













Preview text:
Đề bài: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm
nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay?
I. Một số khái niệm cơ bản 2 1. Cơ cấu kinh tế 2
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế 2
1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế 2
1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế 2
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế 3
1.1.3. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ 3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa xã hội ở Việt Nam 4
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam 6
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 6
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 7
III. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay 10 LỜI MỞ ĐẦU
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế
đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Người đã đưa
ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ
đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới và phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Nhận thấy được tầm quan trọng của quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cùng với yêu cầu cần
thiết của bộ môn, em đã nghiên cứu và hoàn thành bài tập lớn với chủ đề “Tìm hiểu và
phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay”.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, em đã tham khảo có chọn lọc một vài
cuốn sách cũng như tài liệu trên mạng mà em sẽ nêu rõ hơn trong phần cuối cùng của
bài tập lớn này. Sau một thời gian thực hiện, em đã hoàn thành bài làm của mình
nhưng chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy cô có thể
đưa ra những góp ý quý giá để em có thể hoàn thiện bản thân mình hơn. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. Khái quát chung 1. Cơ cấu kinh tế
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của xã hội theo C.Mác là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù
hợp với quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Mác đồng
thời nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và
số lượng, cơ cấu chính là sự phân chia về chất và tỉ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội.
“Cơ cấu kinh tế” là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Theo
tác giả, cơ cấu kinh tế được hiểu như sau: cơ cấu kinh tế là tổng thể những nhân tố cấu
thành nền kinh tế, đó là các ngành sản xuất, các thành phần kinh tế và các vùng kinh
tế. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau được biểu hiện về chất và lượng tùy thuộc
vào mục tiêu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế bao gồm những bộ phận cấu thành như: cơ cấu ngành, cơ cấu
kinh tế theo lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần kinh tế.
1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành là quan hệ gắn bó với nhau theo nhưng tỉ lệ nhất định giữa các
ngành sản xuất, trong nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng như giữa các ngành nghề và
các doanh nghiệp trong các ngành.
Cơ cấu ngành là bộ phận then chốt trong cơ cấu kinh tế, vì cơ cấu ngành quyết
định trạng thái chung và tỉ lệ đầu vào, đầu ra của nền kinh tế quốc dân.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, nền kinh tế thị trường được phân làm 3 nhóm ngành (Khu vực) là:
- Khu vực I gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (đối với nhiều nước khác các
ngành khai thác trực tiếp tài nguyên thiên nhiên).
- Khu vực II gồm công nghiệp và xây dựng (đối với nhiều nước khác là các chế biến).
- Khu vực III là ngành dịch vụ
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu nhất định về tư liệu
sản xuất. Tùy theo phương thức sản xuất mà có các thành phần kinh tế chiếm địa vị
chi phối hay chủ đạo và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là động lực thúc đẩy sự phát triển và
tăng trưởng của nền kinh tế. Thành phần kinh tế này bao trùm các ngành kinh tế then
chốt gắn liền với việc quản lý tài nguyên đất nước, với an ninh quốc phòng và với các
lĩnh vực quan trọng khác. Kinh tế tập thể có ý nghĩa quan trọng với nhiều hình thức tổ
chức trên cơ sở tham gia tự nguyện, bình đẳng dân chủ, cùng có lợi giữa các thành viên tham gia.
Kinh tế cá thể với tiềm năng to lớn đóng vai trò quan trọng lâu dài đối với việc
phát kinh tế xã hội của đất nước.
Kinh tế tư bản, tư nhân, đang có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế với
tiềm lực về tiền vốn, công nghệ, quản lý, thị trường và giải quyết tốt vấn đề gay gắt
hiện nay là vấn đề lao động việc làm.
Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn với hình thức liên doanh giữa nhà
nước với tư bản trong nước và nước ngoài.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh trong những năm gần đây
hướng vào sản xuất hàng hóa và dich vụ công nghệ cao.
1.1.3. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ (vùng kinh tế) phản ánh sự phân công lao động xã
hội về mặt không gian địa lý. Thực chất của việc phân chia này là để làm cơ sở cho
việc hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch phát triển, thực thi chính sách để phù
hợp với đặc điểm của từng vùng nhằm khai thác đạt hiệu quả cao trên từng vùng và trên toàn vẹn lãnh thổ.
Cơ cấu lãnh thổ là mối quan tỉ lệ giữa các vùng trong phạm vi quốc gia được
sắp xếp một cách tự phát hay tự giác. Trong một quốc gia có nhiều vùng lãnh thổ, các
vùng này phải được bố trí, quan hệ với nhau theo một tỉ lệ nào đó để tạo điều kiện
phát triển kinh tế cho từng vùng nói riêng và của cả nước nói chung. cơ cấu kinh tế
theo lãnh thổ là một chỉnh thể liên kết các ngành sản xuuất trong một vùng theo cấu
trúc hợp lý, nhờ đó mà có thể tạo ra khả năng tăng trưởng kinh tế trong quá trình vận động cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế theo ngành, theo thành phần và theo lãnh thổ là sự biểu hiện về
bản chất của các khía cạnh khác nhau của một nền kinh tế. Giữa chúng có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau, trong đó cơ cấu theo ngành giữ vai trò quan trọng trong
thực hiện cơ cấu ngành, còn cơ cấu theo lãnh thổ là cơ sở cho các ngành, các thành
phần kinh tế phân phối hợp lý các nguồn lực. Qua đó sẽ tạo sự phát triển đồng bộ, cân
đối và đạt hiệu quả cao giữa các ngành, các thành phần kinh tế trong một nền kinh tế.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa xã hội ở Việt Nam
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng
và thời kỳ quá độ lên CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên CNXH. Ở
Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng
thời từng bước gây dựng các mầm mống cho CNXH phát triển, đó là một tất yếu.
Theo đó, quá độ lên CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian
khổ và lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều”. Bởi vì, “chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải
thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn
năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”(3). Tuy
nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có
được chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây
dựng, thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh
đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên
CNXH rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu
chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cùng với
thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành,
vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán,
đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trên lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp xây dựng CNXH.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại
chúng và mấu chốt của văn hóa là xây dựng con người có đạo đức cách mạng, con
người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn tâm toàn ý
phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng xây dựng nền văn hóa mới,
lối sống mới. Về xã hội, thực hiện sự phân phối theo lao động, thi hành chính sách xã
hội vì toàn dân, bình đẳng.
Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào phát triển
con người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là động của sự phát triển xã hội.
Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã xác
định bước đi, cách làm phù hợp, Người khẳng định: Chúng ta cũng phải có phương
pháp xây dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam.
Bước đi trong xây dựng XHCN ở nước ta là “phải làm dần dần”, ai nói dễ là chủ quan
và sẽ thất bại, phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước ấy”.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng
CNXH, đó là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng,
lấy xây dựng làm chính; kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng
thời tiến hành hai chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện
pháp và quyết tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất
trong xây dựng CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài dân,
sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân..
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và
nông nghiệp hợp lý. Người khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là
công nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh
được”. “Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân;
cung cấp đủ nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng
tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hóa học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày,
máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải
giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước
sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.”
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường
no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài viết Con đường phía trước (ngày
20-01-1960), Người chỉ rõ nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959,
trong sản xuất của miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn
nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy thì
làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời: “Đời sống
nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật
rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm
tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm
những việc phi thường.”
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các
hình thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, của sản xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ, xét về toàn bộ, nó là nền kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở
hữu, do đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan.
Mỗi thành phần kinh tế còn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân
sinh thì không thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói rõ, ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ
bản chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. - Kinh tế quốc doanh
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. - Kinh tế tư bản quốc.
Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế
xã hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành
phần kinh tế mang tính đặc thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển
kinh tế thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù
yêu cầu phải tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách
mạng dân chủ. Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong nền
kinh tế của từng nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về
đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong
vùng tự do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại khách quan của nền kinh tế
nhiều thành phần với các thành phần kinh tế phổ biến, kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại
thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như vậy, đây chính là điểm sáng tạo của Hồ
Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế
và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan
trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao
động thấp, đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng
lực và kinh nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh.
Tình hình thế giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất
đồng, mâu thuẫn. Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa
sáng rõ. Từ thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra
các hình thức sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước
tức là của toàn dân; sở hữu hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu
của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.”
Với sự đa dạng của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những
thành phần kinh tế đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới,
có năm loại kinh tế khác nhau:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
- Các hợp tác xã (nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nữa CNXH). - Tư bản của tư nhân.
- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, Kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản”.
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt
Nam sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở
những điểm thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
- Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh
tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến:
Kinh tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư
nhân. Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. - Điểm thay đổi:
Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất.
Điều này một lần nữa khẳng định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Muốn đi tới chủ
nghĩa cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh
tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải
ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH
và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh
tế quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở
thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo”
trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế.
"Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới.
Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó".
Đối với thành phần kinh tế quá độ kinh tế hợp tác xã; tư bản của Nhà nước trở nên
phố biến, vững chắc và phạm vi mở rộng hơn. Kinh tế hợp tác xã, Người khẳng định,
kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước cần
đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Hợp tác hóa nông
nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kinh
nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình
thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đó là việc rất cần thiết. Chúng ta
phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hóa nông nghiệp
nhất định thành công. Tư bản của Nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với
những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác”. Kinh tế tư bản Nhà nước, được Nhà nước
khuyến khích, giúp đỡ các nhà tư bản đi theo chủ nghĩa xã hội và hướng dẫn hoạt
động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Đây là thành phần kinh tế quá độ trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm hướng thành phần kinh tế này
quay trở lại phục vụ chủ nghĩa xã hội. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công
nghệ. Hồ Chí Minh cho rằng, “Đối với người làm thủ công và lao động riêng lẻ khác,
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp
đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên
tắc tự nguyện”. “Đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế
cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác và đối với
thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời nó mở mang và tăng cường lực lượng
của thành phần kinh tế quốc doanh, thúc đẩy việc phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã hội”.
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của
Người khi kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm
bảo tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có
các thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức
đó có ý nghĩa vô cùng to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra
các quyết sách đúng đắn trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền
Bắc trước đây và trên phạm vi cả nước.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm
sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định, đặc
điểm kinh tế cơ bản có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở
hữu khác nhau. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
III. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay
Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo của
Người khi kế thừa quan điểm của V.I.Lênin vào thực tiễn đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội và đảm
bảo tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có
các thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế quá độ đan xen. Những nhận thức
đó có ý nghĩa vô cùng to lớn về lý luận, đây là cơ sở khoa học để Hồ Chí Minh đưa ra
các quyết sách đúng đắn trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền
Bắc trước đây và trên phạm vi cả nước.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu,
làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định,
đặc điểm kinh tế cơ bản có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức
sở hữu khác nhau. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) xác định: “Xuất phát từ sự đánh giá
những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao
động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc
phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của
Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế khác”. Đồng thời chỉ ra: Ở nước ta các thành phần kinh tế đó
là: “Kinh tế xã hội chủ nghĩa; Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch
vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà
hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác”.
Đại hội VII của Đảng nêu rõ: Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh
doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản, sẽ hình thành nhiều thành
phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng: Kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt; kinh tế tập thể,
với hình thức phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành,
nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp
sức của những người lao động. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các
ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không
cấm. Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể
hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.
Đến Đại hội VIII Đảng ta tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện chủ trương, chính
sách đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là
các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Đại hội IX của Đảng ta ghi rõ: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội
cũng chỉ rõ các thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội X của Đảng khẳng định, ở Việt Nam
có ba chế độ sở hữu là toàn dân, tập thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều
thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.”
Trong quá trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hoàn
thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
theo quy hoạch”. Đại hội cũng chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế
tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.
Để phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.
Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá
cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế không thuận
lợi); Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ
USD (đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 -
2020 đạt khoảng 6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt
3.521 USD năm 2020. ( xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD;
Xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả
nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối
lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm
bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng
để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân
thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng;
kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa". KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện vẫn có ý nghĩa thời sự
và ý nghĩa phương pháp luận, cần được quán triệt và vận dụng sáng tạo để định hướng
cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới nền kinh tế đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2011, t.12, tr.372.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2011, t.8, tr.293-294.
4. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t. 12, tr. 435
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2000, t.9, tr.589.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2000, t.9, tr.589.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2000, t.9, tr.589-590.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.56.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.56-57
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr.101- 102.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.102-103.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị Quốc gia, H.2021, t.1, tr.128-129