cơ cấu thành phần kinh tế từ việc phân chia sắp xếp các ngành kinh tế trong
hội. Hồ Chí Minh ng khẳng định cần đẩy mạnh và phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Quan điểm đó của người đã được áp dụng rộng rãi trong bao năm thời kỳ đổi mới của nước
ta. Đó quan điểm hợp lý, sâu sắc, góp phần lớn cho sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.
Nhận thức sâu sắc và vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng
đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hình các chính sách
lOMoARcPSD| 45568214
16
biện pháp để thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ tính linh hoạt trong vận dụng,
qua 35 năm đổi mới, Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong kinh tế, đời sống
nhân dân được nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong quá trình xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng vẫn đang áp dụng những giải pháp cụ thể, hợp lý
để giải quyết những hạn chế còn tồn tại.
Tóm lại, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta là một yếu tố quan trọng để
phát triển nền kinh tế Việt Nam ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam.
đường lối nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới con đường đúng đắn
khi Việt Nam đã có nhiều thành tựu kinh tế qua 35 năm đổi mới. Đảng đã và đang tiếp tục
thực hiện các biện pháp đúng đắn cũng nlinh hoạt giải quyết các hạn chế trong công
cuộc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để góp phần tạo nên thành công cho thời kỳ
đổi mới, nâng cao, cải thiện mức sống của người dân.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxh chính trị quốc gia Nội 2011,
trang 372 - 373
2.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,
Nxb CTQG-ST, 2021
3.Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, tập
1, nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2010
4.Báo điện tử Đảng cộng Sản Việt Nam
5. Tạp chí tài chính
6.Tạp chí điện tử lí luận chính trị
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng
trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thùy Linh MSV:
11223673 Lớp tín chỉ: 09
Giảng viên: TS Nguyễn Chí Thiện HÀ NỘI – 2023 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45568214
Mở đầu……………………………………………………………………………tr.1 I.
Cơ sở lý luận………………………………………………………………........tr.2
1. Quan điểm của Mác Lê Nin về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
……………………………………………………………………………………..tr.2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam………………………………………………………………….............tr.2
2.1. Hồ Chí Minh và vai trò của người trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam………………………………………………………………………….......tr.2
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
…………………………………………………………………………………...tr.3
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam…………………………………………………………………tr.4
II. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay……………………………………………………………tr.7
1. Qúa trình đổi mới kinh tế và những mục tiêu mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ đổi mới.
…………………………………………………………………………………...…tr.7
2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới………………………………………………..tr.9
3. Thành tựu sự vận dụng của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới……………………………………………………………..tr.10
4. Hạn chế trong xây dựng kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam trong thờ kỳ đổi mới.
…………………………………………………………………………………...…tr.12
5. Đề xuất giải pháp…………………………………………………………………tr.14
Kết luận……………………………………………………………………………..tr.16
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………….....tr.17 lOMoAR cPSD| 45568214 Lời mở đầu
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người đã thấm nhuần quan điểm của
Mác – Lênin và trên cương vị là một nhà lãnh đạo, người đã đưa ra những quan điểm chỉ
đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp nông nghiệp quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta. Do đó, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng cộng sản và nhân dân Việt nam, đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan,
là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Và bất kỳ nước nào tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì đều phải trải qua thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, Việt Nam xuất phát từ một nước nông
nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp vẫn còn tồn tại khá nặng. Những hệ quả của trạng thái bao cáo tư duy vẫn còn, chưa
thực sự sặc sàng hội nhập. Do vậy, phát triển kinh tế đã trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số
một của toàn Đảng nhân dân. Thật sự thì đó là một quá trình đầy khó khăn và gian khổ.
Chưa có một tiền lệ lịch sử nào như thế trước đây. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần
phải xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, đảm bảo sự cân đối trong phát triển kinh tế,
tạo điều kiện cho phát triển các ngành kinh tế mới cũng như đa dạng hóa các ngành kinh
tế, từ đó làm bàn đạp đổi mới kinh tế nước ta theo đường lối kinh tế nhiều thành phần.
Tóm lại, yếu tố quan trọng để được được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là đổi mới kinh tế và để làm được điều đó thì phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp
lý. Nhận thức được điều này, em đã chọn phân tích đề tài “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân
tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?”. Do trình độ cũng như hiểu biết còn hạn chế,
nếu có gì sai sót mong thầy bỏ qua. I. Cơ sở lí luận 1.
Quan điểm của Mác Lê Nin về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH .Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với bất kỳ quốc gia
nào đi lên xã hội chủ nghĩa, bất kể nước đó có nên kinh tế kém hay rất phát triển. Tất nhiên
là đối với các nước có nền kinh tế phát triển thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
nhiều thuận lợi cũng như có khả năng diễn ra ngắn hơn so với các nước có nền kinh tế lạc
hậu. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới – chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô
sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng
thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, 1 lOMoAR cPSD| 45568214
cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được quy định bởi đặc điểm của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Theo Mác và lênin, đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với các giai cấp, tầng lớp
XH khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của các giai cấp, tầng lớp này có sự biến đổi
sâu sắc. Lênin đã vận dụng sáng tạo những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa
cộng sản vào đặc thù lịch sử cụ thể nước Nga thông qua việc xác định các thành phần
kinh tế hiện có ở nước Nga trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, “các
thành phần của kết cấu kinh tế-xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà
tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó. Chúng ta hãy kể ra những thành phần kinh tế ấy:
-Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
- Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì);
- Chủ nghĩa tư bản tư nhân;- Chủ nghĩa tư bản nhà nước; - Chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, so với tính quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nước nga với hoàn cảnh đặc thù là xuất phát từ trình độ phát triển tương đối thấp của
chủ nghĩa tư bản, bên cạnh những thành phần kinh tế phổ biến như chủ nghĩa tư bản tư
nhân, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa xã hội, vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế nông
dân gia trưởng, thể hiện những trình độ phát triển thấp hơn, đồng thời hình thành thành
phần kinh tế mới chủ nghĩa tư bản nhà nước, hình thức trung gian quá độ, thể hiện sự đan
xen, kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản tư nhân. 2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
2.1. Hồ Chí Minh và vai trò của người trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh – nhà lãnh tụ vĩ đại, một người có vai rất quan trọng trong quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta. Điều đó thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Đầu tiên, bàn về lãnh đạo, người là nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ta.
Người đã vận dụng các nguyên tắc chủ nghĩa xã hội để thúc đẩy cuộc cách mạng bằng
vệc xác định mục tiêu giành độc tập, tự do và chủ quyền cho dân tộc thông qua xây dựng
một xã hội công bằng và bình đẳng.
Bác Hồ còn đóng vai trò trong việc gắn kết cũng như thống nhất dân tộc. Người đã
khéo léo xây dựng sự đoàn kết và thống nhất giữa các tầng lớp, tôn giáo. Bên cạnh đó,
qua việc đề cao tinh thần đoàn kết và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia cả tất cả mọi
người, người đã tạo ra một phong trào đại chúng mạnh mẽ và đánh bại quân đội đế quốc Pháp.
Xây dựng Đảng và quân đội là một khía cạnh không thể thiếu khi nói đến vai trò của
bác trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt nam. Người đã đưa ra các chiến lược, 2 lOMoAR cPSD| 45568214
phương pháp tổ chức và lãnh đạo trong việc chiến đấu chống lại các thế lực thù địch và
đạt được mục tiêu giành độc lập chủ nghĩa xã hội, từ đó xây dựng Đảng Cộng sản Việt
nam và quân đội miền Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Khía cạnh cuối cùng chính là xây dựng xã hội công bằng và phát triển kinh tế. Sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chính sách và biện pháp xây dựng
một xã hội công bằng, phát triển kinh tế, đảm bảo phúc lợi cho nhân dân. Người tập trung
vào việc nâng cao mức sống của người dân, đẩy mạnh chương trình đổi mới kinh tế và
phát triển ngành công nghiệp, nông nghiệp cũng như giáo dục. Phát triển kinh tế phải đi
chung với xây dựng xã hội công bằng.
Hồ Chí Minh đã có đóng góp rất to lớn vào quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam thông qua vai trò lãnh đạo, chính trị, gắn kết dân tộc, xây dựng Đảng và quân
đội cũng như xây dựng xã hội công bằng và phát triển kinh tế. Người được coi là một
trong những nhân vật quan trọng và tôn vinh của lịch sử Việt Nam.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan
niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính
ở nội dung cụ thể này Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
-Thời kỳ quá độ có các đặc điểm:
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
- Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất
của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng
dân tộc dân chủ so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này
đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó
lấy xây dựng làm trọng tâm, nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài. 3 lOMoAR cPSD| 45568214
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lý giải trên các điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội,
cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó
đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối
với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc
trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta
trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức
sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản
xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét
về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại
của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế
còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng
mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, ở
vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản
chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp - Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. - Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội 4 lOMoAR cPSD| 45568214
chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần kinh
tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với
chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục
kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Trên cơ sở
nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước. Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai
đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo
tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành phần kinh tế phổ biến,
kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như vậy, đây chính là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh
tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp, đội
ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình thế
giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu thuẫn.
Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa sáng rõ. Từ thực tiễn
miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức sỡ hữu cơ
bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu
hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ,
một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản” Với sự đa dạng của quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế đang tồn tại và hoạt
động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nữa CNXH). D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế
ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau
năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở những điểm
thống nhất và có những điểm thay đổi sau: -
Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh tế
cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại khách
quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh tế quốc 5 lOMoAR cPSD| 45568214
doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư nhân. Thành phần
kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. - Điểm thay đổi
Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành phần
kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về ruộng
đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều này một
lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc
phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh tế
quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu tiên
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH và thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh
đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành thành phần
kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền kinh tế và
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc doanh là
công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó".
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; tư bản của Nhà nước trở nên
phố biến, vững chắc và phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng định,
kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông nghiệp là
khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kinh nghiệm qua
chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình thức tổ đổi công
và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta phát triển từng
bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hóa nông nghiệp nhất định thành
công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với những nhà tư sản công
thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ;
mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế
hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo
theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác”. Kinh tế tư bản Nhà nước, được Nhà nước khuyến khích, giúp đỡ các nhà tư bản đi
theo chủ nghĩa xã hội và hướng dẫn hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Đây
là thành phần kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm
hướng thành phần kinh tế này quay trở lại phục vụ chủ nghĩa xã hội. Kinh tế của cá nhân,
nông dân và thủ công nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng, “Đối với người làm thủ công và lao
động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản
xuất theo nguyên tắc tự nguyện”. “Đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành
phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác và
đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời nó mở mang và tăng cường lực
lượng của thành phần kinh tế quốc doanh, thúc đẩy việc phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã hội”. 6 lOMoAR cPSD| 45568214
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ
mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Người khi
kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm bảo tính quy luật
chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có các thành phần kinh
tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức đó có ý nghĩa vô cùng
to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra các quyết sách đúng đắn
trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc trước đây và trên phạm vi cả nước.
II. Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Qúa trình đổi mới kinh tế và những mục tiêu mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ đổi mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng
trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm 1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại
hội VI là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những
quy luật khách quan… Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt,
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người
mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã
hội chủ nghĩa được củng cố”.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ
nghĩa hoá toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
phát triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều là cần phải mở ra một phương hướng
mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều bước
đường khác nhau. Đó là cả một quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ thực
tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh sự dập khuân, máy móc. Lênin đã chỉ
ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất
khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
mà người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở
thành lạc hậu với cuộc sống.
Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã
đề ra chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi
mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận
những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối
đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu kinh
tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì vậy mà tư
tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng mọi 7 lOMoAR cPSD| 45568214
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có
hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng xác
định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho nó thật sự mang bản chất xã
hội chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây,
là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế đó là:
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùngvới
bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
– Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công,nông
dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh
tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Đảng khẳng định: chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng nói
trên mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn.
Việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận thức mới của
Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng khẳng định: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời
kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm và đặc trưng
của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”. Ở một đoạn khác, Lê nin giải thích rõ hơn: Vậy thì,
danh từ quá độ có nghĩa là gì? vận dụng vào kinh tế có phải có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ
nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Tuy chúng ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với tính cách là một chế độ xã hội, nhưng
chúng ta vẫn có thể sử dụng những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Do vậy, sự
tồn tại của những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một điều hiển nhiên, nó nằm trong quy luật của sự phát triển nói chung, của sự
phát triển xã hội nói riêng.
Từ thực tiễn đất nước sau thập kỷ đầu tiên cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng
ta rút ra kết luận: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá
xa so vớ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi
phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ,
đến quy mô lớn. Trong mỗi bước đi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó tiếp tục đưa
quan hệ sản xuất mới tiến lên hình thức và quy mô mới thích hợp để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển”. 8 lOMoAR cPSD| 45568214
2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân vào thời kỳ đổi mới, một
trong những lĩnh vực được Đảng đặc biệt quan tâm đó là đường lối về phát triển kinh tế
nhiều thành phần, xây dựng mô hình kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế nhiều
thành phần đã trở thành nền tảng tư tưởng dặc biệt quan trọng giúp cho Đảng ngày càng
hoàn thiện về đường lối phát triển kinh tế thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, những
tư tưởng này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta.
Từ Đại hội VI đến nay, quan điểm phát triển nhiều loại hình sở hữu và kinh tế nhiều thành
phần luôn được Đảng và nhà nước ta bổ sung và ngày càng hoàn hiện.
Về hình thức sở hữu của nền kinh tế: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định
tính đa dạng của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường. Đến đại hội IX, Đảng
ta xác định 3 hình thức sở hữu và tồn tại, bao gồm: “sở hữu toàn dân, sỡ hữu tư nhân, sở
hữu tập thể”. Về thành phần kinh tế: Đảng có những quan điểm phát triển kinh tế nhiều
thành phần ở các kỳ Đại hội. Trong đó, mỗi thành phần Đảng có những quan điểm chiến
lược khác nhau, song quan điểm chiến lược của Đảng vẫn là phát triển kinh tế nhiều
thành phần.Về số lượng thành phần kinh tế mỗi kỳ Đại hội được Đảng ta xác định khác
nhau, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được
nêu lên tại Đại hội VII. Đảng đã đưa ra quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Đảng xác đụng 5 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản nhân liên doanh sản xuất. Đại hội VIII (1996) của
Đảng đã thừa nhận 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế tư cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2001 – 2010 được Đảng nêu tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm
2001, đã được xác định có 6 thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Đến đại hội X, Đảng hoàn thiện hơn trong việc xác định các
thành phần kinh tế, với 5 thành phần kinh tế chính: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Với thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, luôn được Đảng xác định “ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, “là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết
cậu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng”. Đối với thành phần
kinh tế khác luôn được Đảng tạo mọi điều kiện phát triển để từng bước đi vào con đường
làm ăn hợp tacs trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Đảng nhấn mạnh sẽ
tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư
lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành
phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản
nhà nước. “Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính
sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát
triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác
nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật
định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác 9 lOMoAR cPSD| 45568214
nhau nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh
tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021), khi đánh giá kết quả thực hiện nghị
quyết Đại hội XII và cơ đồ đất nước sau 35 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận định “Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển, kinh tế vĩ mô ổn định, vững
chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải
thiện”. Đánh giá về các thành phần kinh tế, đại hội XIII cho rằng “các doanh nghiệp nhà
nước từng bước được sắp xết, tổ chức lại có hiệu quả hơn, kinh tế tư nhân ngày càng được
khẳng định là một động lực quan trọng trong nền kinh tế, kinh tế tập thể từng bước gắn
với cơ chế thị trường, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế nước ta.”. Trên cơ sở đánh giá đó, Đại hội XIII cũng xác định
mục tiêu phát triển kinh yế - xã hội đến năm 2030 và tầm nhàn 2045, Đảng nhấn mạnh
mục tiêu tổng quát của chúng ta “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta đã trở thành
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu củ thể: Đến năm 2025, kỷ
niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát
triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến
năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao”. Để đại được mục tiêu tổng quát và những mục tiêu cụ
thể đó, một trong những giải pháp được Đảng nêu lên đó là tiếp tục hoàn thiện toàn diện,
đồng bộ thể chế, phát treenr kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ cấu
kinh tế, Đảng tiếp tục khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà
nước có vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển, kinh tế tư tư nhân là một động lực quan trọng, kinh tế có vồn đầu tư nước ngaoif
được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội.”
Như vậy, xuyên suốt lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Đảng luôn thực hiện nguyên tắc xây dựng nền kinh tế có đa dạng loại hình sở hữu và kinh
tế nhiều thành phần, trong đó vẫn xác định kinh tế Nhà nước là xương sống, chủ đạo có
vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, và cũng tạo mọi điều kiện tối đa phát triển các
thành phần kinh tế khác. Tùy vào bối cảnh lịch sử, Đảng đã có những đường lối, chính
sách phù hợp với thực tiễn để tạo nên động lực to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
3. Thành tựu sự vận dụng của Đảng trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới.
-Tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Trong GDP, xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên.
Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì,
nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng
kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập
thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn
dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư 10 lOMoAR cPSD| 45568214
nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời
(trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10
năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà
nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn
thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và
kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và
quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu để tạo nên sự chuyển biến thần kỳ
của sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa có khối
lượng lương thực xuất khẩu lớn (từ 1989 đến nay đã xuất khẩu gần 50 triệu tấn gạo, thu
được trên 11 tỉ USD); vừa phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế, tỷ trọng của kinh tế ngoài
nhà nước đã đạt gần 30%, tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,7%, đều
cao hơn tỷ trọng 27,4% của khu vực nhà nước.
Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, khu vực nhà nước
đã giảm mạnh (từ 30,4% năm 1990 xuống còn 12,9% năm 2005), khu vực ngoài nhà nước
đã tăng lên nhanh (tương ứng từ 69,6% lên 87,1%), trong đó cá thể 60,2%, tư nhân
22,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3,8%, tập thể chỉ còn 1%.
Trong tổng số lao động đang làm việc của cả nước, khu vực kinh tế ngoài nhà nước
chiếm tỷ trọng cao nhất (88,7%), khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ (9,7%), còn khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng còn chiếm tỷ trọng thấp (1,6%). Trong tổng số lao
động đang làm việc tăng thêm, thì khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đã tăng mạnh hơn khu vực nhà nước.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm 53,6%, khu vực ngoài
nhà nước chiếm 30,9%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 15,5%;
nếu tách riêng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thì tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 40%.
Như vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của đổi mới là nền kinh tế đã
chuyển từ chỗ dựa trên hai loại hình chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sang
nền kinh tế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước tiếp
tục đổi mới, sắp xếp lại, từ trên 13 nghìn nay còn trên 4,5 nghìn; riêng trong 5 năm qua đã
cổ phần hóa 2.254 doanh nghiệp, giao, bán, khoán, cho thuê 139 doanh nghiệp...
-Tạo ra nhiều cơ hội làm việc và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, cơ hội việc làm tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp của Việt
Nam giảm đáng kể trong thời kỳ đổi mới.
Giai đoạn 2015-2020, lực lượng lao động Việt Nam có việc làm tăng đều qua các năm
(ngoại trừ năm 2020, tình trạng người lao động bị mất việc làm tăng, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19).
Theo Tổng cục Thống kê (2021), số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có “công ăn,
việc làm” tăng đều qua từng năm, với tốc độ tăng trung bình khoảng 0,48% trong giai đoạn
2015-2019. Riêng năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng 11 lOMoAR cPSD| 45568214
tiêu cực bởi dịch COVID-19 bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc hoặc nghỉ
luân phiên, giảm giờ làm.
Xét về cơ cấu lao động, giai đoạn 2015-2020 có sự chênh lệch khá lớn giữa các khu
vực kinh tế. Cụ thể, trong giai đoạn này có sự chuyển dịch rõ rệt trong cơ cấu lao động giữa
các khu vực: Nếu như năm 2015 cơ cấu lao động KV1 chiếm tới 45,73%; KV2 chiếm
24,19%; KV3 chiếm 30,08%, thì đến năm 2020 tỷ trọng lao động trong các KV1, 2, 3 lần
lượt là: 34,78%; 32,65%; 32,57%.
Tốc độ giảm trung bình lao động KV1 là 5,4%; tốc độ tăng trưởng lao động trung bình
trong KV2 và KV3 lần lượt là 6,6% và 1,7%. Mặc dù, tốc độ tăng trưởng lao động chậm
nhưng có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu lao động giữa các khu vực. Điều đó cho thấy, cả 3
khu vực đều có sự dịch chuyển lao động.
Từ đầu năm 2021 đến nay, dù dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp và nặng nề,
nhưng các địa phương kiên định thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh,
bảo vệ sức khỏe người dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ thực hiện chủ
trương đúng đắn này, tỷ lệ lao động làm việc tại các khu vực doanh nghiệp trong 6 tháng
đầu năm 2021 chỉ giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2020.
Đáng chú ý, tỷ trọng lao động làm việc trong các khu vực không có sự biến động lớn
trong nửa đầu năm 2021, theo đó tỷ trọng lao động ở KV1 chiếm 27,9%, tăng 1,9%; KV2
chiếm 32,8%, tăng 0,5%; KV3 chiếm 39,3%, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2020 (Tổng cục Thống kê, 2021). - Xóa đói giảm nghèo.
Sự đổi mới trong cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế nhiều thành phần cùng chủ
trương xây dựng công bằng xã hội gắng với phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới đã làm tỷ lệ người nghèo theo chiều hướng giảm dần. Chỉ 5 năm, giao đoạn 1992
– 1993 đến 1997 – 1998, tỷ lệ người nghèo ở Việt nam đã giảm gần một nửa, đây thực sự
là một tốc độ giảm nghèo đáng kinh ngạc. Tỷ lệ người nghèo giảm mạnh ở khu vực thành
thị (-61,3%). Khu vực nông thôn, tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể nhưng vẫn cao so với tỷ
lệ dân số. Về khu vực địa lý thì vùng Đông Nam Bộ có mức giảm nghèo nhanh nhất (76,8%)
và chiếm tỷ lệ nghèo thấp nhất cả nước (7,6%), nguyên nhân do đây là vùng kinh tế trọng
điểm, tập trung các trung tâm kinh tế và công nghiệp lớn của cả nước, giải quyết công ăn
việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vùng miền núi phía Bắc thời kỳ này tuy đã có
bước tiến đáng kể trong giảm số hộ nghèo tới một phần tư (-25,4%) nhưng vẫn là vùng có
tỷ lệ người nghèo cao nhất cả nước (58,6%).
-Mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế.
Chính sách đổi mới và vận dụng linh hoạt của Đảng đã tạo điều kiện để Việt Nam mở
cửa kinh tế và hội nhập quốc tế. Qua đó, nền kinh tế Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ
và nông nghiệp. Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc
gia và vùng lãnh thỗ, trong đó có 74 nước áo dụng qui chế tối huệ quốc, thiết laoaj và ký
kết hiệp ước thương mại 2 chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim
ngạch xuất khẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt
Nam đạt 20,3 tỷ USD, năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ USD. 12 lOMoAR cPSD| 45568214
4. Hạn chế trong xây dựng kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam trong thờ kỳ đổi mới.
Đường lối kinh tế nhiều thành phần đã mang lại nhiều lợi ích cho đất nước ta, tuy
nhiên, song hành với đó, cũng tồn rại một số hạn chế cần được cải thiện để đảm bảo phát triển bền vững.
Hạn chế thứ nhất cũng là quan trọng, đó là sự chênh lệch đáng kể giữa các thành phần
kinh tế. Trong suốt quá trình xây dựng kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước vẫn
chiếm vị trí quan trọng và có lợi thế hơn so với các thành phần tư nhân. Doanh nghiệp nhà
nước thường được hưởng nhiều ưu đãi và nguồn lực từ nhà nước, trong khi các doanh
nghiệp tư nhân thì vấp phải nhiều khó khăn và rào cản. Điều này gây ra sự bất công và
không đảm bảo trạng thái cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Hạn chế thứ hai là thiếu sự đồng thuận trong việc xây dựng một môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù có sự phát triển đáng chú ý của các
doanh nghiệp tư nhân, song vẫn còn nhiều rào cản và quy định phức tạp gây trở ngại cho
hoạt động kinh doanh của họ. Quy trình thủ tục hành chính phức tạp, biên chế quá nhiều,
quyền sở hữu đất đai không rõ ràng và tham những là những vấn đề tiêu cực cản trỏ sự phát
triển của các doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba là sự thiếu thống nhất trong việc thúc đẩy hội nhập và tương tác giữa các thành
phần kinh tế. Sự phát triển không đồng đều giữa các thành phần đã tạo ra khoảng cách về
công nghệ quản lý và nguồn lực giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Điều nay gây
khó khăn cho việc tạo ra sự tương tác và trao đổi thông tin giữa các thành phần, từ đó hạn
chế khả năng học hỏi và chuyên giao công nghệ giữa chúng.
Thứ tư là sự thiếu hụt về nhân lực chất lượng cao trong các ngành kinh tế mới như
công nghệ thông tin và năng lượng tái tạo. Phát triển nguồn nhân chất lượng cao là một
điều tất yếu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định
trong thời đại tri thức mới. Thế nhưng hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
lại rơi vào tình trạng thiếu hụt. Mặc dù sự gia tăng về dân số kéo theo số lượng nguồn
nhân lực trong độ tuổi lao động tăng trưởng mạnh. Thế nhưng con số đạt chất lượng cao,
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp lớn vẫn còn hạn chế. Một trong
những nguyên nhân xuất phát từ công tác giáo dục đào tạo chưa thực sự phù hợp. Lao
động trong nước vẫn chủ yếu là lao động phổ thông. Hoạt động vẫn chủ yếu trong lĩnh
vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, cơ cấu nhân lực lao động cũng còn nhiều bất cập.
Tính đến tháng 3/2021, cả nước có 417,3 nghìn người có chuyên môn kỹ thuật bị thất
nghiệp (chiếm 39,7%), nhưng người có trình độ đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao
nhất (155,5 nghìn người).
Hạn chế thứ năm là sự thiết hụt vốn đầu tư và công nghệ trong các ngành kinh tế
mới. Mặc dù có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự
thiếu hụt vốn đầu tư để phát triển các ngành kinh tế mới. Điều này gây ảnh hưởng đến
khả năng nghiên cứu và phát triển, mua sắm thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng và
thu hút nhân lực chất lượng cao. Các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tinm trí tuệ
nhân tạo, năng lượng tái tạo, y tế công nghệ cao… đòi hỏi sự áp dụng công nghệ tiên tiến,
tuy nhân, Việt Nam vẫn đang thiếu nền tảng công nghệ cần thiết để cạnh tranh trong thế
giới kỹ thuật số. Sự thiếu hụt này có thể dẫ đến Việt Nam không thể tạn dụng hết tiềm
năng của các ngành kinh tế mới. 13 lOMoAR cPSD| 45568214
Thứ sáu, Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các
nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ
thấp, tiêu hao vật tư cao, chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu
tư và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các
dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết
các ngành công nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong khu vực.
Thứ bảy, việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế cũng đặt ra một thách thức khác cho Việt
Nam, việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc tế có thể
mang lại nhiều cơ hội và lợi ích cho Việt Nam, tuy nhiên cũng đồng nghĩa với việc phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối tác kinh tế khác. các doanh nghiệp có sức cạnh
tranh kém, quy mô nhỏ có nguy cơ phá sản; mất việc làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực
phi chính thức; chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH… do cơ cấu lại
nguồn nhân lực cộng với lao động dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá,
sẽ tạo ra các áp lực lớn về việc làm cho người lao động. Một bộ phận người lao động trong
các doanh nghiệp sẽ mất việc làm do trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu
mới đặt ra. Điều này gây tác động xấu về mặt xã hội, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên,
người lao động mất việc làm, giảm thu nhập…
Cạnh tranh về lao động trình độ cao sẽ ngày càng gay gắt. Hội nhập, toàn cầu hoá trở
thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động có kỹ thuật, trình độ quản
lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam nhiều hơn, đồng thời lao động của Việt
Nam cũng di chuyển ra nước ngoài nhiều hơn. Cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, nhiều doanh
nghiệp bị phá sản, nhiều người lao động bị mất việc làm; tốc độ đô thị hoá nhanh, người
nông dân bị thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thiếu đất canh tác… 5. Đề xuất biện pháp.
Biện pháp đầu tiên, Đảng ta phải tập trung bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ các nhận
thức lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa
và xây dựng một nền kinh tế phù hợp nhất với điều kiện mới của đất nước cũng như là thế
giới, củ thể đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Biện pháp thứ hai cần lưu ý là đa dạng hóa nền kinh tế. Đảng ta cần phát triển đồng
đều các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và thương mạnh. Điều này giúp đa dạng
hóa nền kinh tế, giảm phụ thuộc vào một số ngành kinh tế cụ thể và tạo ra sự cân bằng cân
đối trong phát triển kinh tế.
Thứ ba là chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Quá độ từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ là quá trình cần thiết
để tăng cường năng suất lao động và giá trị gia tăng của nền kinh tế. Đồng thời, việc phát
triển ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho dân cư.
Thứ tư, khuyến khích đầu tư và phát triển các ngành kinh tế mới. Cần tạo điều kiện
thuận lợi để đầu tư và phát triển các ngành kinh tế mới như công nghệ thông tin, năng lượng
tái tạo, du lịch, và các ngành kinh tế sáng tạo khác. Điều này giúp tăng cường khả năng sản
xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường và mang lại sự đổi mới và tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế. 14 lOMoAR cPSD| 45568214
Thứ năm, tăng cường hợp tác công – tư: Khuyến khích sự hợp tác giữa doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp
tổ chức sản xuất và kinh doanh trong môi trường thoải mái và công bằng. Sự hợp tác công
tư có thể góp vào việc đẩy mạnh đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu suất kinh doanh.
Thứ sáu, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Cần đầu tư vào
cơ sở hạ tầng với hướng tiếp cận hiện đại, bao gồm giao thông, viễn thông, năng lượng và
hạ tầng kỹ thuật. Đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế bằng cách
đẩy mạnh công nghệ, quản lý chất lượng, và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Tiếp theo, thứ bảy là bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việc thiết lập cơ
cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ cần được xây dựng theo hướng bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Cần tuân thủ theo tiêu chuẩn môi trường, sử dụng công nghệ xanh, và
khuyến khích cavs ngành kinh tế có tính bền cững và thân thiện với môi trường.
Thứ tám, tăng cường giáo dục và đạo tạo nhân lực để đáp ứng với nhu cầu của thị
trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có nhân lực tốt thì các ngành
kinh tế mới phát triển bền vững.
Thứ chín, tinh giản các quy trình thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Điều này giúp đẩy mạnh xây dựng các khu công
nghiệp, chế biến và thu hút các doanh nghiệp đầu tư trong và ngoài nước giúp tăng cường
lực lượng sản xuất của Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế.
Bên cạnh đó cũng phải hộ trợ các doành nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo một nền kinh tế phát triển bền vững với các sản phẩm
dịch vụ có chất lượng ngày càng đi lên.
Và cuối cùng là khuyến khích, xây dựng các khu kinh tế đặc biệt để tăng cường sự
phát triển nền kinh tế ở các khu vực khó khăn. Như thế sẽ tối ưu được các nguồn lực kinh
tế từ mọi nơi trên cả nước và tận dụng được các nguồn tài nguyên thiên nhên. Và cũng từ
đó,mà thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các vùng.
Phía trên là các giải pháp được đề xuất để giúp Đảng Việt Nam ta phát triển kinh tế
toàn diện và bền vững trong thời kỳ quá độ, đóng góp phát triển đất nước, nhân dân có cuộc sống tốt đẹp. Kết luận
Hồ Chí Minh đã nhận rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế trong sự phát triển toàn
diện của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Để xây dựng một xã hội công bằng và giàu có thì
việc phát triển kinh tế là không thể thiếu. Và để phát triển nền kinh tế bền vững thì phải có
sự hợp lí trong cơ cấu thành phần kinh tế từ việc phân chia sắp xếp các ngành kinh tế trong
xã hội. Hồ Chí Minh cũng khẳng định cần đẩy mạnh và phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Quan điểm đó của người đã được áp dụng rộng rãi trong bao năm thời kỳ đổi mới của nước
ta. Đó là quan điểm hợp lý, sâu sắc, góp phần lớn cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc và vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng
đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hình các chính sách và 15 lOMoAR cPSD| 45568214
biện pháp để thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ tính linh hoạt trong vận dụng,
qua 35 năm đổi mới, Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong kinh tế, đời sống
nhân dân được nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong quá trình xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng vẫn đang áp dụng những giải pháp cụ thể, hợp lý
để giải quyết những hạn chế còn tồn tại.
Tóm lại, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta là một yếu tố quan trọng để
phát triển nền kinh tế Việt Nam ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Và đường lối nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới là con đường đúng đắn
khi Việt Nam đã có nhiều thành tựu kinh tế qua 35 năm đổi mới. Đảng đã và đang tiếp tục
thực hiện các biện pháp đúng đắn cũng như linh hoạt giải quyết các hạn chế trong công
cuộc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để góp phần tạo nên thành công cho thời kỳ
đổi mới, nâng cao, cải thiện mức sống của người dân.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxh chính trị quốc gia Hà Nội 2011, trang 372 - 373
2.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, 2021
3.Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, tập
1, nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2010
4.Báo điện tử Đảng cộng Sản Việt Nam 5. Tạp chí tài chính
6.Tạp chí điện tử lí luận chính trị 16