Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
lOMoARcPSD| 45568214
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền
kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thanh Huyền
Mã sinh viên : 11216759
Lớp tín chỉ : LLTT1101(223)_41
Giảng viên : TS. Nguyễn Chí Thiện
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
....................................................................................................................... ..................... 3
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .......................................................... 1
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .................................................................... 1
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .............................................................................. 2
1. Tính chất và đặc điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
quan điểm của Hồ Chí Minh ...................................................................................... 2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ........................................................................... 3
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ..... 6
I. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây
dựng chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam ............... 6
II. Những thành quả đạt được ....................................................................................... 8
III. Hạn chế................................................................................................................... 10
lOMoARcPSD| 45568214
IV. Nguyên nhân và giải pháp ...................................................................................... 10
1. Nguyên nhân ......................................................................................................... 10
2. Giải pháp ............................................................................................................... 11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 12
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hành trình chiến đấu giành độc lập tự do cho dân tộc, Chtịch Hồ Chí
Minh đã bôn ba khắp nơi trên thế giới, với sứ mạng lớn lao gắn với các phong trào
giải phóng dân tộc công nhân. Trong quá trình ấy, Người đã tiếp thu, kế thừa vận dụng
một cách sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lenin và thông qua những trải nghiệm thực
tiễn trong cuộc đấu tranh cách mạng, để từ đó có những thấu hiểu sâu sắc về vấn đề quá độ
lên chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chế độ hội chủ nghĩa tại Việt Nam, một cuộc hành
trình kéo dài gần 70 năm, toàn thể nhân dân Việt Nam ta đã cùng nhân dân vượt qua những
thử thách khó khăn, bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế
truyền thống sang một hình thức kinh tế hội mới, hướng tới mục tiêu tưởng của chủ
nghĩa cộng sản. Sự tiến bộ này phản ánh quy luật tất yếu của sự phát triển của lịch sử.
Trong bối cảnh này, nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một cấu
kinh tế phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân nước ta đã kiên định theo đuổi con
đường tiến lên chủ nghĩa hội. Việc xây dựng một cấu thành phần kinh tế phù hợp
không chỉ một yếu tố quan trọng, còn điều cần thiết để đảm bảo sự cân đối trong
phát triển kinh tế và đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường.
Trước thách thức này, em đã chọn nghiên cứu đề tài "Anh, chị hãy tìm hiểu và phân
tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chế
độ xã hội chnghĩa Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ đổi mới nước ta hiện nay?" để tìm hiểu sâu hơn về cách tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được áp dụng trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh
tế của đất nước.
lOMoARcPSD| 45568214
1
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG
THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Xã hội loài người phát triển đã trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
Trên sở đó, C.Mác đã phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của
hội loài người để từ đó rút ra kết luận rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế
hội một quá trình lịch sử tự nhiên”. Quá trình ấy trải qua nhiều chế độ từ cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Việc chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội y sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải
trải qua giai đoạn trung gian được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là thời kỳ quá độ. Đây là thời
kỳ tất yếu của lịch sử, thể diễn ra lâu dài độ dài ngắn phụ thuộc vào xuất phát điểm
của mỗi quốc gia trước khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác động
khách quan của thời đại. Hình thái kinh tế hội cộng sản chủ nghĩa ra đời quá trình
phát triển từ thấp đến cao. V.I.Lê-nin đã kế thừa phát huy tưởng của C.Mác
Ph.Ăngghen để cụ thể hoá tính phân kỳ của hình thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa,
trong đó giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao được gọi
là chủ nghĩa cộng sản hay hội cộng sản. V.I.Lênin đã viết: “cần phải có một thời kỳ lâu
dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là một việc khó khăn, vì vậy
phải có những thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, và vì vậy phải trải qua một cuộc đu tránh quyết liệt lâu dài mới có thể có được
sức mạnh to lớn của thói quen quản theo kiểu sản. Bởi vậy c nói thời kỳ chuyên
chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”
Qua việc phân tích đặc điểm kinh tế của các nước quá độ lên chủ nghĩa hội, -
nin cho rằng nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa hội. Đó kiểu “quá độ” của các ớc
đã qua chủ nghĩa bản “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển bản
chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa hội. Những nước bỏ qua bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa
hội sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài do chưa tiền đề vật chất của chủ nghĩa
xã hội, để xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu đã đặt ra phải có đường lối đúng đắn
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tnh sự
chủ quan, nóng vội, “đốt cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt được thắng
lợi trên mọi lĩnh vực.
lOMoARcPSD| 45568214
Bên cạnh đó, theo quan điểm của V.I.Lê-nin, trong thời kỳ quá độ, các ớc phải
chấp nhận nền kinh tế bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa bản nhà nước một phần trong
toàn bộ nền kinh tế đất nước, “phải lợi dụng chủ nghĩa bản nhà nước làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương
pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn không thể bỏ qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, quá độ kiểu y hay
kiểu khác đều là quy luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Ngoài ra, đặc trưng bản của nền kinh tế quá độ phát triển kinh tế nhiều thành
phần trên sở phát triển nhiều hình thức sở hữu; phát triển những hình thức kinh tế quá
độ phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Chủ nghĩa Mác -nin nền
tảng tư tưởng và phương pháp luận khoa học cho chính đảng của giai cấp công nhân, là cơ
sở luận để hoạch định chủ trương, đường lối đấu tranh giành, giữ chính quyền xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Song, việc vận dụng học thuyết Mác -nin nói chung các luận
điểm về vấn đề sở hữu nói riêng đòi hỏi phải đặt trong điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc
gia, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, tránh sự rập khuôn y móc, giáo điều, nếu
không chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Theo đó, kế thừa quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen
Lênin, Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo kiên
trì trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Tính chất và đặc điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
quan điểm của Hồ Chí Minh
Tính chất của thời kỳ quá độ: Đây thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp,
lâu dài, khó khăn, gian khổ. Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của
nước ta là thời kỳ cải biến từ hội thành hội mới - một hội chưa từng trong
lịch sử dân tộc Việt Nam ta. thời kỳ này, dân tộc ta phải thay đổi triệt để từ nếp sống, thói
quen đến ý nghĩ thành kiến gốc rễ sâu xa hàng ngàn m; phải xoá bỏ giai cấp bóc
lột; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc trong điều kiện nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách
thực dân, phong kiến nên công cuộc biến đổi u sắc nhất, khó khăn nhất, thậm chí
còn khó khăn, phức tạp hơn cả việc đánh giặc. Chính vì vậy, tiến lên chủ nghĩa hội không
thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ Việt Nam
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa hội, không phải trải qua gia
lOMoARcPSD| 45568214
3
đoạn phát triển bản chủ nghĩa. Giống như các quốc gia khác, khi bước vào thời kỳ quá
độ, Việt Nam cũng những đặc điểm như sự đan xen giữa các yếu tố của hội
những yếu tố của hội mới trên tất cả các nh vực của đời sống. Điều này xảy ra giai
đoạn đầu, khi các yếu tố của hội còn cụm lại thành một thế lực thì thể sẽ chiến
thắng cả những yếu tố của xã hội mới vừa xuất hiện. Song, từ thực tế của xã hội Việt Nam
ta, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Cùng với những đặc điểm khác và mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, đặc điểm này quy định nhiệm vụ của dân tộc ta trong thời kmới - thời kỳ quá độ đó
là đấu tranh cải tạo, xoá bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp
với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của thời kỳ quá độ.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là khoảng thời gian lâu dài, chuyển
tiếp từ một hình thái kinh tế - hội sang một hình thái kinh tế - xã hội mới, một chặng
đưởng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Kế thừa
vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen Lênin về những vấn đề kinh tế -
chính trị trong thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát
triển kinh tế của nước nhà nêu quan điểm phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những nội dung cụ thể và nổi bật như sau:
Trước hết là thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế. Nhận thức
tính quy luật của thời kỳ quá đlên chủ nghĩa hội một ớc nông nghiệp lạc hậu
như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong thời kỳ quá độ, nước ta tất yếu sẽ tồn
tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau, do vậy cũng không thể tránh khỏi sự đa dạng
về các thành phần kinh tế. Người đã nhận định rằng: “Trong nước ta hiện nay những
hình thức sở hữu chính về liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn
dân, sở hữu của hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu của người
lao động riêng lẻ, một ít liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà bản”. Từ đó, Người kết
luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu khônghội chủ nghĩa, làm
cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân sở hữu tập thể”. Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện
từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể.
Thứ hai là xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước
đối với từng thành phần kinh tế. Vận dụng o hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam ta trong tửng
lOMoARcPSD| 45568214
thời kỳ, Người đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở nước
ta bao gồm: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh; các hợp tác; kinh
tế cá nhân của nông dân của thủ công nghệ; kinh tế bản nhân; kinh tế bản quốc
gia. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
ba hình thức sở hữu bao gồm sở hữu Nhà ớc, sở hữu tập thể sở hữu nhân các
thành phần kinh tế cụ thể tương ứng Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của
nhân, nông dân thủ công nghệ; bản nhân; bản nhà nước. Trong các thành phần
kinh tế nêu trên thì thành phần kinh tế quốc doanh thành phần kinh tế lãnh đạo phát
triển nhanh hơn cả. Đây cũng chính do kinh tế Việt Nam ta sẽ phát triển theo ớng
chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản. Thực chất đó cũng là quan điểm
về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước cần
quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở mức độ phù hp.
Kinh tế quốc doanh (hay kinh tế nhà nước) là thành phần kinh tế mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, biểu hiện ở chế độ sở hữu toàn dân, tức tài sản các xí nghiệp ấy là của chung
của nhân dân, của Nhà nước, không phải của riêng. Trong quan htổ chức quản sản xuất,
“xưởng trưởng, công trình công nhân đều quyền tham gia quản lý, đều chủ nhận.
Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh,
"Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới.”, do
đó, Nhà nước phải đmar bảo cho nó phát triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế hợp tác xã bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp và các hội
đổi công nông thôn. Đây thành phần kinh tế tính chất nữa hội chủ nghĩa, được
hình thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong thành phần kinh tế
này, “nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình
sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi hợp tác hoá nông nghiệp khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo hội chủ
nghĩa miền Bắc thông qua hình thức tổ đổi công và hợp tác sản xuất nông nghiệp. Điều
này cũng thể hiện sự thống nhất giữa quan điểm của Người quan điểm của Lênin về tổ
chức hợp tác xã đó là đảm bảo tính dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội
viên và phù hợp với điều kiện từng địa phương.
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là “kinh
tế lạc hậu bởi mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với thành phần
kinh tế này, “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn
lOMoARcPSD| 45568214
5
giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên
tắc tự nguyện.”
Kinh tế tư bản tư nhân được coi là thành phần kinh tế có tính bóc lột. Họ bóc lột công
nhân, nhưng đồng thời cũng góp phần quan trọng trong xây dựng kinh tế. Vì vậy, Nhà nước
thừa nhận quyền sở hữu về liệu sản xuất của cải khác của họ nhưng phải hướng dẫn
họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Nếu mình thuyết phụ khéo, lãnh đạo khéo,
họ thể hướng theo chủ nghĩa hội”. Bên cạnh đó, những hoạt động đầu tư, phát triển
kinh tế chính đang, lợi cho nước nhà của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ bảo
hộ.
Kinh tế tư bản quốc gia (hay kinh tế tư bản của Nhà nước) là thành phần kinh tế
hỗn
hợp. Trong thành phần kinh tế này, Nhà nước và tư nhân hùn vốn để kinh doanh, tư bản của
tư nhân là chủ nghĩabản, tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện
việc lãnh đạo hoạt động của thành phần kinh tế này theo kế hoạch thống nhất. Đối với những
nhà sản công thương, Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của
cải khác của họ ra sức khuyến khích giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa hội bằng
hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có các
nguyên tắc đảm bảo đoàn kết, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong chiến
lược phát triển kinh tế.
Một là, công đều lợi: “công” kinh tế quốc doanh,”tưlà những nhà bản
dân
tộc, kinh tế nhân của nông dân thủ công nghệ. Đảng Nhà ớc phải ra sức phát
triển kinh tế quốc doanh, nhân dân phải ủng hộ kinh tế quốc doanh, đồng thời, những người
có hành động phá hoại kinh tế quốc doanh sẽ bị trừng trị.
Hai là, chủ thợ đều lợi: thừa nhận sự bóc lột của nhà tư bản là tất yếu, tuy nhiên
Chính
phủ cần “ngăn cấm hbóc lột công nhân quá tay”, phải bảo vệ quyền lợi chính đags của
người công nhân. Sự hợp tác trong sản xuất chấp nhận những quyền lợi trong chừng mực
của cả chủ và thợ cũng là một trong những động lực nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Ba là công nông giúp nhau: xây dựng liên minh công nông đoàn kết, đẩy mạnh
phát
triển thương nghiệp và chế biến, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp.
lOMoARcPSD| 45568214
Bốn lưu thông trong ngoài: thực hiện chính sách mcửa, tăng cường giao
lưu
hợp tác phát triển kinh tế theo ớng các bên cùng lợi, hay nói cách khác chính hội
nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị.
Qua đây thể thấy, quan điểm của Chủ tịch Hồ CMinh về cấu thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của Việt Nam một nền tảng cho sở
luận trong việc hoạch định chiến luợc phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ mới,
nhằm thiết lập một cấu kinh tế tất cả các ngành đều phát triển một ch đồng đều,
không bị phụ thuộc quá mức vào các ngành khác. Mục tiêu này nhằm đảm bảo sự cân bằng
trong phát triển kinh tế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào một số ngành cụ thể. Đồng thời, cơ
cấu kinh tế cần được phân bổ một cách hợp lý, tập trung vào việc tăng cường phát triển các
ngành kinh tế ưu tiên như nông nghiệp, ng nghiệp chế biến, khai thác tài nguyên, nhằm
đảm bảo sự đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây dựng
chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Trong hơn 35 năm đổi mới phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chúng ta đã những bước đi đúng đắn đạt được những thành tựu quan
trọng.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã hoạch định và thực
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các thành
phần kinh tế, đồng thời thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đảng nhận định rằng: “Xuất
phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả
về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với
việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của
Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác”, đồng thời chỉ ra: “Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: Kinh
tế xã hội chủ nghĩa; Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (th
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư
bản nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao công hợp
lOMoARcPSD| 45568214
7
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng núi cao khác”.
Tiếp đó, Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. c này, kinh tế gia đình
tuy không phải một thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển. Ngoài
ra, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu bản sẽ hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong đó,
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển những ngành, lĩnh vực then chốt; kinh tế tập
thể phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề với quy mức độ tập thể hoá
khác nhau, được thực hiện trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của người lao động. Bên
cạnh đó, kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển ở cả thành thị và nông thôn; kinh tế
bản nhân được phát triển không hạn chế về quy địa bàn hoạt động trong những
ngành nghề không bị pháp luật nghiêm cấm. Các chính sách về kinh tế nhiều thành phần
được Nhà nước xây dựng nhất quán, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp
pháp, không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng được tổ chức đã xác định nền kinh tế nước ta gồm
các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế bản nhà nước; kinh tế thể,
tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Trong Nghị quyết Đại hội IX năm 2001, Đảng chỉ rõ: “Đảng Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hàng theo cơ chế thị trường, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng hội
chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế trong giai đoạn này bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể; kinh tế thể, tiểu chủ; kinh tế bản nhân; kinh tế bản nhà ớc và kinh tế
có vốn đầu nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế vốn đầu tư nước ngoài là thành
phần kinh tế được thêm mới, thể hiện vai trò của việc thu hút các nguồn lực bên ngoài cho
sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây chính sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nguyên tắc “lưu thông trong – ngoài”.
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Nghị quyết Đại hội lần thứ
X năm 2006, Đảng đã chỉ ra các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế nhân; kinh tế bản nhà nước kinh tế vốn đầu nước ngoài. Đảng cũng
khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng hội chnghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh”, đồng thời nhấn mạnh vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, song cũng chỉ ra kinh tế tư nhân một trong những động
lOMoARcPSD| 45568214
lực của nền kinh tế. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới, kế thừa và phát triển tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư duy kinh tế của Đảng ta.
Năm 2011, Đại hội lần thứ XI diễn ra, tiếp tục chủ trương phát triển nhanh, hài hoà
các thành phần kinh tế, đồng thời khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần
kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp
tác xã. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế nhân trở thành một trong
những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
theo quy hoạch”. Các thành phần kinh tế c này chỉ bao gồm 4 thành phần: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XI, Đại hội XII Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam ta đều hoạch
định phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần
kinh tế. Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ sâu
rộng, Đảng ta đã nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”
Ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, vị trí, vai trò và chính sách phát triển đối
với các thành phần kinh tế càng được nhấn mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước được coi
công cụ, lực lượng vật chất quan trọng, vai trò ổn định nền kinh tế mô, định hướng,
điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Các lĩnh vực then chốt như an ninh,
quốc phòng hay các địa bàn quan trọng được doanh nghiệp nhà nước tập trung chú trọng,
hoạt động theo chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Như vậy thể thấy rằng, trải qua một chặng đường dài xây dựng phát triển đất
nước, nhận thức về thành phần kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Đây là quá trình khách quan
phù hợp với quy luật nhận thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế
ở nước ta qua các kỳ Đại hội của Đảng hoàn toàn phù hợp với nguyên của chủ nghĩa
Mác Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
II. Những thành quả đạt được
Trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất
định về kinh tế - xã hội.
lOMoARcPSD| 45568214
9
Trước hết, về phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
tiếp tục phát triển; kinh tế ổn định vững chắc hơn; tốc độ tăng trưởng kinh tế của
nước ta duy trì mức khác cao; quy mô tiềm lực kinh tế tăng lên; chất lượng tăng trưởng
đang ngày càng được cải thiện. Vượt qua bao khó khăn, thách thức, Việt Nam đã đạt được
những con số ấn tượng trong phát triển kinh tế. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2022
của Việt Nam lần đầu tiên vượt 400 tỉ USD. Theo Tổng cục thống , GDP nh quân đầu
người năm 2022 ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so
với năm 2021. Tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt liên tục trong thời gian dài (42 m),
đứng hàng đầu thế giới (chỉ thấp thua kỷ lục 45 năm do Trung Quốc hiện nắm giữ). Đặc
biệt, GDP năm 2022 của Việt Nam ghi nhận mức tăng cao nhất trong vòng 12 năm qua với
mức tăng 8,02% so với năm trước. Cơ cấu GDP chuyển dịch theo hướng tỷ trọng của nông,
lâm - thủy sản giảm, công nghiệp - xây dựng tăng (trong đó của công nghiệp chế biến, chế
tạo (là tiêu ccủa nước công nghiệp) đã tăng tương ứng 34,27% và 20,96% của năm 2015,
lên 38,26% 24,76% năm 2022); dịch vụ bị giảm do 2 năm đại dịch, nhưng chiếm tỷ
trọng cao nhất trong 3 nhóm ngành. Điều đó là phù hợp với định hướng của kế hoạch, chiến
lược và phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước.
Về phát triển hội, an sinh hội đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Việc phát triển
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, hội, thực hiện tiến bộ công bằng hội ngay
trong từng bước, từng chính sách phát triển đã giúp cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, đồng thời không ngừng ng cao mức sống chất lượng sống. Tỷ lệ
hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8%
năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ ới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa
chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết
các nông thôn đều có đường ô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học
trung học sở, trạm y tế điện thoại. Ngoài ra, Việt Nam được Liên hợp quốc công
nhận là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm
nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Có thể thấy, dưới sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng, chúng ta đã đạt được
những kết quả đầy ấn tượng, “"Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay". Điều này một lần nữa khẳng định sự tin tưởng tuyệt đối của chúng
ta vào đường lối lãnh đạo của Đảng, khẳng định việc tiến lên đến chủ nghĩa hội một
lựa chọn đúng đắn và phù hợp hoàn toàn với nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế của chúng ta được xây dựng phát triển một cách
lOMoARcPSD| 45568214
tính quy luật chung và cũng đặc thù, phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước trong quá
trình chuyển từ nền kinh tế sang chnghĩa hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại trong
hệ thống kinh tế của Việt Nam đều vị trí vai trò riêng biệt, chúng thực hiện các
nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược và lâu dài.
III. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng về phát triển kinh tế - xã
hội nhưng quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những
hạn chế cần phải được khắc phục. Cụ thể:
- Khu vực kinh tế nhà nước còn gặp nhiều khó khăn trong khâu quản lý, dẫn đến hiệu
quả đầu tư và sử dụng vốn chưa cao, năng lực cạnh tranh yếu và năng suất lao động thấp.
- Kinh tế tập thể, mặc dù tăng về quy mô, nhưng vẫn chưa xác định rõ ràng về phương
thức quản lý, liên tục gặp khó khăn trong nhiều khía cạnh.
- Kinh tế nhân, mặc dù số lượng đăng ký lớn, nhưng thực tế hoạt động vẫn hạn chế,
quy nhỏ, trình độ quản lý và công nghệ thấp, dẫn đến hiệu quả cạnh tranh không cao.
- Khu vực kinh tế vốn đầu ớc ngoài vẫn còn nhiều hạn chế trong chiến lược
thu hút quản dự án, hậu quả là gây ra nhiều bất cập về ngành nghề, trình độ công nghệ,
sử dụng tài nguyên, quan hệ với các khu vực và tác động môi trường…
IV. Nguyên nhân và giải pháp
1. Nguyên nhân
Trước hết, lịch sử của dân tộc Việt Nam lịch sử của một dân tộc anh hùng với hàng
nghìn năm dựng nước, giữ nước đến nay bước vào thời kỳ đổi mới. Điều này đã để lại
những dấu ấn lớn, đồng thời cũng tạo nên những rào cản, khó khăn nhất định trong việc đổi
mới nền kinh tế. Việc kế thừa cấu nền kinh tế từ quá khứ đã dẫn đến sự không cân đối
trong cơ cấu thành phần kinh tế hiện tại. Tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh
vực nhưng việc phân bố tài nguyên và cơ sở hạ tầng tại nước ta chưa đồng đều, hầu hết chỉ
tập trung các khu đô thị các thành phần kinh tế như kinh tế bản nhân kinh tế
gia đình.
Ngoài ra, sở hữu lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, chất lượng lao động còn
nhiều hạn chế, cần được nâng cao. Việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu suất lao động năng lực cạnh tranh còn yếu
kém.
Bên cạnh đó, hệ thống quản lý, thực thi pháp luật cũng như các khâu hành chính đôi
khi không đảm bảo công bằng, minh bạch, còn dập khuôn máy móc, gây ra nhiều trở ngại,
lOMoARcPSD| 45568214
11
tốn kém chi phí, thời gian trong hoạt động kinh tế. Đây chính một trong những nguyên
nhân tạo nên môi trường không thuận lợi cho doanh nghiệp và đầu tư.
2. Giải pháp
Đứng trước những khó khăn hạn chế của thời kỳ đổi mới, trong Nghị quyết Đại
hội XIII, Đảng đã chỉ ra: tiếp tục đẩy mạnh và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước;
tăng cường liên kết chặt chẽ và thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế
- hội trọng m, với mục tiêu trong 5 m tới, Việt Nam strở thành một nước đang
phát triển, có nền công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng xác định một số chỉ tiêu phát triển
kinh tế - hội trong giai đoạn 5 m (2021-2025): Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm
đạt khoảng 6,5 - 7% mỗi năm; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị giảm xuống dưới 4% vào
năm 2025; Năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; Tỷ trọng
công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP;
Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội đạt khoảng 25%.
Dựa trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế -hội và kết quả phân tích, đánh giá
và nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế Việt
Nam theo ớng ổn định bền vững hơn. Đđạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng đã đề ra, cần triển khai các biện pháp sau:
- Thứ nhất, tận dụng c lợi thế trong nông, lâm, ngư nghiệp để phát triển khu vực
này theo hướng bền vững ổn định, tập trung vào công nghiệp hóa các ngành chế biến
lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, thủ ng mỹ nghệ...; Một phần để tăng giá trị sản
phẩm phát triển các ngành công nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp,
đồng thời giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
- Thứ hai, mặc lực lượng lao động nguồn vốn đầu phát triển trong toàn xã hội
đang tập trung vào khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây dựng khá cao, nhưng tỷ trọng
đóng góp vào GDP chưa phản ánh đúng, cho thấy khu vực này đang lãng phí lao động
vốn. Do đó, cần phát triển ngành công nghiệp theo ớng tận dụng các nguyên liệu trong
nước thay vì nhập khẩu tăng cường xuất khẩu; ngành khai khoáng nên tập trung vào việc
nâng cao giá trị sản phẩm thông qua chế biến thành các sản phẩm trung gian cung ứng cho
ngành công nghiệp và tăng cường xuất khẩu.
- Thứ ba, phát triển bền vững các khu vực 1 khu vực 2 sẽ tạo ra việc làm, thu
nhập cho người lao động tạo ra nhiều sản phẩm nội địa chất lượng cao, trong khi khu
vực dịch vụ sẽ tự phát triển mạnh mẽ; đồng thời, giảm nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu.
lOMoARcPSD| 45568214
KẾT LUẬN
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam
chuyển dịch cấu thành phần kinh tế đã đang được áp dụng rộng rãi trong quá trình
phát triển kinh tế của đất nước. Tư tưởng của Người không chỉ sự kế thừa phát triển
từ ởng c - Lênin còn sự sáng tạo, kết hợp hài hòa giữa luận thực tiễn,
phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Mặc thực tế luôn biến đổi đặt ra nhiều thách
thức mới, nhưng những quan điểm về giai đoạn chuyển đổi của HChí Minh vẫn gi
nguyên giá trị và sẽ tiếp tục được phát triển trong bối cảnh mới.
Nhận thức rõ các điểm mạnh và yếu của các thành phần kinh tế thông qua quá trình
tìm hiểu và phân tích giúp chúng ta xác định hướng phát triển phù hợp cho từng thành
phần kinh tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức sâu sắc về những thành phần kinh
tế hiện này và luôn nỗ lực hoàn thiện chúng bằng việc đề ra các chính sách phù hợp và
nhất quán với từng loại hình kinh tế, cũng như với mục tiêu và hướng phát triển của nền
kinh tế đa dạng của Việt Nam thông qua các kỳ đại hội của Đảng.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần không chỉ là vấn đề chiến lược lâu dài mà còn là
một quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Một lần nữa, chúng ta lại thấy
sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong việc lãnh đạo sự phát triển
nền kinh tế - hội theo phép biện chứng khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh
cụ thể nhất định. Dưới ánh sáng tưởng của Người với đường lối lãnh đạo của Đảng,
chúng ta quyền hy vọng rằng trong tương lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát
triển ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, vị thế của ta trên trường quốc tế sẽ ngày ng được nâng
cao và thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục đào tạo, Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen (2002): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. V.I.Lênin: Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), “Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XIII”
7. Tổng cục Thống (2021), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội” c năm 2010 đến
2020,
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214 lOMoAR cPSD| 45568214
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền
kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
quan điểm nêu trên như thế nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?

Họ và tên sinh viên :
Nguyễn Thanh Huyền Mã sinh viên : 11216759 Lớp tín chỉ : LLTT1101(223)_41 Giảng viên :
TS. Nguyễn Chí Thiện MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
....................................................................................................................... ..................... 3
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .......................................................... 1
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .................................................................... 1
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .............................................................................. 2
1. Tính chất và đặc điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
quan điểm của Hồ Chí Minh
...................................................................................... 2
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
........................................................................... 3
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ..... 6
I. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây
dựng chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam ............... 6
II. Những thành quả đạt được ....................................................................................... 8
III. Hạn chế................................................................................................................... 10 lOMoAR cPSD| 45568214
IV. Nguyên nhân và giải pháp ...................................................................................... 10
1. Nguyên nhân ......................................................................................................... 10
2. Giải pháp ............................................................................................................... 11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 12
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG LỜI MỞ ĐẦU
Trong hành trình chiến đấu giành độc lập và tự do cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bôn ba khắp nơi trên thế giới, với sứ mạng lớn lao là gắn bó với các phong trào
giải phóng dân tộc và công nhân. Trong quá trình ấy, Người đã tiếp thu, kế thừa và vận dụng
một cách sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lenin và thông qua những trải nghiệm thực
tiễn trong cuộc đấu tranh cách mạng, để từ đó có những thấu hiểu sâu sắc về vấn đề quá độ
lên chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, một cuộc hành
trình kéo dài gần 70 năm, toàn thể nhân dân Việt Nam ta đã cùng nhân dân vượt qua những
thử thách và khó khăn, bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế
truyền thống sang một hình thức kinh tế xã hội mới, hướng tới mục tiêu lý tưởng của chủ
nghĩa cộng sản. Sự tiến bộ này phản ánh quy luật tất yếu của sự phát triển của lịch sử.
Trong bối cảnh này, nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một cơ cấu
kinh tế phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân nước ta đã kiên định theo đuổi con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng một cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp
không chỉ là một yếu tố quan trọng, mà còn là điều cần thiết để đảm bảo sự cân đối trong
phát triển kinh tế và đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường.
Trước thách thức này, em đã chọn nghiên cứu đề tài "Anh, chị hãy tìm hiểu và phân
tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?" để tìm hiểu sâu hơn về cách mà tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được áp dụng trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước. lOMoAR cPSD| 45568214
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Xã hội loài người phát triển đã trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
Trên cơ sở đó, C.Mác đã phát hiện ra các quy luật vận động và phát triển khách quan của
xã hội loài người để từ đó rút ra kết luận rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế
xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Quá trình ấy trải qua nhiều chế độ từ cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Việc chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải
trải qua giai đoạn trung gian được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là thời kỳ quá độ. Đây là thời
kỳ tất yếu của lịch sử, có thể diễn ra lâu dài và độ dài ngắn phụ thuộc vào xuất phát điểm
của mỗi quốc gia trước khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác động
khách quan của thời đại. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có quá trình
phát triển từ thấp đến cao. V.I.Lê-nin đã kế thừa và phát huy tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen để cụ thể hoá tính phân kỳ của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
trong đó giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao được gọi
là chủ nghĩa cộng sản hay xã hội cộng sản. V.I.Lênin đã viết: “cần phải có một thời kỳ lâu
dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là một việc khó khăn, vì vậy
phải có những thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, và vì vậy phải trải qua một cuộc đấu tránh quyết liệt lâu dài mới có thể có được
sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tư sản. Bởi vậy Mác nói thời kỳ chuyên
chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”
Qua việc phân tích đặc điểm kinh tế của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lê-
nin cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các nước
đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã
hội sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài do chưa có tiền đề vật chất của chủ nghĩa
xã hội, để xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu đã đặt ra phải có đường lối đúng đắn
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và chính quyền phải do nhân dân quản lý. Tránh sự
chủ quan, nóng vội, “đốt cháy giai đoạn”, tuân theo quy luật khách quan để đạt được thắng
lợi trên mọi lĩnh vực. 1 lOMoAR cPSD| 45568214
Bên cạnh đó, theo quan điểm của V.I.Lê-nin, trong thời kỳ quá độ, các nước phải
chấp nhận nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một phần trong
toàn bộ nền kinh tế đất nước, vì “phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương
pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn không thể bỏ qua trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản, dù quá độ kiểu này hay
kiểu khác đều là quy luật và xu hướng tất yếu của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Ngoài ra, đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ là phát triển kinh tế nhiều thành
phần trên cơ sở phát triển nhiều hình thức sở hữu; phát triển những hình thức kinh tế quá
độ và phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nền
tảng tư tưởng và phương pháp luận khoa học cho chính đảng của giai cấp công nhân, là cơ
sở lý luận để hoạch định chủ trương, đường lối đấu tranh giành, giữ chính quyền và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Song, việc vận dụng học thuyết Mác – Lê-nin nói chung và các luận
điểm về vấn đề sở hữu nói riêng đòi hỏi phải đặt trong điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc
gia, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, tránh sự rập khuôn máy móc, giáo điều, nếu
không chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Theo đó, kế thừa quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen
và Lênin, Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo và kiên
trì trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Tính chất và đặc điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
quan điểm của Hồ Chí Minh
Tính chất của thời kỳ quá độ: Đây là thời kỳ cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp,
lâu dài, khó khăn, gian khổ. Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là thời kỳ cải biến từ xã hội cũ thành xã hội mới - một xã hội chưa từng có trong
lịch sử dân tộc Việt Nam ta. Ở thời kỳ này, dân tộc ta phải thay đổi triệt để từ nếp sống, thói
quen đến ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; phải xoá bỏ giai cấp bóc
lột; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách
thực dân, phong kiến nên nó là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm chí
còn khó khăn, phức tạp hơn cả việc đánh giặc. Chính vì vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội không
thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không phải trải qua gia lOMoAR cPSD| 45568214
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Giống như các quốc gia khác, khi bước vào thời kỳ quá
độ, Việt Nam cũng có những đặc điểm như sự đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và
những yếu tố của xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Điều này xảy ra ở giai
đoạn đầu, khi các yếu tố của xã hội cũ còn cụm lại thành một thế lực thì có thể sẽ chiến
thắng cả những yếu tố của xã hội mới vừa xuất hiện. Song, từ thực tế của xã hội Việt Nam
ta, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Cùng với những đặc điểm khác và mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, đặc điểm này quy định nhiệm vụ của dân tộc ta trong thời kỳ mới - thời kỳ quá độ đó
là đấu tranh cải tạo, xoá bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp
với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của thời kỳ quá độ.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là khoảng thời gian lâu dài, chuyển
tiếp từ một hình thái kinh tế - xã hội cũ sang một hình thái kinh tế - xã hội mới, là một chặng
đưởng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Kế thừa và
vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về những vấn đề kinh tế -
chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát
triển kinh tế của nước nhà và nêu rõ quan điểm phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những nội dung cụ thể và nổi bật như sau:
Trước hết là thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế. Nhận thức
rõ tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu
như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong thời kỳ quá độ, nước ta tất yếu sẽ tồn
tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau, do vậy cũng không thể tránh khỏi sự đa dạng
về các thành phần kinh tế. Người đã nhận định rằng: “Trong nước ta hiện nay có những
hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn
dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu của người
lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Từ đó, Người kết
luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm
cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện
từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể.
Thứ hai là xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước
đối với từng thành phần kinh tế. Vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam ta trong tửng 3 lOMoAR cPSD| 45568214
thời kỳ, Người đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở nước
ta bao gồm: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh; các hợp tác; kinh
tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản quốc
gia. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
ba hình thức sở hữu bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân và các
thành phần kinh tế cụ thể tương ứng là Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá
nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước. Trong các thành phần
kinh tế nêu trên thì thành phần kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế lãnh đạo và phát
triển nhanh hơn cả. Đây cũng chính là lí do kinh tế Việt Nam ta sẽ phát triển theo hướng
chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản. Thực chất đó cũng là quan điểm
về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước cần
quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở mức độ phù hp.
Kinh tế quốc doanh (hay kinh tế nhà nước) là thành phần kinh tế mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, biểu hiện ở chế độ sở hữu toàn dân, tức tài sản các xí nghiệp ấy là của chung
của nhân dân, của Nhà nước, không phải của riêng. Trong quan hệ tổ chức quản lý sản xuất,
“xưởng trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhận.
Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh,
"Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới.”, do
đó, Nhà nước phải đmar bảo cho nó phát triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế hợp tác xã bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp và các hội
đổi công ở nông thôn. Đây là thành phần kinh tế có tính chất nữa xã hội chủ nghĩa, được
hình thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong thành phần kinh tế
này, “nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình
sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc thông qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Điều
này cũng thể hiện sự thống nhất giữa quan điểm của Người và quan điểm của Lênin về tổ
chức hợp tác xã đó là đảm bảo tính dân chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội
viên và phù hợp với điều kiện từng địa phương.
Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là “kinh
tế lạc hậu bởi nó mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với thành phần
kinh tế này, “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn lOMoAR cPSD| 45568214
và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.”
Kinh tế tư bản tư nhân được coi là thành phần kinh tế có tính bóc lột. Họ bóc lột công
nhân, nhưng đồng thời cũng góp phần quan trọng trong xây dựng kinh tế. Vì vậy, Nhà nước
thừa nhận quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ nhưng phải hướng dẫn
họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Nếu mình thuyết phụ khéo, lãnh đạo khéo,
họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”. Bên cạnh đó, những hoạt động đầu tư, phát triển
kinh tế chính đang, có lợi cho nước nhà của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ và bảo hộ.
Kinh tế tư bản quốc gia (hay kinh tế tư bản của Nhà nước) là thành phần kinh tế hỗn
hợp. Trong thành phần kinh tế này, Nhà nước và tư nhân hùn vốn để kinh doanh, tư bản của
tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện
việc lãnh đạo hoạt động của thành phần kinh tế này theo kế hoạch thống nhất. Đối với những
nhà tư sản công thương, Nhà nước không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của
cải khác của họ mà ra sức khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng
hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có các
nguyên tắc đảm bảo đoàn kết, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong chiến
lược phát triển kinh tế.
Một là, công tư đều lợi: “công” là kinh tế quốc doanh,”tư” là những nhà tư bản dân
tộc, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đảng và Nhà nước phải ra sức phát
triển kinh tế quốc doanh, nhân dân phải ủng hộ kinh tế quốc doanh, đồng thời, những người
có hành động phá hoại kinh tế quốc doanh sẽ bị trừng trị.
Hai là, chủ thợ đều lợi: thừa nhận sự bóc lột của nhà tư bản là tất yếu, tuy nhiên Chính
phủ cần “ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay”, phải bảo vệ quyền lợi chính đags của
người công nhân. Sự hợp tác trong sản xuất và chấp nhận những quyền lợi trong chừng mực
của cả chủ và thợ cũng là một trong những động lực nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Ba là công nông giúp nhau: xây dựng liên minh công nông đoàn kết, đẩy mạnh phát
triển thương nghiệp và chế biến, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp. 5 lOMoAR cPSD| 45568214
Bốn là lưu thông trong – ngoài: thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường giao lưu
hợp tác phát triển kinh tế theo hướng các bên cùng có lợi, hay nói cách khác chính là hội
nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị.
Qua đây có thể thấy, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là một nền tảng cho cơ sở
lý luận trong việc hoạch định chiến luợc phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ mới,
nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế mà tất cả các ngành đều phát triển một cách đồng đều,
không bị phụ thuộc quá mức vào các ngành khác. Mục tiêu này nhằm đảm bảo sự cân bằng
trong phát triển kinh tế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào một số ngành cụ thể. Đồng thời, cơ
cấu kinh tế cần được phân bổ một cách hợp lý, tập trung vào việc tăng cường phát triển các
ngành kinh tế ưu tiên như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, và khai thác tài nguyên, nhằm
đảm bảo sự đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển vào thực tiễn xây dựng
chính sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Trong hơn 35 năm đổi mới phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chúng ta đã có những bước đi đúng đắn và đạt được những thành tựu quan trọng.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã hoạch định và thực
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác sức mạnh toàn dân trong các thành
phần kinh tế, đồng thời thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đảng nhận định rằng: “Xuất
phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả
về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với
việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của
Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác”, đồng thời chỉ ra: “Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: Kinh
tế xã hội chủ nghĩa; Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp lOMoAR cPSD| 45568214
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng núi cao khác”.
Tiếp đó, ở Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, kinh tế gia đình
tuy không phải một thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển. Ngoài
ra, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản sẽ hình
thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong đó,
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển những ngành, lĩnh vực then chốt; kinh tế tập
thể phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề với quy mô và mức độ tập thể hoá
khác nhau, được thực hiện trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của người lao động. Bên
cạnh đó, kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển ở cả thành thị và nông thôn; kinh tế tư
bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những
ngành nghề không bị pháp luật nghiêm cấm. Các chính sách về kinh tế nhiều thành phần
được Nhà nước xây dựng nhất quán, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp
pháp, không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng được tổ chức đã xác định nền kinh tế nước ta gồm
các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể,
tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Trong Nghị quyết Đại hội IX năm 2001, Đảng chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hàng theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế trong giai đoạn này bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành
phần kinh tế được thêm mới, thể hiện vai trò của việc thu hút các nguồn lực bên ngoài cho
sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nguyên tắc “lưu thông trong – ngoài”.
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Nghị quyết Đại hội lần thứ
X năm 2006, Đảng đã chỉ ra các thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng cũng
khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”, đồng thời nhấn mạnh vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, song cũng chỉ ra kinh tế tư nhân là một trong những động 7 lOMoAR cPSD| 45568214
lực của nền kinh tế. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới, kế thừa và phát triển tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư duy kinh tế của Đảng ta.
Năm 2011, Đại hội lần thứ XI diễn ra, tiếp tục chủ trương phát triển nhanh, hài hoà
các thành phần kinh tế, đồng thời khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần
kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp
tác xã. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong
những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
theo quy hoạch”. Các thành phần kinh tế lúc này chỉ bao gồm 4 thành phần: kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ở Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam ta đều hoạch
định phương hướng phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế. Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu
rộng, Đảng ta đã nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”
Ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, vị trí, vai trò và chính sách phát triển đối
với các thành phần kinh tế càng được nhấn mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước được coi là
công cụ, lực lượng vật chất quan trọng, có vai trò ổn định nền kinh tế vĩ mô, định hướng,
điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các lĩnh vực then chốt như an ninh,
quốc phòng hay các địa bàn quan trọng được doanh nghiệp nhà nước tập trung chú trọng,
hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu và cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Như vậy có thể thấy rằng, trải qua một chặng đường dài xây dựng và phát triển đất
nước, nhận thức về thành phần kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Đây là quá trình khách quan
phù hợp với quy luật nhận thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy về các thành phần kinh tế
ở nước ta qua các kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
II. Những thành quả đạt được
Trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất
định về kinh tế - xã hội. lOMoAR cPSD| 45568214
Trước hết, về phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn; tốc độ tăng trưởng kinh tế của
nước ta duy trì ở mức khác cao; quy mô và tiềm lực kinh tế tăng lên; chất lượng tăng trưởng
đang ngày càng được cải thiện. Vượt qua bao khó khăn, thách thức, Việt Nam đã đạt được
những con số ấn tượng trong phát triển kinh tế. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2022
của Việt Nam lần đầu tiên vượt 400 tỉ USD. Theo Tổng cục thống kê, GDP bình quân đầu
người năm 2022 ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so
với năm 2021. Tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt liên tục trong thời gian dài (42 năm),
đứng hàng đầu thế giới (chỉ thấp thua kỷ lục 45 năm do Trung Quốc hiện nắm giữ). Đặc
biệt, GDP năm 2022 của Việt Nam ghi nhận mức tăng cao nhất trong vòng 12 năm qua với
mức tăng 8,02% so với năm trước. Cơ cấu GDP chuyển dịch theo hướng tỷ trọng của nông,
lâm - thủy sản giảm, công nghiệp - xây dựng tăng (trong đó của công nghiệp chế biến, chế
tạo (là tiêu chí của nước công nghiệp) đã tăng tương ứng 34,27% và 20,96% của năm 2015,
lên 38,26% và 24,76% năm 2022); dịch vụ dù bị giảm do 2 năm đại dịch, nhưng chiếm tỷ
trọng cao nhất trong 3 nhóm ngành. Điều đó là phù hợp với định hướng của kế hoạch, chiến
lược và phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước.
Về phát triển xã hội, an sinh xã hội đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Việc phát triển
kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách phát triển đã giúp cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, đồng thời không ngừng nâng cao mức sống và chất lượng sống. Tỷ lệ
hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8%
năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa
chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết
các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học
và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Ngoài ra, Việt Nam được Liên hợp quốc công
nhận là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm
nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Có thể thấy, dưới sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng, chúng ta đã đạt được
những kết quả đầy ấn tượng, “"Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay". Điều này một lần nữa khẳng định sự tin tưởng tuyệt đối của chúng
ta vào đường lối lãnh đạo của Đảng, khẳng định việc tiến lên đến chủ nghĩa xã hội là một
lựa chọn đúng đắn và phù hợp hoàn toàn với nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế của chúng ta được xây dựng và phát triển một cách 9 lOMoAR cPSD| 45568214
có tính quy luật chung và cũng đặc thù, phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước trong quá
trình chuyển từ nền kinh tế cũ sang chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại trong
hệ thống kinh tế của Việt Nam đều có vị trí và vai trò riêng biệt, và chúng thực hiện các
nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. III. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng về phát triển kinh tế - xã
hội nhưng quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những
hạn chế cần phải được khắc phục. Cụ thể:
- Khu vực kinh tế nhà nước còn gặp nhiều khó khăn trong khâu quản lý, dẫn đến hiệu
quả đầu tư và sử dụng vốn chưa cao, năng lực cạnh tranh yếu và năng suất lao động thấp.
- Kinh tế tập thể, mặc dù tăng về quy mô, nhưng vẫn chưa xác định rõ ràng về phương
thức quản lý, liên tục gặp khó khăn trong nhiều khía cạnh.
- Kinh tế tư nhân, mặc dù số lượng đăng ký lớn, nhưng thực tế hoạt động vẫn hạn chế,
quy mô nhỏ, trình độ quản lý và công nghệ thấp, dẫn đến hiệu quả và cạnh tranh không cao.
- Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều hạn chế trong chiến lược
thu hút và quản lý dự án, hậu quả là gây ra nhiều bất cập về ngành nghề, trình độ công nghệ,
sử dụng tài nguyên, quan hệ với các khu vực và tác động môi trường…
IV. Nguyên nhân và giải pháp 1. Nguyên nhân
Trước hết, lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng với hàng
nghìn năm dựng nước, giữ nước và đến nay bước vào thời kỳ đổi mới. Điều này đã để lại
những dấu ấn lớn, đồng thời cũng tạo nên những rào cản, khó khăn nhất định trong việc đổi
mới nền kinh tế. Việc kế thừa cơ cấu nền kinh tế từ quá khứ đã dẫn đến sự không cân đối
trong cơ cấu thành phần kinh tế hiện tại. Tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh
vực nhưng việc phân bố tài nguyên và cơ sở hạ tầng tại nước ta chưa đồng đều, hầu hết chỉ
tập trung ở các khu đô thị và các thành phần kinh tế như kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế gia đình.
Ngoài ra, dù sở hữu lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, chất lượng lao động còn
nhiều hạn chế, cần được nâng cao. Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu suất lao động và năng lực cạnh tranh còn yếu kém.
Bên cạnh đó, hệ thống quản lý, thực thi pháp luật cũng như các khâu hành chính đôi
khi không đảm bảo công bằng, minh bạch, còn dập khuôn máy móc, gây ra nhiều trở ngại, lOMoAR cPSD| 45568214
tốn kém chi phí, thời gian trong hoạt động kinh tế. Đây chính là một trong những nguyên
nhân tạo nên môi trường không thuận lợi cho doanh nghiệp và đầu tư. 2. Giải pháp
Đứng trước những khó khăn và hạn chế của thời kỳ đổi mới, trong Nghị quyết Đại
hội XIII, Đảng đã chỉ ra: tiếp tục đẩy mạnh và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước;
tăng cường liên kết chặt chẽ và thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế
- xã hội là trọng tâm, với mục tiêu trong 5 năm tới, Việt Nam sẽ trở thành một nước đang
phát triển, có nền công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng xác định một số chỉ tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn 5 năm (2021-2025): Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm
đạt khoảng 6,5 - 7% mỗi năm; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị giảm xuống dưới 4% vào
năm 2025; Năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; Tỷ trọng
công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP;
Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội đạt khoảng 25%.
Dựa trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội và kết quả phân tích, đánh giá
và nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam theo hướng ổn định và bền vững hơn. Để đạt được mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng đã đề ra, cần triển khai các biện pháp sau:
- Thứ nhất, tận dụng các lợi thế trong nông, lâm, ngư nghiệp để phát triển khu vực
này theo hướng bền vững và ổn định, tập trung vào công nghiệp hóa các ngành chế biến
lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ...; Một phần để tăng giá trị sản
phẩm và phát triển các ngành công nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp,
đồng thời giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
- Thứ hai, mặc dù lực lượng lao động và nguồn vốn đầu tư phát triển trong toàn xã hội
đang tập trung vào khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây dựng khá cao, nhưng tỷ trọng
đóng góp vào GDP chưa phản ánh đúng, cho thấy khu vực này đang lãng phí lao động và
vốn. Do đó, cần phát triển ngành công nghiệp theo hướng tận dụng các nguyên liệu trong
nước thay vì nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu; ngành khai khoáng nên tập trung vào việc
nâng cao giá trị sản phẩm thông qua chế biến thành các sản phẩm trung gian cung ứng cho
ngành công nghiệp và tăng cường xuất khẩu.
- Thứ ba, phát triển bền vững ở các khu vực 1 và khu vực 2 sẽ tạo ra việc làm, thu
nhập cho người lao động và tạo ra nhiều sản phẩm nội địa chất lượng cao, trong khi khu
vực dịch vụ sẽ tự phát triển mạnh mẽ; đồng thời, giảm nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu. 11 lOMoAR cPSD| 45568214 KẾT LUẬN
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam và
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế đã và đang được áp dụng rộng rãi trong quá trình
phát triển kinh tế của đất nước. Tư tưởng của Người không chỉ là sự kế thừa và phát triển
từ tư tưởng Mác - Lênin mà còn là sự sáng tạo, kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn,
phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Mặc dù thực tế luôn biến đổi và đặt ra nhiều thách
thức mới, nhưng những quan điểm về giai đoạn chuyển đổi của Hồ Chí Minh vẫn giữ
nguyên giá trị và sẽ tiếp tục được phát triển trong bối cảnh mới.
Nhận thức rõ các điểm mạnh và yếu của các thành phần kinh tế thông qua quá trình
tìm hiểu và phân tích giúp chúng ta xác định hướng phát triển phù hợp cho từng thành
phần kinh tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức sâu sắc về những thành phần kinh
tế hiện này và luôn nỗ lực hoàn thiện chúng bằng việc đề ra các chính sách phù hợp và
nhất quán với từng loại hình kinh tế, cũng như với mục tiêu và hướng phát triển của nền
kinh tế đa dạng của Việt Nam thông qua các kỳ đại hội của Đảng.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần không chỉ là vấn đề chiến lược lâu dài mà còn là
một quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Một lần nữa, chúng ta lại thấy
sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong việc lãnh đạo sự phát triển
nền kinh tế - xã hội theo phép biện chứng khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh
cụ thể nhất định. Dưới ánh sáng tư tưởng của Người và với đường lối lãnh đạo của Đảng,
chúng ta có quyền hy vọng rằng trong tương lai không xa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát
triển ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, vị thế của ta trên trường quốc tế sẽ ngày càng được nâng
cao và thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen (2002): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. V.I.Lênin: Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), “Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XIII”
7. Tổng cục Thống kê (2021), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội” các năm 2010 đến 2020,