Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng
quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh
tế nước ta hiện nay.
Họ và tên : Nguyễn Minh Tâm
Mã sinh viên : 11225680
Lớp tín chỉ : Tư tưởng Hồ Chí Minh_Digital Marketing
64D_AEP(222)_15
Giảng viên : TS. Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI – 2023
lOMoARcPSD| 45568214
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................
2
NỘI DUNG .....................................................................................................................
3
CHƯƠNG I. SỞ LUẬN ....................................................................................
3
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tê trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................
3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ...........................................................................................................
6
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ..........................
6
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ...........................................................................................
8
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG ..........................................................................................
13
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam .................................................
13
2. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay . ...............................................................................
13
2.1 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. ......................................................................................................
13
2.2 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp. ..................................
14
2.3 Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. ............................................................
15
lOMoARcPSD| 45568214
2
3. Hạn chế ...................................................................................................................
15 4. Giải pháp đề xuất
................................................................................................... 15
KẾT LUẬN ..................................................................................................................
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................
19
MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cách mạng đổi mới, từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giai đoạn mà theo Lênin, tất cả các dân tộc trên thế
giới đều phải trải qua trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Do đó, có thể nói thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Vận dụng sáng tạo và linh hoạt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện thực tế của nước nhà, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã xây dựng
nên đường lối phát triển đúng đắn, dẫn dắt và hướng đất nước tới sự phát triển cao hơn
về mọi mặt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Và trong số đó, kinh tế được
coi là một trong những lĩnh vực được Người chú ý và ưu tiên phát triển. Việt Nam là
một quốc gia trải qua “bước nhảy vọt”, có nghĩa thay vì từng bước tiến dần lên xã hội
chủ nghĩa thông qua chủ nghĩa tư bản, nước ta xác định sẽ bỏ qua chế độ này và tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng một thời kỳ quá độ gián tiếp sẽ phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế nước nhà và mang lại hiệu ứng dụng cao.
Xét theo từng phương diện, Hồ Chí Minh đã xác định cơ cấu kinh tế Việt Nam bao
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân của nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và đồng thời cũng cụ thể rõ vai trò và nhiệm vụ của
từng phương diện. Bên cạnh đó, các quan hệ lợi ích của thành phần tham gia vào nền
kinh tế cần phải được đảm bảo giải quyết một cách hài hoà, phù hợp nhằm tạo động
lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường hàng hoá định hướng chủ nghĩa xã hội.
Từ những quan điểm tiến bộ và tiên tiến trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
vận dụng một cách năng động và sáng tạo vào công cuộc hoàn thiện và đổi mới chính
sách, cơ chế nhằm phát triển nền kinh tế nước nhà văn minh, công bằng và tiến bộ.
NỘI DUNG
lOMoARcPSD| 45568214
3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ăngghen đã đề cập rằng
xã hội loài người đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thuỷ - chiếm
hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ nghĩa, và cuối cùng sẽ là cộng sản chủ nghĩa. Và
trong giai đoạn chuyển tiếp giữa các hình thái, luôn có một thời kỳ trung gian, được
gọi là thời kỳ quá độ. Hay có thể nói, “thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo cách mạng xã
hội”
1
từ hình thái kinh tế - xã hội này lên bậc hình thái cao hơn.
Trong đó, chủ nhĩa xã hội được coi là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, với
quan niệm là một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Khác với
chủ nghĩa tư bản còn tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản thông qua sự bóc
lột giá trị thặng dư; C.Mác cho rằng chủ nghĩa xã hội là một chế độ có sự công hữu về
tư liệu sản xuất. Có thể nói, hình thái kinh tế - xã hội sau, ở đây là chủ nghĩa xã hội,
tiến bộ và phát triển hơn hình thái trước đó, là chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, việc tiến lên
chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. “Tôi coi sự phát triển, thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử, tự nhiên”
2
.
Trong học thuyết về các hình thái xã hội, C.Mác đã minh chứng diễn trình lịch sử
phát triển xã hội loài người. Lịch sử loài người là lịch sử của sự thay thế lẫn nhau giữa
các hình thái kinh tế - xã hội và hình thái kinh tế - xã hội sau luôn phát triển và tiến bộ
hơn hình thái kinh tế - xã hội trước. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đến một giai
đoạn nhất định mà trong nội tại của nó sẽ có những mâu thuẫn đặt ra yêu cầu cần phải
được giải quyết. Những mâu thuẫn đó chính là nguồn cơn dẫn đến các cuộc cách mạng
xã hội. Cách mạng xã hội giải quyết mâu thuẫn và góp phần mở ra một hình thái kinh
tế - xã hội mới.
Đến hình thái kinh tế - xã hội tư bản, C.Mác đã phát hiện và nhận biết được mâu
thuẫn giai cấp trong lòng tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ. Mâu thuẫn trong bản thân quan
hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản chính là sự chiếm đoạt giá trị thặng dư của các nhà tư
bản với công nhân, cũng như là sự tư hữu về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này cần phải
được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng là Cách mạng vô sản, được lãnh đạo
1
Công ty luật ACC (2022). Thời kỳ quá độ là gì?
2
C.Mác và Ph. Ăngghen (1993). Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, t.23; tr.21
lOMoARcPSD| 45568214
4
bởi giai cấp công nhân - giai cấp vô sản, nhằm lật độ nhà nước tư bản, xác lập nên một
chế độ xã hội mới. Loài người lúc này sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng,
là cộng sản chủ nghĩa và phải trải qua một thời kỳ quá độ.
Vận dụng vào nước Nga, đầu thế kỷ XX, sau khi đánh đổ đế quốc Nga, Lênin cho
rằng nước Nga cần xây dựng một xã hội mới, không theo mô hình tư bản chủ nghĩa
khi đó đang áp dụng phần lớn tại các nước phương Tây. Vì vậy có thể nói, chủ nghĩa
xã hội lần đầu tiên đã được khai sinh sau cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga, đồng
thời cũng mở ra một thời kì mới - thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bối
cảnh nước Nga khi xây dựng nền xã hội chủ nghĩa tồn tại nhiều đặc thù so với lý luận
chung của C.Mác. Lênin, sau đó, cũng đưa ra quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Ông cho
rằng chủ nghĩa xã hội là nền giáo dục của Mỹ, là đường sắt của của Phổ. Ở đây, chủ
nghĩa xã hội không triệt tiêu và tách rời hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Theo Lênin, chủ
nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có một nền giáo dục phát triển và cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại. Vì vậy, có thể nói rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội mang tính kế thừa
những giá trị tích cực và triệt tiêu những giá trị tiêu cực của chủ nghĩa trước đó.
Học thuyết của Mác và Ăng-ghen đã được V.I. Lênin kế thừa và phát triển. Ông
chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn. Chủ nghĩa xã hội
là tên gọi giai đoạn “cấp thấp” của chủ nghĩa cộng sản. Xã hội cộng sản hay chủ nghĩa
cộng sản là cấp độ cao hơn. Và thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội
là tất yếu khách quan và lâu dài.
Kế thừa quan điểm của C.Mác, Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn “cấp thấp” của chế độ này, sự công bằng
và bình đẳng về mặt của cải, vật chất dù vẫn chưa thể đảm bảo, tuy nhiên, tình trạng
người áp bức người sẽ không còn nữa vì các tư liệu sản xuất, phần lớn sẽ thuộc sở hữu
của xã hội. Do đó, lợi ích khách nhau do các thành phần kinh tế khách nhau vẫn còn
tồn tại, nên trong chủ nghĩa xã hội lúc này vẫn sẽ có giai cấp. Theo chủ trương phát
triển của Lênin với nước Nga lúc bấy giờ, nền kinh tế nhiều thành phần vẫn được phát
triển, tuy nhiên, kinh tế nhà nước hay sự công hữu vẫn được đảm bảo để giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhằm điều tiết, định hướng các thành phần kinh tế
còn lại.
Trong những luận giải của mình, Lênin cho rằng những đặc điểm riêng của chủ
nghĩa xã hội - những yếu tố không thể có được trong lòng chủ nghĩa tư bản, là nguyên
nhân chính để tạo ra một năng suất lao động cao hơn hình thái kinh tế - xã hội cũ. Ở
đây, đó chính là sự tổ chức và kỷ luật lao động mới. “V.I. Lênin khẳng định kỷ luật của
chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của CNTB là kỷ luật đói;
lOMoARcPSD| 45568214
5
còn kỷ luật của CNXH là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao
động.”
3
Vì vậy, khi Chính sách kinh tế mới ở Nga được thực hiện, ông cho rằng cần
phải đề cao tư tưởng về sự kiểm soát toàn dân. Theo Lênin, đây là một hình thức của
sự quá độ, giữ cho đất nước không chệch khỏi đường ray tiến lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống tổ chức lao động và kỷ luật lao động để tạo ra
năng suất cao hơn, phân phối theo lao động cũng được áp dụng trong chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin, phân phối theo lao động, hay phân phối tư liệu sinh hoạt cho người lao
động sản xuất là một phương thức của thời kỳ quá độ - giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã
hội cộng sản. Phương thức này được đánh giá là phù hợp nhất với chế độ xã hội chủ
nghĩa, do nó dựa trên sự công hữu về mặt tư liệu sản xuất. Phân phối dựa trên lao động
không có nghĩa mỗi cá nhân sẽ được hưởng từng đó sản phẩm mình sản xuất. Ngược
lại, toàn bộ sản lượng lao động xã hội phải được phân bổ cho tích lũy tái sản xuất kéo
dài, tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng chung. Phương thức phân phối sẽ biến đổi tùy
thuộc vào loại cơ cu sản xuất xã hội đang xét cũng như các giai đoạn phát triển lịch
sử của cá nhân người sản xuất.
Vì vậy, xét theo phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội là một hình thái kinh tế xã
hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về mặt tư liệu sản xuất. Tuy
nhiên, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thừa nhận nền kinh tế
bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận cấu thành nên nền kinh
tế quốc dân, nhằm “lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất”
4
.
3
Nguyễn, Thị Ngân (2015). Những phác thảo của VI LêNin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
4
V.I.Lênin (1977). Toàn tập, Nxb TB M, t.43, tr.276
lOMoARcPSD| 45568214
6
lOMoARcPSD| 45568214
7
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội đã được Hồ Chí Minh xây dựng và
hình thành, vận dụng và phát triển sáng tạo dựa trên tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin.
Căn cứ trên cơ sở và điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của dân tộc Việt Nam, Người đã
khái quát quan niệm về chủ nghĩa xã hội dựa trên những góc độ tiếp cận khác nhau của
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Nhìn dưới góc độ là một hình thái kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng chủ
nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, là một dạng hình thái kinh tế - xã
hội sau và tiến bộ hơn hình thái trước đó là tư bản. Do đó, để tiến tới hình thái kinh tế -
xã hội cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa, đất nước ta cần phải trải qua thời kỳ quá độ đi
lên xã hội chủ nghĩa.
Tiếp cận qua phương diện nhu cầu của con người Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng, bình đẳng, nơi con người được sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân thống nhất và gắn bó chặt chẽ với quyền lợi
tập thể. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.
4
Người
cho rằng chế độ dân chủ cộng hòa - chế độ xã hội chủ nghĩa - là nơi duy nhất thực hiện
được công bằng xã hội và bình đẳng cho mọi người. Chỉ dưới chế độ chủ nghĩa xã hội,
nhân dân lao động mới có thể được hưởng lợi ngày càng nhiều hơn từ sự công bằng,
bình đẳng và “có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi”
5
Kế thừa tư tưởng của Lênin, Người còn có sự bổ sung quan trọng trong quan niệm
về chủ nghĩa xã hội của mình khi khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe
lửa, ngân hàng…làm của chung”
6
. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chế độ
có sự công hữu về tư liệu sản xuất, ủng hộ quyền sở hữu của xã hội đối với các tư liệu
sản xuất.
4
Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.496
5
Hồ Chí Minh (2013). Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.8, tr.264
6
Hồ Chí Minh (2013). , Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.10, tr.390
lOMoARcPSD| 45568214
Toàn tập
8
Từ những góc độ tiếp cận khác nhau ở nhiều lĩnh vực, Hồ Chí Minh khẳng định
tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan của dân tộc, của lịch sử loài người. Vận
dụng sáng tạo Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, Người cho rằng Việt
Nam đã tuân thủ và sẽ đi theo quy luật tất yếu này. Do trong lòng xã hội Việt Nam tồn
tại những điều kiện, những yếu tố đảm bảo khả năng xây dựng và đi lên chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuỳ theo bối cảnh cụ thể, mỗi quốc gia sẽ có những cách thức khác nhau để
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Căn cứ theo điều kiện thực tế ở Việt Nam, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là con đường hoàn toàn phù hợp và khách quan với quy luật chung
của các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, thích hợp với các điều
kiện lịch sử của cách mạng dân tộc. Đồng thời, con đường này là một yêu cầu tất yếu
khách quan, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
Xã hội chủ nghĩa, theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, nhân
văn, hướng tới giải phóng con người và phát triển con người một cách toàn diện. Vận
dụng quan niệm về 5 đặc trưng chủ nghĩa xã hội của Lênin, Người đã khái lược thành
4 đặc trưng thông qua các góc độ tiếp cận đa chiều trên nhiều lĩnh vực:
Đầu tiên là đặc trưng về chính trị. Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội là một
xã hội có nền chế độ chính trị dân chủ. Ưu thế chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin: một xã hội do
người dân lao động làm chủ, đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đang xây dựng. Đặc trưng quan trọng và mang tính quyết định của một xã hội xã hội
chủ nghĩa là “nhân dân làm chủ”. Yêu cầu về một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” gắn bó chặt chẽ với đặc trưng trên và quyền lợi của nhân
dân lúc này được đảm bảo bởi một tổ chức chính trị dẫn đường và lãnh đạo, là Đảng
cộng sản.
Thứ hai là đặc trưng về kinh tế. Kinh tế phát triển là tiền đề để xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế quyết định sự ổn định và
phát triển của xã hội, vì nó là lực lượng vật chất, là sức mạnh nội tại bên trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh quan niệm: Xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đây cũng chính là đặc trưng phân
biệt chủ nghĩa xã hội với sự tư hữu trong hình thái kinh tế phong kiến và tư bản. Đối
tưởng sở hữu là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở
lOMoARcPSD| 45568214
9
hữu. Đây chính là đặc điểm thể hiện tính ưu thế khác biệt về phương diện kinh tế của
chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội khác.
Thứ ba là đặc trưng về văn hoá. Nếu nói nền kinh tế phát triển là nguồn lực vật
chất, thì văn hóa sẽ là nguồn lực tinh thần bên trong của một xã hội tiến bộ. Trong một
xã hội xã hội chủ nghĩa, con người là chủ thể sáng tạo văn hoá, là khách thể được phản
ánh qua các tác phẩm văn hoá và đồng thời là đối tượng hưởng thụ giá trị văn hoá. Do
đó, trên con đường xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội, một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, sẽ là động lực cũng như phương tiện thúc đẩy quá trình phát
triển bền vững của một đất nước. “Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều
với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn
đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao.”
7
Thứ tư là đặc trưng về xã hội. Xã hội chủ nghĩa là một xã hội công bằng văn minh.
Về mặt lý thuyết, công bằng xã hội thể hiện quyền tiếp cận bình đẳng của tất cả mọi
người về cả phương diện vật chất và tinh thần. Về mặt kinh tế, công bằng xã hội
thường thể hiện quá trình phân phối của cải, sản phẩm lao động và cơ hội kinh tế của
mọi tầng lớp lao động trong xã hội. Do đó, để đảm bảo một xã hội công bằng văn
minh, Hồ Chí Minh khẳng định cần phải có nguyên tắc phân phối lợi ích, dựa trên
khẩu hiệu của C.Mác trong văn kiện Phê phán Cương lĩnh Gotha “Làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu”
8
.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quá độ xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh nêu rõ: Thời kỳ quá độ là “thời kỳ dân chủ mới”, từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đó sẽ là thời kỳ cải biến sâu sắc nhưng phức tạp, lâu dài và gian khổ. Thời kỳ quá
độ ở Việt Nam mang đặc điểm gián tiếp, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội và không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm rút
ngắn thời gian và điều chỉnh phù hợp với đặc trưng thực tế của đất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời
kỳ lịch sử với “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
7
GS.TS Nguyễn, V. N. (2015). Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội
XI của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
8
C.Mác (1875). Phê phán Cương lĩnh Gotha
lOMoARcPSD| 45568214
Toàn tập
10
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".
9
2.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
9
Hồ Chí Minh (1996). , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.10, tr. 13
lOMoARcPSD| 45568214
Toàn tập
11
Hồ Chí Minh đã nêu rõ những nhiệm vụ cần phải hoàn thành trong suốt giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc xác lập quan hệ sản
xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu ngành, thành phần, vùng và lãnh thổ kinh tế trong
thời kỳ quá độ đều là những vấn đề cấp bách. Điều này bao gồm nâng cao năng suất
lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Việc điều hành nền kinh tế
các mối quan hệ trong chuỗi phân phối được coi là nhiệm vụ mấu chốt.
Người khẳng định, mục đích của việc phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là đáp ứng nhu cầu về vật chất ngày càng tăng của nhân dân và đồng
thời tạo ra nhiều của cải để phục vụ cách mạng dân chủ nhân dân ở Việt Nam lúc bấy
giờ. Theo Hồ Chí Minh, cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển dựa vào nông
nghiệp và công nghiệp hiện đại, dựa vào khoa học – kĩ thuật tiên tiến nhằm xoá bỏ dần
sự bóc lột thông qua giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản. Do trong giai đoạn tiến lên
xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại thành phần kinh tế tư bản cũng như sự bóc lột của tư bản.
Vì vậỵ, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta xây dựng và phát triển
nền kinh tế theo hướng nhiều thành phần.
a) Cơ cấu thành phần kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, từ tính quy luật của giai đoạn quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa
một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, đất nước ta trong thời
kỳ này sẽ tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. “Trong nước ta hiện nay có những
hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của
toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu
của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”
10
.
Trong Thưởng thức chính trị (1953), Hồ Chí Minh đã đề cập đến tính tất yếu của việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm 6 thành phần kinh và vai trò của từng
thành phần trong chế độ dân chủ mới và trong vùng tự do. Và qua Văn bản sửa đổi
Hiến pháp (1959), Người tiếp tục chỉ rõ: sau khi dành độc lập dân tộc, thiết lập nhà
nước mới, nền dân chủ mới, cần phải tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí
Minh đã khẳng định, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản chủ
nghĩa như Trung Quốc và Việt Nam phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Có năm loại
nền kinh tế khác nhau trong nền dân chủ mới. Trong chế độ dân chủ mới đó, tồn tại 5
thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm:
10
Hồ Chí Minh (2011). , tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - ST, tr.372
lOMoARcPSD| 45568214
Toàn tập
12
- Kinh tế quốc doanh (kinh tế nhà nước)
- Các hợp tác xã (kinh tế tập thể)
- Kinh tế của cá nhân, của nông dân và của thủ công nghệ (kinh tế tư nhân) -
Kinh tế tư bản của tư nhân
- Kinh tế tư bản của nhà nước
Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh hay còn gọi là kinh tế quốc gia là thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, giữ vai trò chủ đạo, điều tiết các nền kinh tế còn lại và
là “xương sống” của nền kinh tế quốc dân. Do đó, kinh tế Việt Nam sẽ xây dựng và
phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, thay vì phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đại hội XII khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam … có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”
11
.
b) Cơ cấu ngành kinh tế
Trong nền kinh tế quốc dân tồn tại ba ngành kinh tế chính: công nghiệp, nông
nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp, theo Hồ Chí Minh, là hai
phương diện quan trọng nhất, có tác động qua lại mật thiết với nhau.
Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp
và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”
12
. Hồ Chí
Minh đã dành cho ngành nông nghiệp nước ta sự quan tâm đáng kể kể từ khi nền kinh
tế nước ta bắt đầu phát triển. Người khẳng định nông nghiệp phải là nền tảng, là trụ cột
chính dựa theo điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội. Nếu trong giai đoạn đầu của thời
kỳ quá độ, phát triển nông nghiệp được cho một trong những thế mạnh của đất nước
ta; thì ở giai đoạn sau, khi lực lượng sản xuất đạt đến sự tiến bộ nhất định, công nghiệp
và dịch vụ được chú trọng và quan tâm phát triển hơn, chiếm tỉ trọng lớn trong nền
kinh tế quốc dân, nhằm thay thế nông nghiệp.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, tr.102 – 103
12
Hồ Chí Minh (2011). , Nxb. CTQG, Hà Nội, t.13, tr. 375
lOMoARcPSD| 45568214
13
Xét theo nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ, Người cho rằng trong giai đoạn đầu
cần ưu tiên phát triển dịch vụ và thủ công nghiệp. Công nghiệp nhẹ trước, công nghiệp
nặng sau. Căn cứ theo thời kỳ quá độ với nền tảng đi lên chủ nghĩa xã hội là tư bản
chủ nghĩa, Liên Xô đã đi đầu và tập trung phát triển ngành công nghiệp nặng, mà trọng
tâm là ngành công nghiệp năng lượng, chế tạo máy móc, công cụ và công nghiệp quốc
phòng. Tuy nhiên, Trung Quốc sau chuyến thăm Liên Xô tại các thành phố công
nghiệp năm 1956, đã thực hiện các kế hoạch đại nhảy vọt trong giai đoạn 56 -58 nhằm
hướng đất nước theo sự phát triển của Liên Xô và đã thất bại. Do đó, ứng dụng vào đất
nước ta, là một quốc gia với nền kinh tế lạc hâu, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ chế
độ phong kiến, Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn con đường phát triển cơ cấu ngành
phù hợp với điều kiện kinh tế của nước nhà.
Bên cạnh đó, thương nghiệp, theo Hồ Chí Minh, là cầu nói giữa nông nghiệp và
công nghiệp, có chức năng điều tiết sự lưu thông cho nền kinh tế. Vì vậy, nhằm phát
triển sự trao đổi, lưu thông của nền kinh tế quốc dân, cần xây dựng và phát triển
thương nghiệp để tạo “đòn bẩy” kinh tế, gắn kết “công nghiệp và nông nghiệp, sản
xuất và tiêu dùng, giữa địa phương và Trung ương, trong nước và ngoài nước”
13
.
c) Cơ cấu vùng kinh tế
Xét theo cơ cấu vùng, Hồ Chí Minh chỉ đạo cần phải xác định vùng kinh tế một
cách phù hợp với đặc điểm của từng địa phương: giữa nông thôn và thành thị, hải đảo
và miền núi, nhằm rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo, dân trí và cơ sở hạ tầng giữa
các vùng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định nền kinh tế tự
chủ cần phải được xây dựng song song với việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Người cho
rằng, đất nước ta cần phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ thuộc
vào một quốc gia, dân tộc khác, dựa trên một đường lối phát triển tự lập, tự cường.
Tuy nhiên độc lập tự chủ không mang nghĩa đóng cửa khép kín, mà phải gắn với mở
rộng hợp tác quốc tế về kinh tế nhằm tiếp thu thành tựu khoa học – kĩ thuật và kinh
nghiệm quản lý trong nền sản xuất hàng hoá. Hồ Chí Minh nêu rõ, trong quá trình phát
triển hợp tác quốc tế, dân tộc ta cần giữ vững nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào nội bộ, bình đẳng hai bên cùng có lợi.
13
GS. TS Nguyễn T. K. Dung (2015). Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển thương nghiệp. Tạp chí điện tử
lý luận chính trị
lOMoARcPSD| 45568214
Toàn tập
14
Ngoài ra, Hồ Chí Minh chỉ rõ việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xác định
những nguyên tắc trong quá trình quản lý một cách phù hợp, đảm bảo sự công bằng
cho từng vùng kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng, cần phải được tập trung thực hiện.
Người cũng khẳng định, trong hoạt động quản lý, cần phải nghiêm minh xử trí những
hành vi tiêu cực, tham ô, gian lận, bè phái nhằm đảo bảo sự phát triển của một nền
kinh tế trong sạch, tiến bộ.
lOMoARcPSD| 45568214
15
Có thể thấy, xét về phương diện cơ sở lý luận về tính quy luật chung và đặc trưng
riêng trong nền kinh tế nước nhà đã được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo đặc điểm
kinh tế cơ bản của quan điểm của Mác – Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội vào tình hình thực tế của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể.
lOMoARcPSD| 45568214
16
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam từ năm 1954, miền Bắc bắt đầu bước vào quá trình quá độ xã hội chủ
nghĩa. Và đến năm 1975, khi đất nước đã giành được độc lập và hoàn toàn thống nhất,
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội được tiến hành trên
phạm vi cả nước.
Vận dụng sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xây dựng và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội một
cách phù hợp dựa trên cơ sở và điều kiện thực tế của nước nhà. Lênin từng chỉ ra rằng:
“ Tất cả các dân tộc đều sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Và quan niệm đó đã được Đảng
ta xác định đi theo qua Cương lĩnh đầu tiên: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, có thể nói thời kỳ quá độ là một giai
đoạn tất yếu mà dân tộc ta sẽ trải qua, và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa đó sẽ
mang những đặc điểm, đặc trưng phù hợp với cơ sở lịch sử và điều kiện thực thế của
Việt Nam.
Đặc điểm chủ yếu của hình thức quá độ gián tiếp ở Việt Nam là bỏ qua giai đoạn
phát triển hình thái kinh tế - xã hội tư bản và đi thẳng từ một nước nông nghiệp lạc hậu
lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực hiện “bước nhảy vọt”, Việt Nam không triệt
tiêu hay đối lập với tư bản chủ nghĩa. Thay vào đó, kiến trúc thượng tầng và kiểu nhà
nước bóc lột tư sản được bỏ qua, nhưng những tiên tiến, hiện đại về khoa học –
thuật, cơ sở vật chất vẫn được tiếp tục kế thừa và tiếp thu. Đặc điểm trên được áp
dụng dựa trên cơ sở lịch sử và điều kiện thực tế của Việt Nam nhằm xóa bỏ tàn dư còn
tồn đọng của chế độ xã hội cũ, đồng thời từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội phát
triển.
2. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
2.1 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
lOMoARcPSD| 45568214
17
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
14
. Đặc biệt, Đảng và Chính
phủ luôn cùng nhau giải phóng mọi sức sản xuất, đánh dấu những giai đoạn có ý nghĩa
chiến lược lâu dài theo quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế
trong công cuộc đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm. Cụ thể trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã xác định tư tưởng chỉ
đạo cơ bản: giải phóng sức sản xuất tạo đột phá đổi mới kinh tế, khai thác tối đa tiềm
năng đất nước, đồng thời hình thành và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
song song với phát triển nền kinh tế lực lượng sản xuất.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991) và xuyên suốt 7 kỳ Đại hội Đảng từ giai đoạn đổi mới ( Đại hội VI - Đại hội
XII), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương thực hiện nhất quán quan điểm “xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá đa thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”.
5 thành phần kinh tế bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được Đảng ta xác định cụ
thể trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), bám sát quan điểm Hồ Chí
Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Và
trong Đại hội đại biểu lần thứ XIII (2021) gần đây, vai trò của từng thành phần trong
nền kinh tế quốc dân tiếp tục được cụ thể và làm rõ, đồng thời nhấn mạnh việc phát
triển và cải tiến nhằm đáp ứng phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Việt
Nam trong giai đoạn tiếp theo
2.2 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, do cách áp dụng máy móc quá trình phát
triển kinh tế của Liên Xô, Việt Nam đã tập trung phát triển nền công nghiệp nặng, dẫn
tới những khó khăn và thách thức lớn trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nước nhà.
Phải đến Đại hội Đảng lần thứ VVI, áp dụng quan điểm trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh đồng thời rút kinh nghiệm từ sai lầm trước đó, Đảng ta mới xác định và chủ
trưởng thực hiện phương hướng chuyển dịnh cơ cấu ngành kinh tế một cách đúng đắn
và phù hợp: tập trung vào phát triển nông nghiệp trong giai đoạn đầu và công nghiệp
nhẹ trong giai đoạn sau.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
tr.83
lOMoARcPSD| 45568214
18
Tính đến thời điểm hiện tại, khi đã có sự chuyển biến trong tình hình trong và
ngoài nước, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản mục tiêu chặng đầu là thúc đẩy phát triển
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đường lối phát triển đúng đắn nền kinh tế đất
nước dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu ngành đã được thể hiện rõ trong Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội IX: chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần
phải dựa trên nền tảng phát huy lợi thế quốc gia, gắn với nhu cầu thị trường, đáp ứng
nhu cầu của người dân và đảm bảo quốc phòng an ninh.
Bên cạnh đó, Đảng cũng chủ trương thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành phù hợp
với từng vùng kinh tế: phát triển cơ sở vật chất nông thôn nhằm thúc đẩy nền nông
nghiệp hiện đại ứng dụng khoa học kĩ thuật để cải thiện năng suất, chuyển dịch lực
lượng sản xuất sang khu vực dịch vụ và công nghiệp trọng điểm, đồng thời nâng cao
chất lượng lao động nhằm đảm bảo nền kinh tế văn minh, phát triển, tiến bộ.
2.3 Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.
Việt Nam sở hữu 7 vùng kinh tế trọng điểm, bao gồm: Đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông Cửu Long, trung du và miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, ven biển Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Dựa theo từng đặc trưng về địa lý, khí hậu,
dân cư, văn hoá, xã hội của mỗi vùng, Đảng và nhà nước triển khai những chính sách
phát triển riêng nhằm thúc đẩy nền kinh tế của vùng đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế hiện nay, những chuyển biến hệ thống kinh tế - chính trị toàn cầu hình thành nên trật
tự thế giới đa cực đòi hỏi Việt Nam cần thay đổi quan điểm từ “mở rộng quan hệ, liên
kết và hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, xây dựng tham gia định hình cơ chế
hợp tác” là cần thiết.
Bên cạnh đó, xu thế phổ biến hiện nay trong bối cạnh toàn cầu hoá cho thấy việc
triển khai phương hướng phát triển nền kinh tế đa ngành, liên ngành và đa phương tiện
đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Do đó, để cạnh tranh với các quốc gia khác trên
thị trường quốc tế, Việt Nam cần thúc đẩy khai thác các vùng kinh tế một cách linh
hoạt và tối ưu. Để hoàn thành được nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước xác định: cần
hoàn thiện và phát triển vùng quy hoạch, để làm nền tảng thúc đẩy các vùng kinh tế
trọng điểm nhằm nâng cao năng suất, gia tăng kết cấu kiến trúc xã hội và cơ sở hạ
tầng, đảm bảo tài nguyên khoáng sản, thiên nhiên được sử dụng hợp lý bên cạnh việc
bảo vệ môi trường.
lOMoARcPSD| 45568214
19
3. Hạn chế
Cùng với những thành tựu đạt được trong công cuộc phát triển nền kinh tế hiện
nay, thực tế tăng trưởng kinh tế và việc áp dụng lý luận kinh tế Hồ Chí Minh vẫn còn
tồn tại một số mặt hạn chế nhất định.
Chất lượng kinh tế tăng trưởng của nước ta chưa cao; phần lớn dựa vào yếu tố tăng
trưởng theo chiều rộng, chủ yếu là các ngành, sản phẩm truyền thống, công nghệ cũ,
tiêu hao nguyên liệu lớn, ít quan tâm đến chất lượng, còn dựa nhiều vào vốn đầu tư và
bảo hộ. Việc thiếu sự phát triển của các doanh nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác dẫn
đến giá trị quốc gia của sản phẩm không cao. So với các nước trong khu vực, đa số các
ngành công nghiệp đều có nhu cầu cao hơn về năng lượng và nguyên liệu. Do đó, so
với tốc độ phát triển và hội nhập quốc tế, tuy đã có tiến bộ nhưng năng lực cạnh tranh
cảu nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp.
Bên cạnh đó, tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa thực sự chủ trọng và phát
triển đúng với nhiệm vụ và mục tiêu ban đầu. Kinh tế nhà nước vẫn chưa hoàn thành
vai trò chủ đạo, điều hành các thành phần khác trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân chưa đáp ứng được kì vọng tạo đòn bẩy cho nền kinh tế và chưa được nhà nước
tạo điều kiện phù hợp để phát triển. Kinh tế tập thể còn nhỏ bé với tốc độ phát triển
kém. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều thách thức về môi trường đầu tư
và khó khăn trong cơ chế, chính sách nhà nước.
Xét theo góc tổng quát, những trở ngại nêu trên một phần xuất phát từ bối cảnh thị
trường kinh tế phức tạp, cùng với đó là sự chống phá tiêu cực của các lực lượng thù
địch. Tuy nhiên, không thể phủ nhận mặt hạn chế trong quá trình tiếp thu và phát triển
quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: công tác nghiên cứu thực tiễn, lý luận
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhận thức còn chưa sâu sắc dẫn tới sự thiếu
thống nhất trong chủ trương, chính sách, việc tổ chức học tập theo tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa thực sự hiệu quả, phổ biến.
4. Giải pháp đề xuất
Thứ nhất, Đảng và nhà nước cần kiên định và đi theo quan điểm chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp vận dụng sáng tạo và đúng đắn nhằm xây dựng
một xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc trưng đất nước và tình hình thế
giới. Phát triển đồng thời nền kinh tế hàng hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa song song
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
| 1/23

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng
quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay. Họ và tên : Nguyễn Minh Tâm Mã sinh viên : 11225680 Lớp tín chỉ
: Tư tưởng Hồ Chí Minh_Digital Marketing
64D_AEP(222)_15 Giảng viên : TS. Nguyễn Chí Thiện HÀ NỘI – 2023 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................... 3
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tê trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................ 3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ........................................................................................................... 6
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .......................... 6
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ........................................................................................... 8
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG .......................................................................................... 13
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam ................................................. 13
2. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay . ............................................................................... 13
2.1 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. ...................................................................................................... 13
2.2 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp. .................................. 14
2.3 Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. ............................................................ 15 1 lOMoAR cPSD| 45568214
3. Hạn chế ...................................................................................................................
15 4. Giải pháp đề xuất
................................................................................................... 15
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 19 MỞ ĐẦU
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cách mạng đổi mới, từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giai đoạn mà theo Lênin, tất cả các dân tộc trên thế
giới đều phải trải qua trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Do đó, có thể nói thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Vận dụng sáng tạo và linh hoạt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện thực tế của nước nhà, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã xây dựng
nên đường lối phát triển đúng đắn, dẫn dắt và hướng đất nước tới sự phát triển cao hơn
về mọi mặt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Và trong số đó, kinh tế được
coi là một trong những lĩnh vực được Người chú ý và ưu tiên phát triển. Việt Nam là
một quốc gia trải qua “bước nhảy vọt”, có nghĩa thay vì từng bước tiến dần lên xã hội
chủ nghĩa thông qua chủ nghĩa tư bản, nước ta xác định sẽ bỏ qua chế độ này và tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng một thời kỳ quá độ gián tiếp sẽ phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế nước nhà và mang lại hiệu ứng dụng cao.
Xét theo từng phương diện, Hồ Chí Minh đã xác định cơ cấu kinh tế Việt Nam bao
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân của nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và đồng thời cũng cụ thể rõ vai trò và nhiệm vụ của
từng phương diện. Bên cạnh đó, các quan hệ lợi ích của thành phần tham gia vào nền
kinh tế cần phải được đảm bảo giải quyết một cách hài hoà, phù hợp nhằm tạo động
lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường hàng hoá định hướng chủ nghĩa xã hội.
Từ những quan điểm tiến bộ và tiên tiến trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
vận dụng một cách năng động và sáng tạo vào công cuộc hoàn thiện và đổi mới chính
sách, cơ chế nhằm phát triển nền kinh tế nước nhà văn minh, công bằng và tiến bộ. NỘI DUNG 2 lOMoAR cPSD| 45568214
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ăngghen đã đề cập rằng
xã hội loài người đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thuỷ - chiếm
hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ nghĩa, và cuối cùng sẽ là cộng sản chủ nghĩa. Và
trong giai đoạn chuyển tiếp giữa các hình thái, luôn có một thời kỳ trung gian, được
gọi là thời kỳ quá độ. Hay có thể nói, “thời kỳ quá độ là thời kỳ cải tạo cách mạng xã
hội”1 từ hình thái kinh tế - xã hội này lên bậc hình thái cao hơn.
Trong đó, chủ nhĩa xã hội được coi là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, với
quan niệm là một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Khác với
chủ nghĩa tư bản còn tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản thông qua sự bóc
lột giá trị thặng dư; C.Mác cho rằng chủ nghĩa xã hội là một chế độ có sự công hữu về
tư liệu sản xuất. Có thể nói, hình thái kinh tế - xã hội sau, ở đây là chủ nghĩa xã hội,
tiến bộ và phát triển hơn hình thái trước đó, là chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, việc tiến lên
chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. “Tôi coi sự phát triển, thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử, tự nhiên”2.
Trong học thuyết về các hình thái xã hội, C.Mác đã minh chứng diễn trình lịch sử
phát triển xã hội loài người. Lịch sử loài người là lịch sử của sự thay thế lẫn nhau giữa
các hình thái kinh tế - xã hội và hình thái kinh tế - xã hội sau luôn phát triển và tiến bộ
hơn hình thái kinh tế - xã hội trước. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đến một giai
đoạn nhất định mà trong nội tại của nó sẽ có những mâu thuẫn đặt ra yêu cầu cần phải
được giải quyết. Những mâu thuẫn đó chính là nguồn cơn dẫn đến các cuộc cách mạng
xã hội. Cách mạng xã hội giải quyết mâu thuẫn và góp phần mở ra một hình thái kinh tế - xã hội mới.
Đến hình thái kinh tế - xã hội tư bản, C.Mác đã phát hiện và nhận biết được mâu
thuẫn giai cấp trong lòng tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ. Mâu thuẫn trong bản thân quan
hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản chính là sự chiếm đoạt giá trị thặng dư của các nhà tư
bản với công nhân, cũng như là sự tư hữu về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này cần phải
được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng là Cách mạng vô sản, được lãnh đạo
1 Công ty luật ACC (2022). Thời kỳ quá độ là gì?
2 C.Mác và Ph. Ăngghen (1993). Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, t.23; tr.21 3 lOMoAR cPSD| 45568214
bởi giai cấp công nhân - giai cấp vô sản, nhằm lật độ nhà nước tư bản, xác lập nên một
chế độ xã hội mới. Loài người lúc này sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng,
là cộng sản chủ nghĩa và phải trải qua một thời kỳ quá độ.
Vận dụng vào nước Nga, đầu thế kỷ XX, sau khi đánh đổ đế quốc Nga, Lênin cho
rằng nước Nga cần xây dựng một xã hội mới, không theo mô hình tư bản chủ nghĩa
khi đó đang áp dụng phần lớn tại các nước phương Tây. Vì vậy có thể nói, chủ nghĩa
xã hội lần đầu tiên đã được khai sinh sau cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga, đồng
thời cũng mở ra một thời kì mới - thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bối
cảnh nước Nga khi xây dựng nền xã hội chủ nghĩa tồn tại nhiều đặc thù so với lý luận
chung của C.Mác. Lênin, sau đó, cũng đưa ra quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Ông cho
rằng chủ nghĩa xã hội là nền giáo dục của Mỹ, là đường sắt của của Phổ. Ở đây, chủ
nghĩa xã hội không triệt tiêu và tách rời hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Theo Lênin, chủ
nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có một nền giáo dục phát triển và cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại. Vì vậy, có thể nói rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội mang tính kế thừa
những giá trị tích cực và triệt tiêu những giá trị tiêu cực của chủ nghĩa trước đó.
Học thuyết của Mác và Ăng-ghen đã được V.I. Lênin kế thừa và phát triển. Ông
chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn. Chủ nghĩa xã hội
là tên gọi giai đoạn “cấp thấp” của chủ nghĩa cộng sản. Xã hội cộng sản hay chủ nghĩa
cộng sản là cấp độ cao hơn. Và thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội
là tất yếu khách quan và lâu dài.
Kế thừa quan điểm của C.Mác, Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn “cấp thấp” của chế độ này, sự công bằng
và bình đẳng về mặt của cải, vật chất dù vẫn chưa thể đảm bảo, tuy nhiên, tình trạng
người áp bức người sẽ không còn nữa vì các tư liệu sản xuất, phần lớn sẽ thuộc sở hữu
của xã hội. Do đó, lợi ích khách nhau do các thành phần kinh tế khách nhau vẫn còn
tồn tại, nên trong chủ nghĩa xã hội lúc này vẫn sẽ có giai cấp. Theo chủ trương phát
triển của Lênin với nước Nga lúc bấy giờ, nền kinh tế nhiều thành phần vẫn được phát
triển, tuy nhiên, kinh tế nhà nước hay sự công hữu vẫn được đảm bảo để giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhằm điều tiết, định hướng các thành phần kinh tế còn lại.
Trong những luận giải của mình, Lênin cho rằng những đặc điểm riêng của chủ
nghĩa xã hội - những yếu tố không thể có được trong lòng chủ nghĩa tư bản, là nguyên
nhân chính để tạo ra một năng suất lao động cao hơn hình thái kinh tế - xã hội cũ. Ở
đây, đó chính là sự tổ chức và kỷ luật lao động mới. “V.I. Lênin khẳng định kỷ luật của
chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của CNTB là kỷ luật đói; 4 lOMoAR cPSD| 45568214
còn kỷ luật của CNXH là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao
động.”3 Vì vậy, khi Chính sách kinh tế mới ở Nga được thực hiện, ông cho rằng cần
phải đề cao tư tưởng về sự kiểm soát toàn dân. Theo Lênin, đây là một hình thức của
sự quá độ, giữ cho đất nước không chệch khỏi đường ray tiến lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống tổ chức lao động và kỷ luật lao động để tạo ra
năng suất cao hơn, phân phối theo lao động cũng được áp dụng trong chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin, phân phối theo lao động, hay phân phối tư liệu sinh hoạt cho người lao
động sản xuất là một phương thức của thời kỳ quá độ - giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã
hội cộng sản. Phương thức này được đánh giá là phù hợp nhất với chế độ xã hội chủ
nghĩa, do nó dựa trên sự công hữu về mặt tư liệu sản xuất. Phân phối dựa trên lao động
không có nghĩa mỗi cá nhân sẽ được hưởng từng đó sản phẩm mình sản xuất. Ngược
lại, toàn bộ sản lượng lao động xã hội phải được phân bổ cho tích lũy tái sản xuất kéo
dài, tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng chung. Phương thức phân phối sẽ biến đổi tùy
thuộc vào loại cơ cấu sản xuất xã hội đang xét cũng như các giai đoạn phát triển lịch
sử của cá nhân người sản xuất.
Vì vậy, xét theo phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội là một hình thái kinh tế xã
hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về mặt tư liệu sản xuất. Tuy
nhiên, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thừa nhận nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận cấu thành nên nền kinh
tế quốc dân, nhằm “lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm mắt xích trung gian giữa
nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất”4.
3 Nguyễn, Thị Ngân (2015). Những phác thảo của VI LêNin về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội 4
V.I.Lênin (1977). Toàn tập, Nxb TB M, t.43, tr.276 5 lOMoAR cPSD| 45568214 6 lOMoAR cPSD| 45568214
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội đã được Hồ Chí Minh xây dựng và
hình thành, vận dụng và phát triển sáng tạo dựa trên tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin.
Căn cứ trên cơ sở và điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của dân tộc Việt Nam, Người đã
khái quát quan niệm về chủ nghĩa xã hội dựa trên những góc độ tiếp cận khác nhau của
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Nhìn dưới góc độ là một hình thái kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng chủ
nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, là một dạng hình thái kinh tế - xã
hội sau và tiến bộ hơn hình thái trước đó là tư bản. Do đó, để tiến tới hình thái kinh tế -
xã hội cuối cùng là cộng sản chủ nghĩa, đất nước ta cần phải trải qua thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa.
Tiếp cận qua phương diện nhu cầu của con người Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng, bình đẳng, nơi con người được sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân thống nhất và gắn bó chặt chẽ với quyền lợi
tập thể. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.4 Người
cho rằng chế độ dân chủ cộng hòa - chế độ xã hội chủ nghĩa - là nơi duy nhất thực hiện
được công bằng xã hội và bình đẳng cho mọi người. Chỉ dưới chế độ chủ nghĩa xã hội,
nhân dân lao động mới có thể được hưởng lợi ngày càng nhiều hơn từ sự công bằng,
bình đẳng và “có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi”5
Kế thừa tư tưởng của Lênin, Người còn có sự bổ sung quan trọng trong quan niệm
về chủ nghĩa xã hội của mình khi khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe
lửa, ngân hàng…làm của chung”6. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chế độ
có sự công hữu về tư liệu sản xuất, ủng hộ quyền sở hữu của xã hội đối với các tư liệu sản xuất.
4 Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.496
5 Hồ Chí Minh (2013). Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.8, tr.264 6 Hồ Chí Minh (2013).
, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.10, tr.390 7 lOMoAR cPSD| 45568214
Từ những góc độ tiếp cận khác nhau ở nhiều lĩnh vực, Hồ Chí Minh khẳng định
tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan của dân tộc, của lịch sử loài người. Vận
dụng sáng tạo Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, Người cho rằng Việt
Nam đã tuân thủ và sẽ đi theo quy luật tất yếu này. Do trong lòng xã hội Việt Nam tồn
tại những điều kiện, những yếu tố đảm bảo khả năng xây dựng và đi lên chế độ xã hội
chủ nghĩa. Tuỳ theo bối cảnh cụ thể, mỗi quốc gia sẽ có những cách thức khác nhau để
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Căn cứ theo điều kiện thực tế ở Việt Nam, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là con đường hoàn toàn phù hợp và khách quan với quy luật chung
của các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, thích hợp với các điều
kiện lịch sử của cách mạng dân tộc. Đồng thời, con đường này là một yêu cầu tất yếu
khách quan, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
Xã hội chủ nghĩa, theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, nhân
văn, hướng tới giải phóng con người và phát triển con người một cách toàn diện. Vận
dụng quan niệm về 5 đặc trưng chủ nghĩa xã hội của Lênin, Người đã khái lược thành
4 đặc trưng thông qua các góc độ tiếp cận đa chiều trên nhiều lĩnh vực:
Đầu tiên là đặc trưng về chính trị. Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội là một
xã hội có nền chế độ chính trị dân chủ. Ưu thế chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin: một xã hội do
người dân lao động làm chủ, đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đang xây dựng. Đặc trưng quan trọng và mang tính quyết định của một xã hội xã hội
chủ nghĩa là “nhân dân làm chủ”. Yêu cầu về một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” gắn bó chặt chẽ với đặc trưng trên và quyền lợi của nhân
dân lúc này được đảm bảo bởi một tổ chức chính trị dẫn đường và lãnh đạo, là Đảng cộng sản.
Thứ hai là đặc trưng về kinh tế. Kinh tế phát triển là tiền đề để xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế quyết định sự ổn định và
phát triển của xã hội, vì nó là lực lượng vật chất, là sức mạnh nội tại bên trong xã hội.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh quan niệm: Xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đây cũng chính là đặc trưng phân
biệt chủ nghĩa xã hội với sự tư hữu trong hình thái kinh tế phong kiến và tư bản. Đối
tưởng sở hữu là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở Toàn tập 8 lOMoAR cPSD| 45568214
hữu. Đây chính là đặc điểm thể hiện tính ưu thế khác biệt về phương diện kinh tế của
chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội khác.
Thứ ba là đặc trưng về văn hoá. Nếu nói nền kinh tế phát triển là nguồn lực vật
chất, thì văn hóa sẽ là nguồn lực tinh thần bên trong của một xã hội tiến bộ. Trong một
xã hội xã hội chủ nghĩa, con người là chủ thể sáng tạo văn hoá, là khách thể được phản
ánh qua các tác phẩm văn hoá và đồng thời là đối tượng hưởng thụ giá trị văn hoá. Do
đó, trên con đường xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội, một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, sẽ là động lực cũng như phương tiện thúc đẩy quá trình phát
triển bền vững của một đất nước. “Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và cùng chiều
với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là phấn
đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội văn hóa cao.”7
Thứ tư là đặc trưng về xã hội. Xã hội chủ nghĩa là một xã hội công bằng văn minh.
Về mặt lý thuyết, công bằng xã hội thể hiện quyền tiếp cận bình đẳng của tất cả mọi
người về cả phương diện vật chất và tinh thần. Về mặt kinh tế, công bằng xã hội
thường thể hiện quá trình phân phối của cải, sản phẩm lao động và cơ hội kinh tế của
mọi tầng lớp lao động trong xã hội. Do đó, để đảm bảo một xã hội công bằng văn
minh, Hồ Chí Minh khẳng định cần phải có nguyên tắc phân phối lợi ích, dựa trên
khẩu hiệu của C.Mác trong văn kiện Phê phán Cương lĩnh Gotha “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”8.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quá độ xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh nêu rõ: Thời kỳ quá độ là “thời kỳ dân chủ mới”, từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đó sẽ là thời kỳ cải biến sâu sắc nhưng phức tạp, lâu dài và gian khổ. Thời kỳ quá
độ ở Việt Nam mang đặc điểm gián tiếp, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội và không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm rút
ngắn thời gian và điều chỉnh phù hợp với đặc trưng thực tế của đất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời
kỳ lịch sử với “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
7 GS.TS Nguyễn, V. N. (2015). Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội
XI của Đảng
, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
8 C.Mác (1875). Phê phán Cương lĩnh Gotha 9 lOMoAR cPSD| 45568214
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".9
2.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam 9 Hồ Chí Minh (1996).
, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.10, tr. 13 Toàn tập 10 lOMoAR cPSD| 45568214
Hồ Chí Minh đã nêu rõ những nhiệm vụ cần phải hoàn thành trong suốt giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc xác lập quan hệ sản
xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu ngành, thành phần, vùng và lãnh thổ kinh tế trong
thời kỳ quá độ đều là những vấn đề cấp bách. Điều này bao gồm nâng cao năng suất
lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Việc điều hành nền kinh tế và
các mối quan hệ trong chuỗi phân phối được coi là nhiệm vụ mấu chốt.
Người khẳng định, mục đích của việc phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là đáp ứng nhu cầu về vật chất ngày càng tăng của nhân dân và đồng
thời tạo ra nhiều của cải để phục vụ cách mạng dân chủ nhân dân ở Việt Nam lúc bấy
giờ. Theo Hồ Chí Minh, cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển dựa vào nông
nghiệp và công nghiệp hiện đại, dựa vào khoa học – kĩ thuật tiên tiến nhằm xoá bỏ dần
sự bóc lột thông qua giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản. Do trong giai đoạn tiến lên
xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại thành phần kinh tế tư bản cũng như sự bóc lột của tư bản.
Vì vậỵ, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta xây dựng và phát triển
nền kinh tế theo hướng nhiều thành phần.
a) Cơ cấu thành phần kinh tế
Theo Hồ Chí Minh, từ tính quy luật của giai đoạn quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở
một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, đất nước ta trong thời
kỳ này sẽ tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. “Trong nước ta hiện nay có những
hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của
toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu
của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”10.
Trong Thưởng thức chính trị (1953), Hồ Chí Minh đã đề cập đến tính tất yếu của việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm 6 thành phần kinh và vai trò của từng
thành phần trong chế độ dân chủ mới và trong vùng tự do. Và qua Văn bản sửa đổi
Hiến pháp (1959)
, Người tiếp tục chỉ rõ: sau khi dành độc lập dân tộc, thiết lập nhà
nước mới, nền dân chủ mới, cần phải tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí
Minh đã khẳng định, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản chủ
nghĩa như Trung Quốc và Việt Nam phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Có năm loại
nền kinh tế khác nhau trong nền dân chủ mới. Trong chế độ dân chủ mới đó, tồn tại 5
thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm: 10 Hồ Chí Minh (2011).
, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - ST, tr.372 Toàn tập 11 lOMoAR cPSD| 45568214
- Kinh tế quốc doanh (kinh tế nhà nước)
- Các hợp tác xã (kinh tế tập thể)
- Kinh tế của cá nhân, của nông dân và của thủ công nghệ (kinh tế tư nhân) -
Kinh tế tư bản của tư nhân
- Kinh tế tư bản của nhà nước
Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh hay còn gọi là kinh tế quốc gia là thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, giữ vai trò chủ đạo, điều tiết các nền kinh tế còn lại và
là “xương sống” của nền kinh tế quốc dân. Do đó, kinh tế Việt Nam sẽ xây dựng và
phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, thay vì phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đại hội XII khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam … có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”11. b) Cơ cấu ngành kinh tế
Trong nền kinh tế quốc dân tồn tại ba ngành kinh tế chính: công nghiệp, nông
nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp, theo Hồ Chí Minh, là hai
phương diện quan trọng nhất, có tác động qua lại mật thiết với nhau.
Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp
và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”12. Hồ Chí
Minh đã dành cho ngành nông nghiệp nước ta sự quan tâm đáng kể kể từ khi nền kinh
tế nước ta bắt đầu phát triển. Người khẳng định nông nghiệp phải là nền tảng, là trụ cột
chính dựa theo điều kiện tự nhiên, lịch sử và xã hội. Nếu trong giai đoạn đầu của thời
kỳ quá độ, phát triển nông nghiệp được cho một trong những thế mạnh của đất nước
ta; thì ở giai đoạn sau, khi lực lượng sản xuất đạt đến sự tiến bộ nhất định, công nghiệp
và dịch vụ được chú trọng và quan tâm phát triển hơn, chiếm tỉ trọng lớn trong nền
kinh tế quốc dân, nhằm thay thế nông nghiệp.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.102 – 103 12 Hồ Chí Minh (2011).
, Nxb. CTQG, Hà Nội, t.13, tr. 375 Toàn tập 12 lOMoAR cPSD| 45568214
Xét theo nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ, Người cho rằng trong giai đoạn đầu
cần ưu tiên phát triển dịch vụ và thủ công nghiệp. Công nghiệp nhẹ trước, công nghiệp
nặng sau. Căn cứ theo thời kỳ quá độ với nền tảng đi lên chủ nghĩa xã hội là tư bản
chủ nghĩa, Liên Xô đã đi đầu và tập trung phát triển ngành công nghiệp nặng, mà trọng
tâm là ngành công nghiệp năng lượng, chế tạo máy móc, công cụ và công nghiệp quốc
phòng. Tuy nhiên, Trung Quốc sau chuyến thăm Liên Xô tại các thành phố công
nghiệp năm 1956, đã thực hiện các kế hoạch đại nhảy vọt trong giai đoạn 56 -58 nhằm
hướng đất nước theo sự phát triển của Liên Xô và đã thất bại. Do đó, ứng dụng vào đất
nước ta, là một quốc gia với nền kinh tế lạc hâu, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ chế
độ phong kiến, Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn con đường phát triển cơ cấu ngành
phù hợp với điều kiện kinh tế của nước nhà.
Bên cạnh đó, thương nghiệp, theo Hồ Chí Minh, là cầu nói giữa nông nghiệp và
công nghiệp, có chức năng điều tiết sự lưu thông cho nền kinh tế. Vì vậy, nhằm phát
triển sự trao đổi, lưu thông của nền kinh tế quốc dân, cần xây dựng và phát triển
thương nghiệp để tạo “đòn bẩy” kinh tế, gắn kết “công nghiệp và nông nghiệp, sản
xuất và tiêu dùng, giữa địa phương và Trung ương, trong nước và ngoài nước”13. c) Cơ cấu vùng kinh tế
Xét theo cơ cấu vùng, Hồ Chí Minh chỉ đạo cần phải xác định vùng kinh tế một
cách phù hợp với đặc điểm của từng địa phương: giữa nông thôn và thành thị, hải đảo
và miền núi, nhằm rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo, dân trí và cơ sở hạ tầng giữa các vùng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định nền kinh tế tự
chủ cần phải được xây dựng song song với việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Người cho
rằng, đất nước ta cần phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ thuộc
vào một quốc gia, dân tộc khác, dựa trên một đường lối phát triển tự lập, tự cường.
Tuy nhiên độc lập tự chủ không mang nghĩa đóng cửa khép kín, mà phải gắn với mở
rộng hợp tác quốc tế về kinh tế nhằm tiếp thu thành tựu khoa học – kĩ thuật và kinh
nghiệm quản lý trong nền sản xuất hàng hoá. Hồ Chí Minh nêu rõ, trong quá trình phát
triển hợp tác quốc tế, dân tộc ta cần giữ vững nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào nội bộ, bình đẳng hai bên cùng có lợi.
13 GS. TS Nguyễn T. K. Dung (2015). Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển thương nghiệp. Tạp chí điện tử
lý luận chính trị 13 lOMoAR cPSD| 45568214
Ngoài ra, Hồ Chí Minh chỉ rõ việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xác định
những nguyên tắc trong quá trình quản lý một cách phù hợp, đảm bảo sự công bằng
cho từng vùng kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng, cần phải được tập trung thực hiện.
Người cũng khẳng định, trong hoạt động quản lý, cần phải nghiêm minh xử trí những
hành vi tiêu cực, tham ô, gian lận, bè phái nhằm đảo bảo sự phát triển của một nền
kinh tế trong sạch, tiến bộ. Toàn tập 14 lOMoAR cPSD| 45568214
Có thể thấy, xét về phương diện cơ sở lý luận về tính quy luật chung và đặc trưng
riêng trong nền kinh tế nước nhà đã được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo đặc điểm
kinh tế cơ bản của quan điểm của Mác – Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội vào tình hình thực tế của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. 15 lOMoAR cPSD| 45568214
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam từ năm 1954, miền Bắc bắt đầu bước vào quá trình quá độ xã hội chủ
nghĩa. Và đến năm 1975, khi đất nước đã giành được độc lập và hoàn toàn thống nhất,
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội được tiến hành trên phạm vi cả nước.
Vận dụng sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xây dựng và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội một
cách phù hợp dựa trên cơ sở và điều kiện thực tế của nước nhà. Lênin từng chỉ ra rằng:
“ Tất cả các dân tộc đều sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Và quan niệm đó đã được Đảng
ta xác định đi theo qua Cương lĩnh đầu tiên: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, có thể nói thời kỳ quá độ là một giai
đoạn tất yếu mà dân tộc ta sẽ trải qua, và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa đó sẽ
mang những đặc điểm, đặc trưng phù hợp với cơ sở lịch sử và điều kiện thực thế của Việt Nam.
Đặc điểm chủ yếu của hình thức quá độ gián tiếp ở Việt Nam là bỏ qua giai đoạn
phát triển hình thái kinh tế - xã hội tư bản và đi thẳng từ một nước nông nghiệp lạc hậu
lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực hiện “bước nhảy vọt”, Việt Nam không triệt
tiêu hay đối lập với tư bản chủ nghĩa. Thay vào đó, kiến trúc thượng tầng và kiểu nhà
nước bóc lột tư sản được bỏ qua, nhưng những tiên tiến, hiện đại về khoa học – kĩ
thuật, cơ sở vật chất vẫn được tiếp tục kế thừa và tiếp thu. Đặc điểm trên được áp
dụng dựa trên cơ sở lịch sử và điều kiện thực tế của Việt Nam nhằm xóa bỏ tàn dư còn
tồn đọng của chế độ xã hội cũ, đồng thời từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển.
2. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
2.1 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành 16 lOMoAR cPSD| 45568214
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”14. Đặc biệt, Đảng và Chính
phủ luôn cùng nhau giải phóng mọi sức sản xuất, đánh dấu những giai đoạn có ý nghĩa
chiến lược lâu dài theo quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế
trong công cuộc đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm. Cụ thể trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã xác định tư tưởng chỉ
đạo cơ bản: giải phóng sức sản xuất tạo đột phá đổi mới kinh tế, khai thác tối đa tiềm
năng đất nước, đồng thời hình thành và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
song song với phát triển nền kinh tế lực lượng sản xuất.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991) và xuyên suốt 7 kỳ Đại hội Đảng từ giai đoạn đổi mới ( Đại hội VI - Đại hội
XII), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương thực hiện nhất quán quan điểm “xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá đa thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”.
5 thành phần kinh tế bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được Đảng ta xác định cụ
thể trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), bám sát quan điểm Hồ Chí
Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Và
trong Đại hội đại biểu lần thứ XIII (2021) gần đây, vai trò của từng thành phần trong
nền kinh tế quốc dân tiếp tục được cụ thể và làm rõ, đồng thời nhấn mạnh việc phát
triển và cải tiến nhằm đáp ứng phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Việt
Nam trong giai đoạn tiếp theo
2.2 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, do cách áp dụng máy móc quá trình phát
triển kinh tế của Liên Xô, Việt Nam đã tập trung phát triển nền công nghiệp nặng, dẫn
tới những khó khăn và thách thức lớn trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nước nhà.
Phải đến Đại hội Đảng lần thứ V và VI, áp dụng quan điểm trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh đồng thời rút kinh nghiệm từ sai lầm trước đó, Đảng ta mới xác định và chủ
trưởng thực hiện phương hướng chuyển dịnh cơ cấu ngành kinh tế một cách đúng đắn
và phù hợp: tập trung vào phát triển nông nghiệp trong giai đoạn đầu và công nghiệp nhẹ trong giai đoạn sau.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.83 17 lOMoAR cPSD| 45568214
Tính đến thời điểm hiện tại, khi đã có sự chuyển biến trong tình hình trong và
ngoài nước, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản mục tiêu chặng đầu là thúc đẩy phát triển
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đường lối phát triển đúng đắn nền kinh tế đất
nước dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu ngành đã được thể hiện rõ trong Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội IX: chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần
phải dựa trên nền tảng phát huy lợi thế quốc gia, gắn với nhu cầu thị trường, đáp ứng
nhu cầu của người dân và đảm bảo quốc phòng an ninh.
Bên cạnh đó, Đảng cũng chủ trương thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành phù hợp
với từng vùng kinh tế: phát triển cơ sở vật chất nông thôn nhằm thúc đẩy nền nông
nghiệp hiện đại ứng dụng khoa học kĩ thuật để cải thiện năng suất, chuyển dịch lực
lượng sản xuất sang khu vực dịch vụ và công nghiệp trọng điểm, đồng thời nâng cao
chất lượng lao động nhằm đảm bảo nền kinh tế văn minh, phát triển, tiến bộ.
2.3 Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.
Việt Nam sở hữu 7 vùng kinh tế trọng điểm, bao gồm: Đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông Cửu Long, trung du và miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, ven biển Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Dựa theo từng đặc trưng về địa lý, khí hậu,
dân cư, văn hoá, xã hội của mỗi vùng, Đảng và nhà nước triển khai những chính sách
phát triển riêng nhằm thúc đẩy nền kinh tế của vùng đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế hiện nay, những chuyển biến hệ thống kinh tế - chính trị toàn cầu hình thành nên trật
tự thế giới đa cực đòi hỏi Việt Nam cần thay đổi quan điểm từ “mở rộng quan hệ, liên
kết và hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, xây dựng tham gia định hình cơ chế
hợp tác” là cần thiết.
Bên cạnh đó, xu thế phổ biến hiện nay trong bối cạnh toàn cầu hoá cho thấy việc
triển khai phương hướng phát triển nền kinh tế đa ngành, liên ngành và đa phương tiện
đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Do đó, để cạnh tranh với các quốc gia khác trên
thị trường quốc tế, Việt Nam cần thúc đẩy khai thác các vùng kinh tế một cách linh
hoạt và tối ưu. Để hoàn thành được nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước xác định: cần
hoàn thiện và phát triển vùng quy hoạch, để làm nền tảng thúc đẩy các vùng kinh tế
trọng điểm nhằm nâng cao năng suất, gia tăng kết cấu kiến trúc xã hội và cơ sở hạ
tầng, đảm bảo tài nguyên khoáng sản, thiên nhiên được sử dụng hợp lý bên cạnh việc bảo vệ môi trường. 18 lOMoAR cPSD| 45568214 3. Hạn chế
Cùng với những thành tựu đạt được trong công cuộc phát triển nền kinh tế hiện
nay, thực tế tăng trưởng kinh tế và việc áp dụng lý luận kinh tế Hồ Chí Minh vẫn còn
tồn tại một số mặt hạn chế nhất định.
Chất lượng kinh tế tăng trưởng của nước ta chưa cao; phần lớn dựa vào yếu tố tăng
trưởng theo chiều rộng, chủ yếu là các ngành, sản phẩm truyền thống, công nghệ cũ,
tiêu hao nguyên liệu lớn, ít quan tâm đến chất lượng, còn dựa nhiều vào vốn đầu tư và
bảo hộ. Việc thiếu sự phát triển của các doanh nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác dẫn
đến giá trị quốc gia của sản phẩm không cao. So với các nước trong khu vực, đa số các
ngành công nghiệp đều có nhu cầu cao hơn về năng lượng và nguyên liệu. Do đó, so
với tốc độ phát triển và hội nhập quốc tế, tuy đã có tiến bộ nhưng năng lực cạnh tranh
cảu nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp.
Bên cạnh đó, tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa thực sự chủ trọng và phát
triển đúng với nhiệm vụ và mục tiêu ban đầu. Kinh tế nhà nước vẫn chưa hoàn thành
vai trò chủ đạo, điều hành các thành phần khác trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân chưa đáp ứng được kì vọng tạo đòn bẩy cho nền kinh tế và chưa được nhà nước
tạo điều kiện phù hợp để phát triển. Kinh tế tập thể còn nhỏ bé với tốc độ phát triển
kém. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều thách thức về môi trường đầu tư
và khó khăn trong cơ chế, chính sách nhà nước.
Xét theo góc tổng quát, những trở ngại nêu trên một phần xuất phát từ bối cảnh thị
trường kinh tế phức tạp, cùng với đó là sự chống phá tiêu cực của các lực lượng thù
địch. Tuy nhiên, không thể phủ nhận mặt hạn chế trong quá trình tiếp thu và phát triển
quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: công tác nghiên cứu thực tiễn, lý luận
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhận thức còn chưa sâu sắc dẫn tới sự thiếu
thống nhất trong chủ trương, chính sách, việc tổ chức học tập theo tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa thực sự hiệu quả, phổ biến.
4. Giải pháp đề xuất
Thứ nhất, Đảng và nhà nước cần kiên định và đi theo quan điểm chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp vận dụng sáng tạo và đúng đắn nhằm xây dựng
một xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc trưng đất nước và tình hình thế
giới. Phát triển đồng thời nền kinh tế hàng hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa song song
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 19