lOMoARcPSD| 58504431
BÀI 1
BẢN CHẤT XÃ HỘI VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
I. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ
1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội
1.1. Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên
- Những hiện tượng tự nhiên những hiện tượng tồn tại nảy sinh tiêu
hủy một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Đó
những hiện tượng như mây, mưa, mặt trăng, thủy triều, động đất…
- Các hiện tượng hội những hiện tượng tồn tại, nảy sinh, phát triển
haytiêu hủy lại phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. dụ: cưới xin, ma chay,
dạy và học…
- Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã
hội.Nó chỉ sinh ra trong hội loài người, phục vụ cho nhu cầu của con người. Bên
ngoài hội loài người ngôn ngữ không tồn tại. Điều này đã được chứng minh bằng
nhiều cứ liệu thực tế. Chẳng hạn, thí nghiệm của hoàng đế Zelan Utđin Acba thời cổ đại,
câu chuyện về hai bé gái Ấn Độ sống với bầy sói ở trong rừng…
1.2. Ngôn ngữ không mang tính bẩm sinh
- Con người và loài vật đều những hoạt động bản năng do bẩm sinh
cónhư biết thở, biết ăn, biết đi…Những khả năng đó khi tách khỏi hội thì vẫn
con người.
- Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng bẩm sinh. Nó là kết quả của một
quátrình học hỏi, bắt chước, tiếp xúc với xã hội, với những con người xung quanh. Điều
này cũng được chứng minh qua những dẫn chứng thực tế.
1.3. Ngôn ngữ không mang tính di truyền
- Ở con người cũng có những yếu tố và hiện tượng di truyền như đặc điểm,
vócdáng thể, màu tóc, màu mắt, màu da…Những đặc điểm này do nòi giống, tổ
tiên, cha mẹ di truyền lại cho các thế hệ cháu con.
- Ngôn ngữ thì không mang tính di truyền. Nếu một đứa trẻ Việt Nam được
sinh ra và lớn lên ở Pháp, sinh sống cùng người Pháp sẽ i tiếng Pháp không biết
một chút gì về tiếng Việt và ngược lại.
lOMoARcPSD| 58504431
1.4. Ngôn ngữ không đồng nhất với tiếng kêu của động vật
- Các nhà sinh học đã xác định rằng động vật cũng sử dụng tín hiệu (tiếng
kêu) để giao tiếp với nhau: báo tin cho nhau về sự nguy hiểm, báo nơi có thức ăn, bộc
lộ cảm xúc, kêu gọi bạn tình… Thậm chí một số loài vật còn có thể hiểu được tiếng nói
của con người, hay nói được tiếng người. Song, đây chỉ những phản xạ điều kiện
hoặc không điều kiện thôi. I.P.Páp - lốp gọi những phản xạ như vậy thuộc hệ
thống tín hiệu thứ nhất - tức những phản xxuất hiện do bị kích thích trực tiếp. Hệ thống
tín hiệu này có cả ở người, ví dụ như khi bị đau ta kêu ái, ối
- Còn ngôn ngữ của con người thuộc về hệ thống tín hiệu thứ hai - tín hiệu
gắn với tư duy khái quát, trừu tượng.
1.5. Ngôn ngữ không mang tính cá nhân
- Trong thực tế giao tiếp hàng ngày, mỗi cá nhân có thể tạo ra những lời nói
củariêng mình, mang đậm dấu ấn cá nhân. Song, những lời nói đó phải dựa trên những
quy tắc chung của ngôn ngữ. Nếu không như vậy, con người không thể giao tiếp được
với nhau, người này sẽ không hiểu được người kia, nói chung không ai hiểu ai cả.
Cho nên, ngôn ngữ phải chứa đựng những yếu tố chung, những quy tắc chung, có tính
phổ biến và bắt buộc đối với mọi cá nhân trong cộng đồng hội. Điều này khiến cho
ngôn ngữ mang rõ bản sắc và phong cách của từng cộng đồng, từng dân tộc.
- Điều vừa nói hoàn toàn không mâu thuẫn với những kết luận về phong
cách nhân của các nhà văn, thơ, các nhà nghệ thuật ngôn từ. Bởi lẽ khi chúng ta
nghiên cứu phong cách của các nhà thơ, nhà văn lớn ta nghiên cứu những đặc điểm
riêng, những phát hiện độc đáo của họ trong việc sử dụng ngôn ngữ chung. Nhờ các nhà
văn, nhà thơ lớn đó mà nhiều khả năng tiềm ẩn của ngôn ngữ được hiện thực hoá, được
nhiều người biết đến sử dụng theo, góp phần làm cho ngôn ngữ phát triển ngày
càng hoàn thiện hơn.
1.6. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội
Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở các phương diện sau:
- Ngôn ngữ nảy sinh, tồn tại phát triển trong hội loài người phụ
thuộcvào xã hội loài người.
- Ngôn ngữ mang bản sắc của từng cộng đồng xã hội
- Ngôn ngữ phục vụ cho toàn thể xã hội, là công cụ chung của toàn xã hội.
Không có ngôn ngữ của riêng cá nhân.
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt Tính
chất đặc biệt này thể hiện ở chỗ:
lOMoARcPSD| 58504431
- Ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng, vì rõ ràng nó không phải là quan hệ
sản xuất.
- Ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng của riêng một hội nào.
Khi một cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đcủa kiến trúc thượng tầng
tương ứng thì ngôn ngữ của xã hội vẫn tồn tại, vẫn một phương tiện chung của toàn
xã hội. Ngôn ngữ không được sinh ra từ một cơ sở hạ tầng nào cả và cũng không bị sụp
đổ do cơ sở hạ tầng. Nó có quy luật phát triển riêng của nó.
- Thêm vào đó, kiến trúc thượng tầng tính giai cấp rệt, luôn phục
vụ cho một giai cấp nhất định. Còn ngôn ngữ hoàn toàn không tính giai cấp, không
phục vụ riêng cho một giai cấp nào phục vchung cho toàn hội. Tuy rằng, mỗi
giai cấp đều luôn có ý thức dùng ngôn ngữ để phục vụ cho lợi ích của riêng họ.
II. CÁC CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người
1.1. Các phương tiện giao tiếp của con người
Giao tiếp một nhu cầu không thể thiếu của mỗi nhân của toàn hội.
Trên thực tế, con người có thể giao tiếp với nhau bằng các phương tiện khác nhau.
- Cử chỉ là một trong những phương tiện giao tiếp khá thông dụng của con
người. Chúng ta thể vẫy tay để gọi người khác đến, thể gật đầu hoặc lắc đầu để
bày tỏ sự đồng ý hoặc không đồng ý… Đó là chúng ta đã dùng cử chỉ để giao tiếp.
- Trong hoạt động giao thông, để mọi người biết phải dừng lại hay được đi
các ngã tư, người ta sử dụng hệ thống đèn xanh, đỏ; để những người tham gia giao
thông nhận biết được đặc điểm các con đường, người ta hẳn một hthống biển báo,
chỉ dẫn. dụ, ta hiệu Z để chỉ con đường ngoằn ngoèo v.v… đó chúng ta sử
dụng hệ thống tín hiệu giao thông để giao tiếp.
- Trong khoa học, người ta các hệ thống hiệu khoa học để giao tiếp
với nhau. Ví dụ như để chỉ nước, ta có kí hiệu H
2
O v.v…
- Ngoài ra các phương tiện nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc cũng
được sử dụng để thực hiện các cuộc giao tiếp.
Và cuối cùng, phương tiện thường xuyên nhất được sử dụng trong giao tiếp ngôn
ngữ.
1.2. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
Trong số c phương tiện giao tiếp đã nêu trên, ngôn ngữ phương tiện được
coi là quan trọng nhất và phổ biến nhất. Nó vượt trội các phương tiện khác về sự tiện lợi
và tính hiệu quả đối với hoạt động giao tiếp.
lOMoARcPSD| 58504431
- So với ngôn ngữ, cử chỉ là phương tiện hết sức nghèo nàn. Nó chỉ gồm
một số những động tác để thể hiện những nội dung giao tiếp đơn giản. ràng, không
thể dùng cử chỉ để diễn đạt những khái niệm trừu tượng, những nội dung phức tạp. Mặt
khác, giao tiếp bằng cử chỉ đòi hỏi phải điều kiện về không gian nkhông quá xa,
về ánh sáng để những người giao tiếp nhìn thấy nhau được.
- Hệ thống tín hiệu giao thông hiệu khoa học phạm vi giao tiếp
rất hạn chế, chỉ dành cho những người cùng ngành khoa học những hiểu biết
tương đương nhau. Ví dụ, nếu yêu cầu một em bé “Lấy hộ một cốc H
2
O” thì chắc chắn
không ổn. Do đó, hệ thống tín hiệu giao thông hiệu khoa học không thể dùng
làm phương tiện giao tiếp chung toàn xã hội được.
- Các phương tiên nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc v.v…, so
với ngôn ngữ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước hết là, trước một sản phẩm
của nghệ thuật, những người khác nhau thểnhững cảm nhận rất khác nhau. Điều
đó chứng tỏ tính thống nhất xã hội sự truyền đạt nội dung giao tiếp bằng các phương
tiện nghệ thuật là không cao. Thêm vào đó, nội dung giao tiếp của các phương tiện nghệ
thuật rất trừu tượng, không cụ thể. không thể truyền đạt được những nội dung đòi
hỏi yêu cầu chính xác, rã ràng.
- Tất cả các phương tiện giao tiếp như cử chỉ, tín hiện giao thông, kí hiệu
khoa học, hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc,… đều có một hạn chế chung là không thể dùng
chính chúng để giải thích cho chúng được, phải mượn đến ngôn ngữ để giải thích.
Trong khi đó, đối với ngôn ngữ có thể dùng chính các kí hiệu ngôn ngữ để giải thích cho
hiệu ngôn ngữ. Chẳng hạn, ai đó không hiểu BÀN gì, ta có thể giải thích BÀN
đồ dùng mặt phẳng được cao hơn mặt nền bằng chân, thường làm bằng gỗ hoặc
bằng sắt để đặt đồ ăn hoặc để làm việc.
- Qua đó, có thể khẳng định, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người. Ngôn ngữ mang tính phổ quát, được sử dụng trong tất cả các tình
huống giao tiếp, và có thể thay thế được bất kì hệ thống tín hiệu nào khác, mặc dù trong
những trường hợp riêng biệt, thì hệ thống tín hiệu được tạo riêng cho tình huống đó
tính hiệu quả cao hơn (ví dụ: hệ thống hiệu khoa học trong lĩnh vực giao tiếp khoa
học). thể nói, không một hệ thống tín hiệu nào khả năng hạn như ngôn ngữ
trong việc thể hiện bất sắc thái nào của suy nghĩ và tình cảm của con người hiện đại,
dù cho các sắc thái đó tế nhị và phức tạp đến mấy.
1.3. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ sự tiếp xúc giữa con người (nhóm người)
với con người (nhóm người), trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm, yêu
lOMoARcPSD| 58504431
cầu hành động, đồng thời thể hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của nhân vật giao
tiếp đối với nội dung giao tiếp và giữa các nhân vật giao tiếp với nhau.
Hoạt động giao tiếp có các nhân tố sau:
a. Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào quá trình giao tiếp. Nhân tố này
trả lời cho câu hỏi: ai nói (ai viết), ai nghe (ai đọc)? Các nhân vật giao tiếp đều có ảnh hưởng
nhất định đến nội dung giao tiếp.
b. Nội dung giao tiếp là hiện thực, thực tế khách quan được các nhân vật giao
tiếp đưa vào cuộc giao tiếp. Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: nói (viết) về cái gì?
c. Hoàn cảnh giao tiếp được hiểu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hoàn cảnh giao
tiếp rộng bao gồm toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên (địa lý, lãnh thổ…), hoàn cảnh hội
(chính trị, kinh tế, văn hoá…), hoàn cảnh lịch sử Hoàn cảnh giao tiếp hẹp chnơi
chốn cụ thể (địa điểm, thời gian, tình huống…) diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao
tiếp trả lời cho câu hỏi: nói (viết) trong hoàn cảnh nào?
d. Phương tiện và cách thức giao tiếp. Các nhân tố giao tiếp trên đây chi phối việc
lựa chọn tổ chức phương tiện giao tiếp: lựa chọn đường kênh giao tiếp, lựa chọn
phương tiện ngôn ngữ, lựa chọn và tổ chức văn bản giao tiếp, lựa chọn chiến lược giao tiếp.
Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: Nói (viết) như thế nào?
đ. Đích giao tiếp ý đồ, ý định các nhân vật giao tiếp đặt ra trong một cuộc
giao tiếp nhất định. Đích giao tiếp yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động giao tiếp,
chi phối gần ntoàn bộ việc lựa chọn c yếu tố còn lại, toàn bộ cách thức tiến hành
giao tiếp. Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: Nói (viết) để làm gì?
- Các yếu tố của hoạt động giao tiếp có ảnh hưởng qua lại, tác động
lẫn nhau và đều ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp.
- Trong các yếu tố giao tiếp, đích giao tiếp là yếu tố quan trọng nhất,
yếu tố trung tâm, bởi giao tiếp đạt được yếu tố đó thì mới gọi là giao tiếp đạt hiệu
quả.
Ví dụ : Phân tích các nhân tố giao tiếp trong bài ca dao Tát nước đầu đình
- Nhân vật giao tiếp : chàng trai và cô gái
- Nội dung giao tiếp : chàng trai nhgái khâu áo hứa hẹn trả
công khâu áo bằng những thứ lễ vật hậu hĩnh - Hoàn cảnh giao tiếp :
+ Hoàn cảnh rộng : xã hội phong kiến Việt Nam
+ Hoàn cảnh hẹp : đầu đình, cạnh hồ sen, sau buổi lao động mệt nhọc
- Phương tiện và cách thức giao tiếp : giao tiếp trực tiếp, bằng lời
lOMoARcPSD| 58504431
- Đích giao tiếp : chàng trai ướm hỏi cô gái làm vợ
- Phương tiện giao tiếp : bằng lời, trực tiếp
Chính mục đích giao nói trên đã chi phối các nhân tố giao tiếp, từ việc lựa chọn
nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp đến cách thức và phương tiện giao tiếp.
2. Ngôn ngữ là công cụ tư duy và là phương tiện biểu đạt tư duy
2.1. Ngôn ngữ là công cụ tư duy
Ngôn ngữ tham gia trực tiếp vào quá trình nh thành nhận thức duy của
con người.
Quá trình nhận thức của con người gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính
nhận thức tính. Từ những nhận thức cảm tính do các giác quan mang lại, con người
hình thành những nhận thức lí tính. Nhận thức tính phản ánh bản chất quy luật sự
vật, hiện tượng, từ đó giúp con người hình thành các khái niệm. Khái niệm chứa đựng
những thuộc tínhbản, chung nhất của các loại đối ợng và hiện tượng và được biểu
đạt nhờ các yếu tố ngôn ngữ, các tín hiện ngôn ngữ.
Ngay cả khi hoạt động duy được tiến hành một cách thầm lặng (suy nghĩ),
ngôn ngữ vẫn đóng vai trò là một công cụ quan trọng. Chúng ta không thể suy nghĩ,
duy mà không có ngôn ngữ.
2.2. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt tư duy
- Ngôn ngữ đóng vai tròu trữ, bảo toàn cố định các kết quả của nhận
thức, tư duy. Mọi kết quả của quá trình duy muốn thể hiện được ra ngoài, truyền đạt
đến cho người khác, lưu giữ cho thời gian sau phải nhờ đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng
vai trò ghi lại và lưu trữ các kết quả của tư duy.
- Trong mối quan hệ này, ngôn ngữ đóng vai trò là phương tiện vật chất để
thể hiện tư duy. Nhận thức và tư duy là cái được biểu đạt, còn ngôn ngữ là cái biểu đạt.
Mối quan hgiữa duy ngôn ngữ rất chặt chẽ, thể hình dung như hai mặt của
một tờ giấy, không thể có tư duy mà không có ngôn ngữ và ngược lại, cũng như tờ giấy
đã có mặt này ắt phải có mặt kia. 2.3. Quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy
Như đã nói trên, ngôn ngữ duy gắn bó với nhau chặt chẽ. Nhờ ngôn
ngữ mà con người suy nghĩ được, đồng thời nhờ ngôn ngữ mà con người biểu đạt được
tưởng, tình cảm, suy nghĩ của mình. Ngôn ngữ vừa là công cụ của duy, vừa cái
vỏ vật chất của duy. Ngôn ngữ và duy là một thể thống nhất nhưng không đồng
nhất. Sự không đồng nhất giữa ngôn ngữ và tư duy thể hiện ở những điểm sau:
- Ngôn ngữ tồn tại dạng vật chất, còn duy không tồn tại ở dạng vật chất.
Các đơn vị của ngôn ngữ được cảm nhận bằng các giác quan (thính giác, thị giác) và có
lOMoARcPSD| 58504431
các đặc tính vật chất như: độ cao, độ dài... Còn tư duy không có những đặc tính vật chất
như vậy, tư duy không cảm nhận được bằng các giác quan.
- Ngôn ngữ mang tính dân tộc, còn tư duy có tính nhân loại. Mọi người trên
trái đất suy nghĩ đều theo những quy luật chung. Nhưng cách thức thể hiện tư duy bằng
ngôn ngữ mỗi dân tộc khác nhau. duy hoạt động đòi hỏi phải hợp lý, lôgic; trong
khi đó ngôn ngữ hoạt động theo thói quen được cộng đồng chấp nhận. Nói cách khác,
trong ngôn ngữ cái lôgic mà không được thói quen cộng đồng chấp nhận thì cũng không
có giá trị; ngược lại, cái phi lôgic nhưng được cộng đồng chấp nhận tvẫn dùng được
bình thường. dụ, trong tiếng Việt các thợp từ: đẹp kinh khủng, đẹp chết người ...
nghe vẻ phi lôgíc nhưng mọi người vẫn chấp nhận dùng bình thường. Như vậy,
ngôn ngữ có quy luật riêng khác với quy luật tư duy.
- Đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ; trong khi đó các đơn vị của
duy là khái niệm, phán đoán và suy lí. Có thể thấy sự tương ứng giữa khái niệm với từ,
phán đoán với câu (khái niệm được biểu thị bằng từ, phán đoán được biểu thị bằng câu).
Song, chúng không tương ứng nhau hoàn toàn, giữa chúng những khác nhau đáng
kể. Một khái niệm thể được biểu thbằng nhiều từ khác nhau (hiện ợng đồng nghĩa);
một nh thức ngữ âm thể biểu thị nhiều khái niệm khác nhau (hiện tượng nhiều
nghĩa, đồng âm); những từ không biểu thị khái niệm như: ối, ái, tôi, ta, tớ,v.v... Tương
tự như vậy trong quan hệ phán đoán câu, trong thực tế nhiều câu không phải
phán đoán. Chẳng hạn như các câu nghi vấn, câu cầu khiến, lời gọi,v.v...
Trên đây là hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ đối với con người xã hội loài
người. Hai chức năng này không độc lập, tách rời nhau phối hợp với nhau,quan
hệ qua lại với nhau.
3. Các chức năng khác
3.1 Chức năng làm chất liệu và phương tiện của nghệ thuật văn chương
Loại hình nghệ thuật này đã sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu và qua sự lựa chọn
trau chuốt mà đạt đến một trình độ nghệ thuật cao.
dụ: Bằng ngôn từ, tác giả dân gian đã miêu tả một bức tranh lao động tuyệt
đẹp vào một đêm trăng:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Bức tranh ấy được xây dựng bằng những tín hiệu ngôn ngữ. Đó là những từ ngữ
được sử dụng quen thuộc trong đời sống giao tiếp hàng ngày
lOMoARcPSD| 58504431
3.2 Chức năng siêu ngôn ngữ
Chức năng này thể hiện chỗ: ngôn ngữ được dùng làm phương tiện để nói về
chính nó.
Ví dụ:
Sen d. Cây mọc nước, to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng, hương thơm
nhẹ, hạt dùng để ăn: Đầm sen, mứt sen, chè ướp sen (Từ điển tiếng Việt -
NXBKHXH, H.1998, tr885)
lOMoARcPSD| 58504431
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Tại sao nói ngôn ngữ là một hiện tượng hội? Bản chất hội của ngôn ngữ
thể hiện cụ thể như thế nào?
2. Bản chất hội của ngôn ngữ đặc biệt so với những hiện ợng hội khác?
3. Hãy chứng minh ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người.
4. Hãy phân tích mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy.
5. Bàn về bản chất hội của ngôn ngữ, Mác và Ăng ghen trong cuốn “Hệ tư ởng
Đức” viết: “… Ngôn ngữ ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả
những người khác nữa, như vậy cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa;
cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với
người khác”. Dựa vào những hiểu biết của nh, anh (chị) y phân tích làm sáng tỏ
nhận định trên.
lOMoARcPSD| 58504431
BÀI 2
NGÔN NGỮ LÀ MỘT HỆ THỐNG TÍN HIỆU
I. BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NG
1. Khái niệm tín hiệu
1.1. Định nghĩa tín hiệu
Ví dụ: để báo giờ học, người ta có thể dùng tiếng chuông. Tiếng chuông là yếu tố
vật chất mà ta có thể cảm nhận được bằng thính giác. Nghe đúng tiếng chuông (3 tiếng
chẳng hạn) sinh viên biết giờ vào lớp. Tiếng chuông giờ học hai sự vật khác
nhau nhưng tiếng chuông đã được dùng để báo giờ học. vậy, tiếng chuông chính
một tín hiệu.
Vậy tín hiệu là gì? Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện
tượng) kích thích vào giác quan con người, làm cho con người tri giác được giải,
suy diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật đó.
Định nghĩa trên cho thấy, một vật muốn là tín hiệu phải đáp ứng đầy đủ các điều
kiện sau:
- Phải là một dạng vật chất (con người cảm nhận được bằng các giác quan)
- Phải gợi ra một cái gì đó không phải là thuộc tính, bản chất, chức năng tự
nhiên của nó. dụ một cái khăn mùi xoa, tức đáp ứng được yêu cầu thứ nhất, nhưng
nếu dùng để lau mặt, lau tay (chức năng của khăn) thì không mang bản chất tín
hiệu, nhưng nếu có hai hoặc hơn hai bạn nào đó quy ước với nhau rằng: khi nào tớ treo
khăn trên cửa sổ khi đó tớ bận không ra chơi được, chẳng hạn, thì khi đó khăn mùi
xoa được dùng như một tín hiệu.
Hai mặt của tín hiệu như vậy được gọi là cái biểu đạt (CBĐ) và cái được biểu đạt
(CĐBĐ). CBĐ luôn luôn là yếu tố vật chất, CĐBĐ thuộc phạm trù tinh thần.
- Mối quan hệ giữa hai mặt trên đây phải được con người nhận thức như là
haimặt của tín hiệu.
- Một vật nào đó chỉ trở thành tín hiệu khi nó nằm trong một hệ thống
nhấtđịnh. Khi không nằm trong hệ thống đó, vật ấy có thể không còn là tín hiệu nữa.
dụ : cái đèn đỏ khi nằm trong hệ thống đèn giao thông thì gtrị một tín hiệu,
khi nó nằm trong chùm đèn trang trí thì không còn là tín hiệu nữa.
1.2 Phân loại tín hiệu
Việc phân loại tín hiệu có thể dựa theo những tiêu chí khác nhau.
lOMoARcPSD| 58504431
- Căn cứ vào đặc điểm vật của CBĐ trong tín hiệu thì ta tín hiệu thị giác,tín
hiệu thính giác, tín hiệu xúc giác, vị giác
- Căn cứ vào nguồn gốc, thể phân biệt tín hiệu tự nhiên tín hiệu nhân tạo.+
Tín hiệu tự nhiên tín hiệu quan hệ giữa hai mặt tính tự nhiên, tất yếu. dụ :
mây đen dày đặc báo hiệu có mưa.
+ Tín hiệu nhân tạo những tín hiệu mà quan hệ giữa hai mặt do con người
quy ước. dụ : tấm bản đồ Việt Nam được dùng để biểu hiện cho lãnh thổ, cho đất
nước Việt Nam.
- Căn cứ vào tính chất của mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu mà phân biệt :
+ Các dấu hiệu: đó những tín hiệu CBĐ của thực chất một bộ phận
hoặc một thuộc tính cấu thành của CĐBĐ. Ví dụ: dấu chân người trên cát.
+ Các hình hiệu: những tín hiệu được tạo ra theo kiểu phỏng, lấy cái này
biểu đạt cho cái kia. Ví dụ: bức vẽ chân dung một ai đó bản thân người đó; trong
ngôn ngữ lớp từ tượng thanh cũng có tính chất hình hiệu.
+ Các ước hiệu : là những tín hiệu mà mối quan hệ giữa hai mặt là hoàn toàn do
con người quy ước, thỏa thuận. Ví dụ : đèn giao thông, tiếng kẻng báo giờ học.
Tuyệt đại đa số các tín hiệu ngôn ngữ là các ước hiệu.
2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
Tín hiệu ngôn ngữ mang những đặc điểm bản chất của tín hiệu nói chung đồng
thời có những đặc trưng khác biệt.
2.1 Đặc trưng chung
- Như mọi tín hiệu khác, tín hiệu ngôn ngữ có tính hai mặt: mặt biểu đạt (còn lại
gọi là mặt biểu hiện - hình thức) và mặt được biểu đạt (mặt được biểu hiện - nội dung).
Mặt biểu đạt là hình thức, thuộc tính vật chất bên ngoài của tín hiệu, ví dụ các màu đỏ,
vàng, xanh của đèn giao thông; âm thanh của tiếng chuông, trống báo giờ học
v.v... Mặt được biểu đạt nội dung tín hiệu biểu thị, dụ như yêu cầu dừng lại,
chuẩn bị được đi các màu đỏ, vàng, xanh của hệ thống đèn giao thông biểu thị;
hoặc nội dung bắt đầu hay kết thúc giờ học của tiếng chuông, trống…
MẶT BIỂU ĐẠT
hình thức
MẶT ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
nội dung
Đối với tín hiệu ngôn ngữ: mặt biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ âm thanh
con người thể nghe được (hoặc nhìn thấy khi viết), còn mặt được biểu đạt nội dung
lOMoARcPSD| 58504431
ý nghĩa. Hai mặt của tín hiệu luôn gắn khăng khít với nhau như hai mặt của một tờ
giấy.
Ví dụ, chúng ta có từ bàn, quan hệ giữa các mặt biểu đạt và được biểu đạt của từ
bàn có thể được trình bày một cách đơn giản như sau:
Mặt biểu đạt (hình thức âm thanh): BÀN
Mặt được biểu đạt (nội dung ý nghĩa): đồ
dùng có mặt phẳng được cao hơn mặt
nền bằng chân, thường làm bằng gỗ hoặc
bằng sắt để đặt đồ ăn hoặc để làm việc.
2.2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
Tính võ đoán: Mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu không phải là mối quan hệ
có lí do, có tính tất yếu, mà là mối quan hệ do con người thỏa thuận, quy ước với nhau.
Mối quan hệ này khiến ta không thể giải thích được vì sao một âm thanh lại được dùng
để biểu hiện một ý nghĩa nào đó. Chẳng hạn, không thể giải thích vì sao trong tiếng Việt
‘hoạt động dời chỗ bằng chân với tốc độ bình thường’ lại gọi là đi.
Tuy vậy, trong ngôn ngthể một số tín hiệu tính đoán thấp hơn, nghĩa
quan hệ giữa âm thanh ý nghĩa của tín hiệu một phần do nào đó. Đó các
trường hợp sau :
- Từ tượng thanh, ví dụ : meo meo, đùng đoàng, róc rách…
- Thán từ : ái, ối, ôi…
- Các từ được cấu tạo phái sinh. dụ: xe đạp đoán, nhưng khi
ghép chúng lại với nhau để tạo nên từ xe đạp thì từ này tính có lí do rất rõ.
- Các nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển), ví dụ : lá cây, lá gan, lá thư…
- Tên riêng
Tuy những trường hợp trên đây nhưng nguyên về tính đoán của tín hiệu
ngôn ngữ vẫn nguyên bản, giúp bảo vệ sự ổn định của ngôn ngữ, chống lại các
sự xâm nhập nhằm làm thay đổi nó. Đồng thời, đó điều kiện để diễn ra sự biến đổi
trong quan hệ giữa hai mặt CBĐ và CĐBĐ của tín hiệu ngôn ngữ.
Tính hình tuyến của các tín hiệu ngôn ngữ. Trong thực tế sử dụng, các âm thanh
ngôn ngữ diễn ra lần lượt, kế tiếp nhau trong thời gian. Nói cách khác, các tín hiệu ngôn
ngữ tính hình tuyến. Khi sử dụng, các tín hiệu ngôn ngữ xuất hiện lần lượt, cái này
tiếp nối sau cái kia, làm thành một chuỗi. Tính hình tuyến của các tín hiệu ngôn ngữ thể
lOMoARcPSD| 58504431
hiện rõ, khi chúng ta ghi lại chúng bằng chữ viết (dùng tuyến không gian của tín hiệu
văn tự thay thế cho sự kế tiếp trong thời gian). Ví dụ: Chào - bác - ạ.
Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ. Khác với các tín hiệu khác (mỗi hình thức tín
hiệu thường chỉ biểu thị một nội dung), các tín hiệu của ngôn ngữ tính đa trị. Nghĩa
là, có thể có các trường hợp:
- Một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhiều nội dung khác nhau, như trường hợp
các từ nhiều nghĩa, các từ đồng âm;
- Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị một nội dung, như trường hợp c từ
đồng nghĩa;
- Nội dung của mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài phần hiện thực khách quan,
còn cóthể gợi ra những tình cảm, cảm xúc, thái độ, cách đánh giá... đối với sự vật,
hiện tượng (gọi là phần nghĩa biểu cảm). Ví dụ, xét các tín hiệu đồng nghĩa sau: chết,
hi sinh, từ trần, ngoẻo, toi... các tín hiệu này, tuy cùng chỉ một trạng thái (mất khả
năng sống, không còn biểu hiện của sự sống), nhưng giữa chúng có sự khác nhau về
phần tình cảm, cách đánh giá của con người.
Tính năng sản. Các tín hiệu ngôn ngữ luôn tiềm tàng những khả ng sản sinh
ra các tín hiệu mới từ những tín hiệu ban đầu.
Ví dụ :
lá gan, lá thư, lá cờ, lá bài, lá phiếu,
Xe + đạp xe đạp xe (đạp) mi ni, xe (đạp) mi pha, xe (đạp) phượng hoàng, xe
(đạp) ét ka, xe đạp điện,… xe (đạp) mi ni Nhật, xe (đạp) mi ni Tàu…
Tính phức tạp, nhiều tầng bậc. Trước hết, hệ thống ngôn ngữ bao gồm số lượng
đơn vị rất lớn, khó thể thống hết số lượng từ, số lượng câu trong một ngôn ngữ.
Mặt khác, bên cạnh các tín hiệu đồng loại còn tồn tại các đơn vị khác loại, đó các
đơn vị của ngôn ngữ thuộc nhiều cấp độ khác nhau quan hệ cấp bậc (tức các đơn vị
bậc thấp nằm trong những đơn vị bậc cao, những đơn vị bậc cao bao hàm những đơn vị
bậc thấp). Do vậy, hệ thống ngôn ngữ là hệ thống của các hệ thống (hệ thống âm vị, hình
vị, từ, câu…)
Tính độc lập tương đối của các tín hiệu ngôn ngữ. Các tín hiệu khác thể bị
thay đổi bởi ý chí của con người, chẳng hạn, do một u cầu nào đó để biểu thị sự dừng
lại, con người thể dùng một màu đen để thay thế màu đỏ hiện nay, trong khi đó, các
tín hiệu ngôn ngữ tính độc lập tương đối. Ta không thể ngày một ngày hai thay đổi
tên gọi của một sự vật bằng một tên gọi khác.
lOMoARcPSD| 58504431
II. TỔ CHỨC HỆ THỐNG CỦA NGÔN NGỮ
1. Khái niệm hệ thống
1.1. Hệ thống là một tổng thể các yếu tố có quan hệ qua lại, quy định lẫn nhau.
Ví dụ : hệ thống đèn giao thông, hệ thống tuần hoàn trong cơ thể người, hệ thống
hành chính,…
Định nghĩa này cho thấy, muốn hệ thống, phải đáp ng đầy đủ các điều kiện
sau:
- Điều kiện cần: Phải là tập hợp các yếu tố.
- Điều kiện đủ: Các yếu tố không phải đứng rời rạc, riêng rẽ phải được
tổ chức chặt chẽ, sắp xếp theo một trật tự nhất định, có quan hệ qua lại, quy định lẫn
nhau.
dụ, các dãy bàn ghế trong lớp thỏa mãn điều kiện thứ nhất của tín hiệu
nhưng giữa những cái bàn không hề có mối quan hệ nào, do vậy chúng không tạo thành
hệ thống. Ngược lại hệ thống đèn đường giao thông gồm ba màu: đỏ, vàng, xanh được
tổ chức, sắp xếp theo những quan hệ nhất định, nếu thay đổi thì hệ thống cũng bị thay
đổi, ta nói, các tín hiệu giao thông tạo thành hệ thống.
1.2 Trong hệ thống, yếu tố phần tử tạo nên hệ thống. những hệ thống
bao gồm nhiều yếu tố. Trong những hệ thống lớn lại có thể có nhiều hệ thống nhỏ, mỗi
hệ thống nhỏ một yếu tố trực tiếp tạo nên hthống lớn. Nói cách khác trong một hệ
thống lớn bao hàm nhiều cấp độ tổ chức. Một phần tử nào đó vừa thể yếu tố tạo
nên hệ thống lớn hơn, vừa có thể là một hệ thống nhỏ bao gồm nhiều yếu tố nhỏ hơn.
Ví dụ : Hệ thống tổ chức hành chính: quốc gia - tỉnh - huyện - thôn - xã - xóm
Xét cấp độ huyện: huyện vừa là một yếu tố tạo nên hệ thống hành chính tỉnh, lại
vừa là một hệ thống bao gồm những yếu tố nhỏ hơn, đó là các xã.
1.3 Quan hệ giữa các yếu tố tạo thành cấu trúc (kết cấu) của hệ thống. Cấu
trúc của hệ thống chính mạng lưới các mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống đó.
Cấu trúc này luôn tồn tại trong một hệ thống nhất định là cấu trúc của một hệ thống
nhất định. Người ta thể hiện thực hóa cấu trúc của hệ thống bằng đồ, hình,
bảng biểu.
1.4 Tính đa hệ thống của yếu tố. Các yếu tố tồn tại trong hệ thống luôn bị chi
phối bởi những mối quan hệ nhất định. Một yếu tố nào đó có thể tồn tại với nhiều thuộc
tính khác nhau và tuỳ theo các thuộc nh đó mà thể tham gia vào nhiều hệ thống khác
nhau. dụ, một người khi nt cách con, cha, ông, anh, em... tuỳ
trong mối quan hệ với ai - bố, con, cháu hay em, anh... cũng người đó khi tham gia
lOMoARcPSD| 58504431
vào các hệ thống hội thì lại những ch khác nhau như: thủ trưởng, nhân viên
v.v...
1.5 Chức ng giá trị của yếu tố trong hệ thống. Nằm trong một hệ thống,
các yếu tố luôn luôn có một giá trị nhất định. Giá trị của mỗi yếu tố được xác định trong
một hệ thống nhất định giá trị trong hệ thống ấy. Nếu cũng yếu tố y nhưng nằm
trong hệ thống khác thì sẽ có giá trị khác.
dụ trong hệ thống gia đình: Một nhân X thể trong quan hệ với Y bố,
nhưng trong quan hệ với Z là con, với K là cháu, với H là ông v.v...
Giá trị của mỗi yếu tố trong hệ thống vừa được xác định bởi những thuộc tính
của bản thân yếu tố đó, vừa được quy định bởi mối tương quan với các yếu tố khác trong
hệ thống.
Tóm lại, hệ thống với cách một tổng thể khác với tập hợp ngẫu nhiên các
yếu tố. Một mặt, hệ thống không đơn thuần tổng các yếu tố, bởi các yếu tố trong hệ
thống không phân bổ cạnh nhau mà nằm trong các quan hệ phụ thuộc đối lập rất đa
dạng. Mặt khác, các yếu tố với cách thành viên của hệ thống không giống với các
yếu tố được tách riêng rẽ, mặc dù chúng có thể giống nhau về hình thức vật chất. Trong
hệ thống, mỗi yếu tố bên cạnh những thuộc tính của mình, còn được bổ sung các giá trị
có được do quan hệ với các yếu tố khác.
2. Hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ.
2.1. Các đơn vị của ngôn ngữ
a. Âm vị
Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà ta thể phân tách ra được trong lời nói. Ví
dụ : tổ hợp âm thanh bàn ta nghe được thể phân tách thành ba âm vị /b/, /a/, /n/
mà không thể phân tách nhỏ hơn được nữa.
- Chức năng cơ bản của âm vị : tạo vỏ âm thanh cho những đơn vị lớn hơn
và phân biệt nghĩa.
- Toàn bộ các âm vcủa một ngôn ngữ tạo nên hệ thống âm vị. Hệ thống
này làmột cấp độ trong hệ thống ngôn ngữ - cấp độ âm vị. Đến lượt mình, hệ thống âm
vị lại bao gồm nhiều hệ thống bộ phận. Tớc hết, có thể phân tách thành hai hệ thống :
âm vị đoạn tính âm vị siêu đoạn tính. Âm vị đoạn tính lại được tách thành âm vị
nguyên âm và âm vị phụ âm. Mỗi hệ thống đó lại bao gồm một số hệ thống nhỏ căn cứ
vào những nét khu biệt của âm vị.
b. Hình vị
lOMoARcPSD| 58504431
- Hình vị là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều âm vị, hình vị là đơn vị
nhỏ nhất mang nghĩa dùng để cấu tạo từ và biến đổi từ.
Ví dụ : mỗi từ sau đây đều gồm hai hình vị : Tổ quốc, xe đạp, làm lụng…
- Chức năng của hình vị chức năng cấu tạo từ hoặc biến đổi từ trong các
ngôn ngữ biến hình. Ví dụ:
+ Từ các hình vị: teacher cấu tạo nên từ teacher (giáo viên) trong tiếng Anh.
+ Từ các hình vị: quốcgia cấu tạo nên từ quốc gia trong tiếng Việt.
Trong các ngôn ngữ biến hình (như tiếng Nga, Anh, Pháp...) hình vị còn có chức
năng ngữ pháp. Ví dụ:
+ Từ các hình vị: dom a tạo nên dạng thức doma (nhà - cách hai số ít) trong
tiếng Nga.
+ Từ các hình vị: play ed tạo nên dạng thức played (chơi - thời quá khứ của
động từ) trong tiếng Anh v.v...
Toàn bộ các hình vị tạo nên một hệ thống một cấp độ - cấp độ hình vị. Hệ
thống hình vị của mỗi ngôn ngữ có số lượng yếu tố lớn hơn hệ thống âm vị (hàng ngàn
đơn vị). Song hệ thống này lại được chia tách thành nhiều hệ thống nhỏ hơn. c. Từ
- Từ là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều hình vị, từ là đơn vị độc lập
nghĩa (hoặc) chức năng ngữ pháp (khác với hình vị đơn vị nghĩa nhưng
không độc lập, hình vị luôn tồn tại trong từ).
- Chức năng của từ chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng trong thực
tế (định danh) dùng để tạo câu. Từ là đơn vị nghĩa nhỏ nhất cấu tạo nên câu. Nghĩa
là không có đơn vị nào nhỏ hơn từ có nghĩa mà có thể dùng trực tiếp để tạo nên câu.
- Hệ thống từ vựng lại bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn, từ nhiều
bìnhdiện.
+ Xét về mặt cấu tạo: từ đơn, từ láy, từ ghép
+ Xét về đặc điểm ngữ pháp: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ
+ Xét về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, trường
nghĩa + Xét về phạm vi sử dụng: từ toàn dân, từ địa
phương,… d. Câu:
- Là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều từ.
- Chức năng của câu chức năng thông o. Câu đơn vị thông báo nhỏ
nhất.
lOMoARcPSD| 58504431
- Câu đơn vị không có sẵn trong hệ thống ngôn ngữ được tạo ra
từhoạt động giao tiếp cụ thể, thế câu số lượng hạn. Tuy vậy, chúng vẫn nằm
trong những hệ thống nhất định.
Xét về cấu tạo: câu đơn, câu ghép, câu phức
Xét theo mục đích phát ngôn: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán, e.
Văn bản
Văn bản đơn vị ngôn ngữ thực hiện chức năng thông báo trọn vẹn. Chúng
số lượng vô hạn. 2.2. Các quan hệ chủ yếu
Như trên đã giới thiệu, ngôn ngữ m đơn vị bản: âm vị, hình vị, từ, câu,
văn bản. Mỗi đơn vị này lại một tiểu hệ thống bao gồm những đơn vị cùng loại
được đặc trưng bởi cấu trúc riêng. Do vậy, có thể thấy ngôn ngữ một hệ thống hết sức
phức tạp. Nó là hệ thống của các hệ thống. c quan hệ thường gặp trong ngôn ngữ là:
a. Quan hệ đồng nhất và đối lập
- Quan hệ đồng nhất quan hệ giống nhau giữa các yếu tố (đơn vị) ngôn
ngữvề một phương diện nào đó. Sự giống nhau đó sở để tập hợp các yếu tố vào
cùng một loại, một hệ thống nhỏ hơn.
Ví dụ :
+ Các yếu tố /a/, /i/, /e/, /... đều đồng nhất với nhau là các đơn vị ngữ âm nhỏ
nhất và đồng nhất ở các chức năng khu biệt nghĩa, nên chúng được gọi chung là các âm
vị.
+ Các từ lênh khênh, lim dimđồng nhất với nhau về cấu tạo: chúng đều từ
láy vần
+ Các từ nấu, nướng, kho, luộc, xào, ninh, hấp… đồng nhất với nhau về nghĩa:
chỉ hoạt động làm chín thức ăn
- Quan hệ đối lập là quan hệ giữa các yếu tố khác biệt nhau về một phương
diệnnào đó. Sự khác biệt trên cùng một phương diện, một tiêu chí tạo nên sự đối lập.
Ví dụ :
Nguyên âm /a/ /i/ đối lập nhau về độ mở : /a/ độ mở miệng rộng ; /i/ độ mở
miệng hẹp
b. Quan hệ thứ bậc (còn gọi là quan hệ cấp độ).
- Quan hệ thứ bậc thể hiện ra hai bình diện quan hệ nằm trong quan hệ
bao hàm. Phân tích các đơn vị ngôn ngữ ta thấy giữa các đơn vị này có sự sắp xếp theo
tôn ti, trật tự. Các đơn vcấp thấp nằm trong c đơn vị cấp trên, các đơn vị cấp trên bao
lOMoARcPSD| 58504431
hàm các đơn vị cấp dưới. Âm vị nằm trong nh vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong
câu; và ngược lại, câu bao gồm từ, từ bao gồm hình vị, hình vị bao gồm âm vị.
Phân tích một câu để thấy rõ điều đó: Nó đi học bằng xe đạp.
Câu đi học bằng xe đạp bao gồm m từ: nó, đi, học, bằng, xe đạp. Mỗi từ
nó, đi, học, bằng có cấu tạo gồm một hình vị, riêng từ xe đạp cấu tạo gồm hai hình
vị xeđạp. Các hình vị này lại được tạo nên từ các âm vị: /n/, / / /d/, /i/, /h/, v.v...ɔ
c. Quan hệ tuyến tính ( còn gọi là quan hệ ngang, quan hệ ngữ đoạn).
- Quan hệ tuyến nh quan hệ giữa các yếu tngôn ngữ khi chúng xuất
hiện lần lượt, kế tiếp nhau trên tuyến thời gian.
- quan hệ giữa các đơn vị cùng loại (âm vị với âm vị, hình vị với hình
vị, từ với từ...). Ví dụ:
Trong câu: đi học bằng xe đạp. Các âm vị /n/, / / /d/, /i/, /h/, /k /, v.v... ɔ
quan hệ tuyến tính với nhau. Các hình vị xe đạp có quan hệ tuyến tính với nhau.
Các từ nó, đi, học, bằng, xe đạp có quan hệ tuyến tính với nhau.
d. Quan hệ đối vị ( còn gọi là quan hệ dọc, quan hệ hình, quan hệ liên tưởng).
Ví dụ:
Tôi ăn cơm
hút thuốc
Bố uống bia
Chuỗi các từ: tôi, nó, bố,... chuỗi các từ: ăn, hút, uống ... chuỗi các từ: m,
thuốc, bia... tạo thành các nhóm từ có quan hệ đối vị.
Quan hệ đối vị quan hệ giữa các yếu tthể thay thế cho nhau trong cùng
một vị trí của chuỗi lời nói. Giống như quan hệ tuyến tính, quan hệ đối vị là quan hệ
giữa các yếu tố đồng loại ( âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ...).
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Tín hiệu là gì? Có thể phân loại tín hiệu như thế nào?
2. Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ được thể hiện những đặc điểm nào?
Bằng ví dụ minh họa, hãy chỉ rõ tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có điểm gì giống
và khác so với các tín hiệu khác?
3. Giải thích rõ các đặc trưng tính võ đoán, tính hình tuyến của tín hiệu ngôn
ngữ.
Cho ví dụ minh họa
4. Hệ thống là gì? Những nhân tố nào tạo nên hệ thống?
lOMoARcPSD| 58504431
5. Vì sao nói ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu?
6. Trình bày những quan hệ bản trong hthống ngôn ngữ? sao nói
ngôn ngữ là hệ thống của các hệ thống?
7. Phân tích quan hệ đồng nhất đối lập trong một nhóm từ đồng nghĩa
hoặc gần nghĩa:
- Nấu, nướng, kho, luộc, xào, ninh, rán, hấp
- Đào, bới, moi, móc
- Cắt, chặt, xén, rọc, bổ, thái, cưa
- Dừng, ngừng
8. Xác lập quan hệ liên tưởng của các từ đang, làm trong câu sau:
Chúng tôi đang làm bài tập.
Phân tích nét đồng nhất và đối lập của các từ trong cùng một nhóm liên tưởng.
BÀI 3
NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ
I. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC CỦA NGÔN NGỮ
Nói đến nguồn gốc ngôn ngữ nói đến nguồn gốc của ngôn ngữ loài người nói
chung không phải là nguồn gốc của một ngôn ngữ cụ thể nào. Tìm hiểu nguồn gốc
của ngôn ngữ loài người tức là xem xét loài người đã sáng tạo ra ngôn ngữ như thế nào,
loài người bắt đầu nói chuyện với nhau, bắt đầu dùng công cụ giao tiếp quan trọng nhất,
công cụ để thể hiện tư duy như thế nào.
Vấn đề về nguồn gốc ngôn ngữ một vấn đề lớn của cả Triết học và Ngôn ngữ
học và được xã hội luôn quan tâm. Từ thời xa xưa con người đã suy nghĩ về nguồn gốc
của ngôn ngữ và đã tồn tại khá nhiều giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ của con người.
Các giả thuyết này ra đời chịu ảnh hưởng chính của khuynh hướng chủ đạo trong ý thức
xã hội ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
1. Một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ loài người
1.1 Thuyết Tượng thanh
- Thuyết này cho rằng, ngôn ngữ của loài người sự bắt chước những
âmthanh của thế giới bao quanh con người dùng những đặc điểm của âm thanh con
người để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan.
- Quan niệm phổ biến cho rằng con người dùng âm thanh ngôn ngữ để
môphỏng âm thanh trong thực tế khách quan tạo nên các từ tượng thanh. Ví dụ: các
từ mèo, lộp độp,… trong tiếng Việt. Tuy nhiên, các từ tượng thanh chỉ chiếm số lượng ít
lOMoARcPSD| 58504431
trong hệ thống từ vựng và không đóng vai trò quan trọng trong việc biểu hiện nhận thức,
tư tưởng, tình cảm của con người.
1.2 Thuyết Cảm thán
- Theo thuyết này, ngôn ngữ của loài người bắt nguồn từ những âm thanh
bộc lộtrạng thái cảm c vui mừng, giận dữ, đau buồn, sung sướng… Chẳng hạn, các từ
ái, ối, ôi, chao ôi… trong tiếng Việt.
- Tuy nhiên, các từ bộc ltrạng thái cảm c của con người trong mọi ngôn
ngữđều chiếm số lượng rất ít. Hơn thế, chức năng của ngôn ngữ không chỉ biểu hiện
trong một phạm vi hẹp gắn với việc bộc lộ cảm xúc còn thực hiện những chức
năng trọng đại hơn thế.
1.3 Thuyết Tiếng kêu trong lao động
- Thuyết này cho rằng, ngôn ngữ đã xuất hiện từ những tiếng kêu của con người
trong lao động tập thể: hoặc tiếng kêu phát ra do những cố gắng cơ bắp cùng chung kích
thích, hoặc theo nhịp điệu lao động… Tuy nhiên, tiếng kêu trong lao động chỉ sở
cho sự hình thành một bộ phận nhỏ trong thành phần từ vựng của ngôn ngữ, không thể
là nguồn gốc chân chính cho sự nảy sinh một hệ thống tín hiệu phức tạp trong ngôn ngữ
loài người. 1.4. Thuyết Khế ước xã hội
Theo thuyết này, ngôn ngữ do con người thảo luận với nhau hình thành
nên. Song muốn có khế ước xã hội để tạo ra ngôn ngữ thì cần phải có ngôn ngữ trước.
Đó là một điều luẩn quẩn, phi lí.
1.5. Thuyết Ngôn ngữ cử chỉ
Thuyết này cho rằng, ban đầu con người chưa có ngôn ngữ âm thanh để giao tiếp
với nhau nên người ta dùng cử chỉ, điệu bộ, tư thế của thân thể để thể hiện ý tưởng. Tuy
nhiên, cử chỉ, điệu bộ những tín hiệu đơn giản hơn rất nhiều so với ngôn ngữ âm thanh
nên không thể cho rằng ngôn ngữ cử chỉ là nguồn gốc của ngôn ngữ âm thanh.
Tất cả những giả thuyết trên đây đều không giải thích được nguồn gốc nảy sinh
của ngôn ngữ loài người. Các giả thuyết đó chưa đi vào bản chất con người hội
loài người, chưa thấy sự khác biệt về chất của con người, một loài động vật bậc cao.
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của ngôn ngữ
Như trên đã thấy, ngôn ngữ mang bản chất xã hội và thực hiện những chức năng
xã hội. hình thành phát triển do nhu cầu của xã hội đáp ứng những hoạt động
hội của con người. hình thành cùng với sự hình thành của con người hội. Đó
là cách nhìn nhận về nguồn gốc của ngôn ngữ theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58504431 BÀI 1
BẢN CHẤT XÃ HỘI VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
I. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ
1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội
1.1. Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên -
Những hiện tượng tự nhiên là những hiện tượng tồn tại nảy sinh và tiêu
hủy một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Đó là
những hiện tượng như mây, mưa, mặt trăng, thủy triều, động đất… -
Các hiện tượng xã hội là những hiện tượng tồn tại, nảy sinh, phát triển
haytiêu hủy lại phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ: cưới xin, ma chay, dạy và học… -
Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã
hội.Nó chỉ sinh ra trong xã hội loài người, phục vụ cho nhu cầu của con người. Bên
ngoài xã hội loài người ngôn ngữ không tồn tại. Điều này đã được chứng minh bằng
nhiều cứ liệu thực tế. Chẳng hạn, thí nghiệm của hoàng đế Zelan Utđin Acba thời cổ đại,
câu chuyện về hai bé gái Ấn Độ sống với bầy sói ở trong rừng…
1.2. Ngôn ngữ không mang tính bẩm sinh -
Con người và loài vật đều có những hoạt động bản năng do bẩm sinh mà
cónhư biết thở, biết ăn, biết đi…Những khả năng đó khi tách khỏi xã hội thì vẫn có ở con người. -
Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng bẩm sinh. Nó là kết quả của một
quátrình học hỏi, bắt chước, tiếp xúc với xã hội, với những con người xung quanh. Điều
này cũng được chứng minh qua những dẫn chứng thực tế.
1.3. Ngôn ngữ không mang tính di truyền -
Ở con người cũng có những yếu tố và hiện tượng di truyền như đặc điểm,
vócdáng cơ thể, màu tóc, màu mắt, màu da…Những đặc điểm này là do nòi giống, tổ
tiên, cha mẹ di truyền lại cho các thế hệ cháu con. -
Ngôn ngữ thì không mang tính di truyền. Nếu một đứa trẻ Việt Nam được
sinh ra và lớn lên ở Pháp, sinh sống cùng người Pháp sẽ nói tiếng Pháp mà không biết
một chút gì về tiếng Việt và ngược lại. lOMoAR cPSD| 58504431
1.4. Ngôn ngữ không đồng nhất với tiếng kêu của động vật -
Các nhà sinh học đã xác định rằng động vật cũng sử dụng tín hiệu (tiếng
kêu) để giao tiếp với nhau: báo tin cho nhau về sự nguy hiểm, báo nơi có thức ăn, bộc
lộ cảm xúc, kêu gọi bạn tình… Thậm chí một số loài vật còn có thể hiểu được tiếng nói
của con người, hay nói được tiếng người. Song, đây chỉ là những phản xạ có điều kiện
hoặc không có điều kiện mà thôi. I.P.Páp - lốp gọi những phản xạ như vậy thuộc hệ
thống tín hiệu thứ nhất - tức những phản xạ xuất hiện do bị kích thích trực tiếp. Hệ thống
tín hiệu này có cả ở người, ví dụ như khi bị đau ta kêu ái, ối… -
Còn ngôn ngữ của con người thuộc về hệ thống tín hiệu thứ hai - tín hiệu
gắn với tư duy khái quát, trừu tượng.
1.5. Ngôn ngữ không mang tính cá nhân -
Trong thực tế giao tiếp hàng ngày, mỗi cá nhân có thể tạo ra những lời nói
củariêng mình, mang đậm dấu ấn cá nhân. Song, những lời nói đó phải dựa trên những
quy tắc chung của ngôn ngữ. Nếu không như vậy, con người không thể giao tiếp được
với nhau, người này sẽ không hiểu được người kia, và nói chung không ai hiểu ai cả.
Cho nên, ngôn ngữ phải chứa đựng những yếu tố chung, những quy tắc chung, có tính
phổ biến và bắt buộc đối với mọi cá nhân trong cộng đồng xã hội. Điều này khiến cho
ngôn ngữ mang rõ bản sắc và phong cách của từng cộng đồng, từng dân tộc. -
Điều vừa nói hoàn toàn không mâu thuẫn với những kết luận về phong
cách cá nhân của các nhà văn, thơ, các nhà nghệ thuật ngôn từ. Bởi lẽ khi chúng ta
nghiên cứu phong cách của các nhà thơ, nhà văn lớn là ta nghiên cứu những đặc điểm
riêng, những phát hiện độc đáo của họ trong việc sử dụng ngôn ngữ chung. Nhờ các nhà
văn, nhà thơ lớn đó mà nhiều khả năng tiềm ẩn của ngôn ngữ được hiện thực hoá, được
nhiều người biết đến và sử dụng theo, góp phần làm cho ngôn ngữ phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn.
1.6. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội
Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở các phương diện sau: -
Ngôn ngữ nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người và phụ
thuộcvào xã hội loài người. -
Ngôn ngữ mang bản sắc của từng cộng đồng xã hội -
Ngôn ngữ phục vụ cho toàn thể xã hội, là công cụ chung của toàn xã hội.
Không có ngôn ngữ của riêng cá nhân.
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt Tính
chất đặc biệt này thể hiện ở chỗ: lOMoAR cPSD| 58504431 -
Ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng, vì rõ ràng nó không phải là quan hệ sản xuất. -
Ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng của riêng một xã hội nào.
Khi một cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của kiến trúc thượng tầng
tương ứng thì ngôn ngữ của xã hội vẫn tồn tại, vẫn là một phương tiện chung của toàn
xã hội. Ngôn ngữ không được sinh ra từ một cơ sở hạ tầng nào cả và cũng không bị sụp
đổ do cơ sở hạ tầng. Nó có quy luật phát triển riêng của nó. -
Thêm vào đó, kiến trúc thượng tầng có tính giai cấp rõ rệt, nó luôn phục
vụ cho một giai cấp nhất định. Còn ngôn ngữ hoàn toàn không có tính giai cấp, nó không
phục vụ riêng cho một giai cấp nào mà phục vụ chung cho toàn xã hội. Tuy rằng, mỗi
giai cấp đều luôn có ý thức dùng ngôn ngữ để phục vụ cho lợi ích của riêng họ.
II. CÁC CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người
1.1. Các phương tiện giao tiếp của con người
Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân và của toàn xã hội.
Trên thực tế, con người có thể giao tiếp với nhau bằng các phương tiện khác nhau. -
Cử chỉ là một trong những phương tiện giao tiếp khá thông dụng của con
người. Chúng ta có thể vẫy tay để gọi người khác đến, có thể gật đầu hoặc lắc đầu để
bày tỏ sự đồng ý hoặc không đồng ý… Đó là chúng ta đã dùng cử chỉ để giao tiếp. -
Trong hoạt động giao thông, để mọi người biết phải dừng lại hay được đi
ở các ngã tư, người ta sử dụng hệ thống đèn xanh, đỏ; để những người tham gia giao
thông nhận biết được đặc điểm các con đường, người ta có hẳn một hệ thống biển báo,
chỉ dẫn. Ví dụ, ta có kí hiệu Z để chỉ con đường ngoằn ngoèo v.v… đó là chúng ta sử
dụng hệ thống tín hiệu giao thông để giao tiếp. -
Trong khoa học, người ta có các hệ thống kí hiệu khoa học để giao tiếp
với nhau. Ví dụ như để chỉ nước, ta có kí hiệu H2O v.v… -
Ngoài ra các phương tiện nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc cũng
được sử dụng để thực hiện các cuộc giao tiếp.
Và cuối cùng, phương tiện thường xuyên nhất được sử dụng trong giao tiếp ngôn ngữ.
1.2. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
Trong số các phương tiện giao tiếp đã nêu trên, ngôn ngữ là phương tiện được
coi là quan trọng nhất và phổ biến nhất. Nó vượt trội các phương tiện khác về sự tiện lợi
và tính hiệu quả đối với hoạt động giao tiếp. lOMoAR cPSD| 58504431 -
So với ngôn ngữ, cử chỉ là phương tiện hết sức nghèo nàn. Nó chỉ gồm
một số những động tác để thể hiện những nội dung giao tiếp đơn giản. Rõ ràng, không
thể dùng cử chỉ để diễn đạt những khái niệm trừu tượng, những nội dung phức tạp. Mặt
khác, giao tiếp bằng cử chỉ đòi hỏi phải có điều kiện về không gian như không quá xa,
về ánh sáng để những người giao tiếp nhìn thấy nhau được. -
Hệ thống tín hiệu giao thông và kí hiệu khoa học có phạm vi giao tiếp
rất hạn chế, chỉ dành cho những người cùng ngành khoa học và có những hiểu biết
tương đương nhau. Ví dụ, nếu yêu cầu một em bé “Lấy hộ một cốc H2O” thì chắc chắn
là không ổn. Do đó, hệ thống tín hiệu giao thông và kí hiệu khoa học không thể dùng
làm phương tiện giao tiếp chung toàn xã hội được. -
Các phương tiên nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc v.v…, so
với ngôn ngữ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước hết là, trước một sản phẩm
của nghệ thuật, những người khác nhau có thể có những cảm nhận rất khác nhau. Điều
đó chứng tỏ tính thống nhất xã hội ở sự truyền đạt nội dung giao tiếp bằng các phương
tiện nghệ thuật là không cao. Thêm vào đó, nội dung giao tiếp của các phương tiện nghệ
thuật rất trừu tượng, không cụ thể. Nó không thể truyền đạt được những nội dung đòi
hỏi yêu cầu chính xác, rã ràng. -
Tất cả các phương tiện giao tiếp như cử chỉ, tín hiện giao thông, kí hiệu
khoa học, hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc,… đều có một hạn chế chung là không thể dùng
chính chúng để giải thích cho chúng được, mà phải mượn đến ngôn ngữ để giải thích.
Trong khi đó, đối với ngôn ngữ có thể dùng chính các kí hiệu ngôn ngữ để giải thích cho
kí hiệu ngôn ngữ. Chẳng hạn, ai đó không hiểu BÀN là gì, ta có thể giải thích BÀN là
đồ dùng có mặt phẳng được kê cao hơn mặt nền bằng chân, thường làm bằng gỗ hoặc
bằng sắt để đặt đồ ăn hoặc để làm việc. -
Qua đó, có thể khẳng định, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người. Ngôn ngữ mang tính phổ quát, nó được sử dụng trong tất cả các tình
huống giao tiếp, và có thể thay thế được bất kì hệ thống tín hiệu nào khác, mặc dù trong
những trường hợp riêng biệt, thì hệ thống tín hiệu được tạo riêng cho tình huống đó có
tính hiệu quả cao hơn (ví dụ: hệ thống kí hiệu khoa học trong lĩnh vực giao tiếp khoa
học). Có thể nói, không một hệ thống tín hiệu nào có khả năng vô hạn như ngôn ngữ
trong việc thể hiện bất kì sắc thái nào của suy nghĩ và tình cảm của con người hiện đại,
dù cho các sắc thái đó tế nhị và phức tạp đến mấy.
1.3. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là sự tiếp xúc giữa con người (nhóm người)
với con người (nhóm người), trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm, yêu lOMoAR cPSD| 58504431
cầu hành động, đồng thời thể hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của nhân vật giao
tiếp đối với nội dung giao tiếp và giữa các nhân vật giao tiếp với nhau.
Hoạt động giao tiếp có các nhân tố sau:
a. Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào quá trình giao tiếp. Nhân tố này
trả lời cho câu hỏi: ai nói (ai viết), ai nghe (ai đọc)? Các nhân vật giao tiếp đều có ảnh hưởng
nhất định đến nội dung giao tiếp.
b. Nội dung giao tiếp là hiện thực, thực tế khách quan được các nhân vật giao
tiếp đưa vào cuộc giao tiếp. Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: nói (viết) về cái gì?
c. Hoàn cảnh giao tiếp được hiểu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hoàn cảnh giao
tiếp rộng bao gồm toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên (địa lý, lãnh thổ…), hoàn cảnh xã hội
(chính trị, kinh tế, văn hoá…), hoàn cảnh lịch sử … Hoàn cảnh giao tiếp hẹp chỉ nơi
chốn cụ thể (địa điểm, thời gian, tình huống…) diễn ra cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao
tiếp trả lời cho câu hỏi: nói (viết) trong hoàn cảnh nào?
d. Phương tiện và cách thức giao tiếp. Các nhân tố giao tiếp trên đây chi phối việc
lựa chọn và và tổ chức phương tiện giao tiếp: lựa chọn đường kênh giao tiếp, lựa chọn
phương tiện ngôn ngữ, lựa chọn và tổ chức văn bản giao tiếp, lựa chọn chiến lược giao tiếp.
Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: Nói (viết) như thế nào?
đ. Đích giao tiếp là ý đồ, ý định mà các nhân vật giao tiếp đặt ra trong một cuộc
giao tiếp nhất định. Đích giao tiếp là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động giao tiếp,
nó chi phối gần như toàn bộ việc lựa chọn các yếu tố còn lại, toàn bộ cách thức tiến hành
giao tiếp. Nhân tố này trả lời cho câu hỏi: Nói (viết) để làm gì? -
Các yếu tố của hoạt động giao tiếp có ảnh hưởng qua lại, tác động
lẫn nhau và đều ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp. -
Trong các yếu tố giao tiếp, đích giao tiếp là yếu tố quan trọng nhất,
yếu tố trung tâm, bởi giao tiếp đạt được yếu tố đó thì mới gọi là giao tiếp đạt hiệu quả.
Ví dụ : Phân tích các nhân tố giao tiếp trong bài ca dao Tát nước đầu đình -
Nhân vật giao tiếp : chàng trai và cô gái -
Nội dung giao tiếp : chàng trai nhờ cô gái khâu áo và hứa hẹn trả
công khâu áo bằng những thứ lễ vật hậu hĩnh - Hoàn cảnh giao tiếp :
+ Hoàn cảnh rộng : xã hội phong kiến Việt Nam
+ Hoàn cảnh hẹp : đầu đình, cạnh hồ sen, sau buổi lao động mệt nhọc -
Phương tiện và cách thức giao tiếp : giao tiếp trực tiếp, bằng lời lOMoAR cPSD| 58504431 -
Đích giao tiếp : chàng trai ướm hỏi cô gái làm vợ -
Phương tiện giao tiếp : bằng lời, trực tiếp
Chính mục đích giao nói trên đã chi phối các nhân tố giao tiếp, từ việc lựa chọn
nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp đến cách thức và phương tiện giao tiếp.
2. Ngôn ngữ là công cụ tư duy và là phương tiện biểu đạt tư duy
2.1. Ngôn ngữ là công cụ tư duy
Ngôn ngữ tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành nhận thức và tư duy của con người.
Quá trình nhận thức của con người gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và
nhận thức lí tính. Từ những nhận thức cảm tính do các giác quan mang lại, con người
hình thành những nhận thức lí tính. Nhận thức lí tính phản ánh bản chất và quy luật sự
vật, hiện tượng, từ đó giúp con người hình thành các khái niệm. Khái niệm chứa đựng
những thuộc tính cơ bản, chung nhất của các loại đối tượng và hiện tượng và được biểu
đạt nhờ các yếu tố ngôn ngữ, các tín hiện ngôn ngữ.
Ngay cả khi hoạt động tư duy được tiến hành một cách thầm lặng (suy nghĩ),
ngôn ngữ vẫn đóng vai trò là một công cụ quan trọng. Chúng ta không thể suy nghĩ, tư
duy mà không có ngôn ngữ.
2.2. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt tư duy -
Ngôn ngữ đóng vai trò lưu trữ, bảo toàn và cố định các kết quả của nhận
thức, tư duy. Mọi kết quả của quá trình tư duy muốn thể hiện được ra ngoài, truyền đạt
đến cho người khác, lưu giữ cho thời gian sau phải nhờ đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng
vai trò ghi lại và lưu trữ các kết quả của tư duy. -
Trong mối quan hệ này, ngôn ngữ đóng vai trò là phương tiện vật chất để
thể hiện tư duy. Nhận thức và tư duy là cái được biểu đạt, còn ngôn ngữ là cái biểu đạt.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ rất chặt chẽ, có thể hình dung như hai mặt của
một tờ giấy, không thể có tư duy mà không có ngôn ngữ và ngược lại, cũng như tờ giấy
đã có mặt này ắt phải có mặt kia. 2.3. Quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy
Như đã nói ở trên, ngôn ngữ và tư duy gắn bó với nhau chặt chẽ. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người suy nghĩ được, đồng thời nhờ ngôn ngữ mà con người biểu đạt được
tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của mình. Ngôn ngữ vừa là công cụ của tư duy, vừa là cái
vỏ vật chất của tư duy. Ngôn ngữ và tư duy là một thể thống nhất nhưng không đồng
nhất. Sự không đồng nhất giữa ngôn ngữ và tư duy thể hiện ở những điểm sau: -
Ngôn ngữ tồn tại ở dạng vật chất, còn tư duy không tồn tại ở dạng vật chất.
Các đơn vị của ngôn ngữ được cảm nhận bằng các giác quan (thính giác, thị giác) và có lOMoAR cPSD| 58504431
các đặc tính vật chất như: độ cao, độ dài... Còn tư duy không có những đặc tính vật chất
như vậy, tư duy không cảm nhận được bằng các giác quan. -
Ngôn ngữ mang tính dân tộc, còn tư duy có tính nhân loại. Mọi người trên
trái đất suy nghĩ đều theo những quy luật chung. Nhưng cách thức thể hiện tư duy bằng
ngôn ngữ ở mỗi dân tộc khác nhau. Tư duy hoạt động đòi hỏi phải hợp lý, lôgic; trong
khi đó ngôn ngữ hoạt động theo thói quen được cộng đồng chấp nhận. Nói cách khác,
trong ngôn ngữ cái lôgic mà không được thói quen cộng đồng chấp nhận thì cũng không
có giá trị; ngược lại, cái phi lôgic nhưng được cộng đồng chấp nhận thì vẫn dùng được
bình thường. Ví dụ, trong tiếng Việt các tổ hợp từ: đẹp kinh khủng, đẹp chết người ...
nghe có vẻ phi lôgíc nhưng mọi người vẫn chấp nhận và dùng bình thường. Như vậy,
ngôn ngữ có quy luật riêng khác với quy luật tư duy. -
Đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ; trong khi đó các đơn vị của tư
duy là khái niệm, phán đoán và suy lí. Có thể thấy sự tương ứng giữa khái niệm với từ,
phán đoán với câu (khái niệm được biểu thị bằng từ, phán đoán được biểu thị bằng câu).
Song, chúng không tương ứng nhau hoàn toàn, giữa chúng có những khác nhau đáng
kể. Một khái niệm có thể được biểu thị bằng nhiều từ khác nhau (hiện tượng đồng nghĩa);
một hình thức ngữ âm có thể biểu thị nhiều khái niệm khác nhau (hiện tượng nhiều
nghĩa, đồng âm); có những từ không biểu thị khái niệm như: ối, ái, tôi, ta, tớ,v.v... Tương
tự như vậy trong quan hệ phán đoán và câu, trong thực tế có nhiều câu không phải là
phán đoán. Chẳng hạn như các câu nghi vấn, câu cầu khiến, lời gọi,v.v...
Trên đây là hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ đối với con người và xã hội loài
người. Hai chức năng này không độc lập, tách rời nhau mà phối hợp với nhau, có quan hệ qua lại với nhau.
3. Các chức năng khác
3.1 Chức năng làm chất liệu và phương tiện của nghệ thuật văn chương
Loại hình nghệ thuật này đã sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu và qua sự lựa chọn
trau chuốt mà đạt đến một trình độ nghệ thuật cao.
Ví dụ: Bằng ngôn từ, tác giả dân gian đã miêu tả một bức tranh lao động tuyệt
đẹp vào một đêm trăng:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Bức tranh ấy được xây dựng bằng những tín hiệu ngôn ngữ. Đó là những từ ngữ
được sử dụng quen thuộc trong đời sống giao tiếp hàng ngày lOMoAR cPSD| 58504431
3.2 Chức năng siêu ngôn ngữ
Chức năng này thể hiện ở chỗ: ngôn ngữ được dùng làm phương tiện để nói về chính nó. Ví dụ:
Sen d. Cây mọc ở nước, lá to tròn, hoa màu hồng hay trắng, nhị vàng, hương thơm
nhẹ, hạt dùng để ăn: Đầm sen, mứt sen, chè ướp sen (Từ điển tiếng Việt - NXBKHXH, H.1998, tr885) lOMoAR cPSD| 58504431
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Tại sao nói ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội? Bản chất xã hội của ngôn ngữ
thể hiện cụ thể như thế nào?
2. Bản chất xã hội của ngôn ngữ có gì đặc biệt so với những hiện tượng xã hội khác?
3. Hãy chứng minh ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người.
4. Hãy phân tích mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy.
5. Bàn về bản chất xã hội của ngôn ngữ, Mác và Ăng ghen trong cuốn “Hệ tư tưởng
Đức” viết: “… Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả
những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; và
cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với
người khác”. Dựa vào những hiểu biết của mình, anh (chị) hãy phân tích làm sáng tỏ nhận định trên. lOMoAR cPSD| 58504431 BÀI 2
NGÔN NGỮ LÀ MỘT HỆ THỐNG TÍN HIỆU
I. BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ
1. Khái niệm tín hiệu
1.1. Định nghĩa tín hiệu
Ví dụ: để báo giờ học, người ta có thể dùng tiếng chuông. Tiếng chuông là yếu tố
vật chất mà ta có thể cảm nhận được bằng thính giác. Nghe đúng tiếng chuông (3 tiếng
chẳng hạn) là sinh viên biết giờ vào lớp. Tiếng chuông và giờ học là hai sự vật khác
nhau nhưng tiếng chuông đã được dùng để báo giờ học. Vì vậy, tiếng chuông chính là một tín hiệu.
Vậy tín hiệu là gì? Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện
tượng) kích thích vào giác quan con người, làm cho con người tri giác được và lí giải,
suy diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật đó.
Định nghĩa trên cho thấy, một vật muốn là tín hiệu phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: -
Phải là một dạng vật chất (con người cảm nhận được bằng các giác quan) -
Phải gợi ra một cái gì đó không phải là thuộc tính, bản chất, chức năng tự
nhiên của nó. Ví dụ một cái khăn mùi xoa, tức đáp ứng được yêu cầu thứ nhất, nhưng
nếu nó dùng để lau mặt, lau tay (chức năng của khăn) thì nó không mang bản chất tín
hiệu, nhưng nếu có hai hoặc hơn hai bạn nào đó quy ước với nhau rằng: khi nào tớ treo
khăn trên cửa sổ là khi đó tớ bận không ra chơi được, chẳng hạn, thì khi đó khăn mùi
xoa được dùng như một tín hiệu.
Hai mặt của tín hiệu như vậy được gọi là cái biểu đạt (CBĐ) và cái được biểu đạt
(CĐBĐ). CBĐ luôn luôn là yếu tố vật chất, CĐBĐ thuộc phạm trù tinh thần. -
Mối quan hệ giữa hai mặt trên đây phải được con người nhận thức như là haimặt của tín hiệu. -
Một vật nào đó chỉ trở thành tín hiệu khi nó nằm trong một hệ thống
nhấtđịnh. Khi không nằm trong hệ thống đó, vật ấy có thể không còn là tín hiệu nữa. Ví
dụ : cái đèn đỏ khi nằm trong hệ thống đèn giao thông thì nó có giá trị là một tín hiệu,
khi nó nằm trong chùm đèn trang trí thì không còn là tín hiệu nữa.
1.2 Phân loại tín hiệu
Việc phân loại tín hiệu có thể dựa theo những tiêu chí khác nhau. lOMoAR cPSD| 58504431
- Căn cứ vào đặc điểm vật lí của CBĐ trong tín hiệu thì ta có tín hiệu thị giác,tín
hiệu thính giác, tín hiệu xúc giác, vị giác…
- Căn cứ vào nguồn gốc, có thể phân biệt tín hiệu tự nhiên và tín hiệu nhân tạo.+
Tín hiệu tự nhiên là tín hiệu mà quan hệ giữa hai mặt có tính tự nhiên, tất yếu. Ví dụ :
mây đen dày đặc báo hiệu có mưa.
+ Tín hiệu nhân tạo là những tín hiệu mà quan hệ giữa hai mặt là do con người
quy ước. Ví dụ : tấm bản đồ Việt Nam được dùng để biểu hiện cho lãnh thổ, cho đất nước Việt Nam.
- Căn cứ vào tính chất của mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu mà phân biệt :
+ Các dấu hiệu: đó là những tín hiệu mà CBĐ của nó thực chất là một bộ phận
hoặc một thuộc tính cấu thành của CĐBĐ. Ví dụ: dấu chân người trên cát.
+ Các hình hiệu: là những tín hiệu được tạo ra theo kiểu mô phỏng, lấy cái này
biểu đạt cho cái kia. Ví dụ: bức vẽ chân dung một ai đó và bản thân người đó; trong
ngôn ngữ lớp từ tượng thanh cũng có tính chất hình hiệu.
+ Các ước hiệu : là những tín hiệu mà mối quan hệ giữa hai mặt là hoàn toàn do
con người quy ước, thỏa thuận. Ví dụ : đèn giao thông, tiếng kẻng báo giờ học.
Tuyệt đại đa số các tín hiệu ngôn ngữ là các ước hiệu.
2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
Tín hiệu ngôn ngữ mang những đặc điểm bản chất của tín hiệu nói chung đồng
thời có những đặc trưng khác biệt.
2.1 Đặc trưng chung
- Như mọi tín hiệu khác, tín hiệu ngôn ngữ có tính hai mặt: mặt biểu đạt (còn lại
gọi là mặt biểu hiện - hình thức) và mặt được biểu đạt (mặt được biểu hiện - nội dung).
Mặt biểu đạt là hình thức, thuộc tính vật chất bên ngoài của tín hiệu, ví dụ các màu đỏ,
vàng, xanh của đèn giao thông; âm thanh của tiếng chuông, trống báo giờ học
v.v... Mặt được biểu đạt là nội dung mà tín hiệu biểu thị, ví dụ như yêu cầu dừng lại,
chuẩn bị và được đi mà các màu đỏ, vàng, xanh của hệ thống đèn giao thông biểu thị;
hoặc nội dung bắt đầu hay kết thúc giờ học của tiếng chuông, trống… MẶT BIỂU ĐẠT hình thức MẶT ĐƯỢC BIỂU ĐẠT nội dung
Đối với tín hiệu ngôn ngữ: mặt biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh mà
con người có thể nghe được (hoặc nhìn thấy khi viết), còn mặt được biểu đạt là nội dung lOMoAR cPSD| 58504431
ý nghĩa. Hai mặt của tín hiệu luôn gắn bó khăng khít với nhau như hai mặt của một tờ giấy.
Ví dụ, chúng ta có từ bàn, quan hệ giữa các mặt biểu đạt và được biểu đạt của từ
bàn có thể được trình bày một cách đơn giản như sau:
Mặt biểu đạt (hình thức âm thanh): BÀN
Mặt được biểu đạt (nội dung ý nghĩa): đồ
dùng có mặt phẳng được kê cao hơn mặt
nền bằng chân, thường làm bằng gỗ hoặc
bằng sắt để đặt đồ ăn hoặc để làm việc.

2.2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
Tính võ đoán: Mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu không phải là mối quan hệ
có lí do, có tính tất yếu, mà là mối quan hệ do con người thỏa thuận, quy ước với nhau.
Mối quan hệ này khiến ta không thể giải thích được vì sao một âm thanh lại được dùng
để biểu hiện một ý nghĩa nào đó. Chẳng hạn, không thể giải thích vì sao trong tiếng Việt
‘hoạt động dời chỗ bằng chân với tốc độ bình thường’ lại gọi là đi.
Tuy vậy, trong ngôn ngữ có thể có một số tín hiệu có tính võ đoán thấp hơn, nghĩa
là quan hệ giữa âm thanh và ý nghĩa của tín hiệu có một phần lí do nào đó. Đó là các trường hợp sau :
- Từ tượng thanh, ví dụ : meo meo, đùng đoàng, róc rách…
- Thán từ : ái, ối, ôi…
- Các từ được cấu tạo phái sinh. Ví dụ: xe đạp là võ đoán, nhưng khi
ghép chúng lại với nhau để tạo nên từ xe đạp thì từ này tính có lí do rất rõ.
- Các nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển), ví dụ : lá cây, lá gan, lá thư… - Tên riêng
Tuy có những trường hợp trên đây nhưng nguyên lí về tính võ đoán của tín hiệu
ngôn ngữ vẫn là nguyên lí cơ bản, giúp bảo vệ sự ổn định của ngôn ngữ, chống lại các
sự xâm nhập nhằm làm thay đổi nó. Đồng thời, đó là điều kiện để diễn ra sự biến đổi
trong quan hệ giữa hai mặt CBĐ và CĐBĐ của tín hiệu ngôn ngữ.
Tính hình tuyến của các tín hiệu ngôn ngữ. Trong thực tế sử dụng, các âm thanh
ngôn ngữ diễn ra lần lượt, kế tiếp nhau trong thời gian. Nói cách khác, các tín hiệu ngôn
ngữ có tính hình tuyến. Khi sử dụng, các tín hiệu ngôn ngữ xuất hiện lần lượt, cái này
tiếp nối sau cái kia, làm thành một chuỗi. Tính hình tuyến của các tín hiệu ngôn ngữ thể lOMoAR cPSD| 58504431
hiện rõ, khi chúng ta ghi lại chúng bằng chữ viết (dùng tuyến không gian của tín hiệu
văn tự thay thế cho sự kế tiếp trong thời gian). Ví dụ: Chào - bác - ạ.
Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ. Khác với các tín hiệu khác (mỗi hình thức tín
hiệu thường chỉ biểu thị một nội dung), các tín hiệu của ngôn ngữ có tính đa trị. Nghĩa
là, có thể có các trường hợp:
- Một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhiều nội dung khác nhau, như trường hợp
các từ nhiều nghĩa, các từ đồng âm;
- Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị một nội dung, như trường hợp các từ đồng nghĩa;
- Nội dung của mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài phần hiện thực khách quan,
còn cóthể gợi ra những tình cảm, cảm xúc, thái độ, cách đánh giá... đối với sự vật,
hiện tượng (gọi là phần nghĩa biểu cảm). Ví dụ, xét các tín hiệu đồng nghĩa sau: chết,
hi sinh, từ trần, ngoẻo, toi... các tín hiệu này, tuy cùng chỉ một trạng thái (mất khả
năng sống, không còn biểu hiện của sự sống), nhưng giữa chúng có sự khác nhau về
phần tình cảm, cách đánh giá của con người.
Tính năng sản. Các tín hiệu ngôn ngữ luôn tiềm tàng những khả năng sản sinh
ra các tín hiệu mới từ những tín hiệu ban đầu. Ví dụ :
Lá  lá gan, lá thư, lá cờ, lá bài, lá phiếu,…
Xe + đạp  xe đạp  xe (đạp) mi ni, xe (đạp) mi pha, xe (đạp) phượng hoàng, xe
(đạp) ét ka, xe đạp điện,…  xe (đạp) mi ni Nhật, xe (đạp) mi ni Tàu…
Tính phức tạp, nhiều tầng bậc. Trước hết, hệ thống ngôn ngữ bao gồm số lượng
đơn vị rất lớn, khó có thể thống kê hết số lượng từ, số lượng câu trong một ngôn ngữ.
Mặt khác, bên cạnh các tín hiệu đồng loại còn tồn tại các đơn vị khác loại, đó là các
đơn vị của ngôn ngữ thuộc nhiều cấp độ khác nhau có quan hệ cấp bậc (tức các đơn vị
bậc thấp nằm trong những đơn vị bậc cao, những đơn vị bậc cao bao hàm những đơn vị
bậc thấp). Do vậy, hệ thống ngôn ngữ là hệ thống của các hệ thống (hệ thống âm vị, hình vị, từ, câu…)
Tính độc lập tương đối của các tín hiệu ngôn ngữ. Các tín hiệu khác có thể bị
thay đổi bởi ý chí của con người, chẳng hạn, do một yêu cầu nào đó để biểu thị sự dừng
lại, con người có thể dùng một màu đen để thay thế màu đỏ hiện nay, trong khi đó, các
tín hiệu ngôn ngữ có tính độc lập tương đối. Ta không thể ngày một ngày hai thay đổi
tên gọi của một sự vật bằng một tên gọi khác. lOMoAR cPSD| 58504431
II. TỔ CHỨC HỆ THỐNG CỦA NGÔN NGỮ
1. Khái niệm hệ thống
1.1. Hệ thống là một tổng thể các yếu tố có quan hệ qua lại, quy định lẫn nhau.
Ví dụ : hệ thống đèn giao thông, hệ thống tuần hoàn trong cơ thể người, hệ thống hành chính,…
Định nghĩa này cho thấy, muốn là hệ thống, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Điều kiện cần: Phải là tập hợp các yếu tố.
- Điều kiện đủ: Các yếu tố không phải đứng rời rạc, riêng rẽ mà phải được
tổ chức chặt chẽ, sắp xếp theo một trật tự nhất định, có quan hệ qua lại, quy định lẫn nhau.
Ví dụ, các dãy bàn ghế kê trong lớp thỏa mãn điều kiện thứ nhất của tín hiệu
nhưng giữa những cái bàn không hề có mối quan hệ nào, do vậy chúng không tạo thành
hệ thống. Ngược lại hệ thống đèn đường giao thông gồm ba màu: đỏ, vàng, xanh được
tổ chức, sắp xếp theo những quan hệ nhất định, nếu thay đổi thì hệ thống cũng bị thay
đổi, ta nói, các tín hiệu giao thông tạo thành hệ thống. 1.2
Trong hệ thống, yếu tố là phần tử tạo nên hệ thống. Có những hệ thống
bao gồm nhiều yếu tố. Trong những hệ thống lớn lại có thể có nhiều hệ thống nhỏ, mỗi
hệ thống nhỏ là một yếu tố trực tiếp tạo nên hệ thống lớn. Nói cách khác trong một hệ
thống lớn bao hàm nhiều cấp độ tổ chức. Một phần tử nào đó vừa có thể là yếu tố tạo
nên hệ thống lớn hơn, vừa có thể là một hệ thống nhỏ bao gồm nhiều yếu tố nhỏ hơn.
Ví dụ : Hệ thống tổ chức hành chính: quốc gia - tỉnh - huyện - thôn - xã - xóm
Xét cấp độ huyện: huyện vừa là một yếu tố tạo nên hệ thống hành chính tỉnh, lại
vừa là một hệ thống bao gồm những yếu tố nhỏ hơn, đó là các xã. 1.3
Quan hệ giữa các yếu tố tạo thành cấu trúc (kết cấu) của hệ thống. Cấu
trúc của hệ thống chính là mạng lưới các mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống đó.
Cấu trúc này luôn tồn tại trong một hệ thống nhất định và là cấu trúc của một hệ thống
nhất định. Người ta có thể hiện thực hóa cấu trúc của hệ thống bằng sơ đồ, mô hình, bảng biểu. 1.4
Tính đa hệ thống của yếu tố. Các yếu tố tồn tại trong hệ thống luôn bị chi
phối bởi những mối quan hệ nhất định. Một yếu tố nào đó có thể tồn tại với nhiều thuộc
tính khác nhau và tuỳ theo các thuộc tính đó mà có thể tham gia vào nhiều hệ thống khác
nhau. Ví dụ, một người khi ở nhà thì có tư cách là con, là cha, ông, là anh, em... tuỳ
trong mối quan hệ với ai - bố, con, cháu hay em, anh... và cũng người đó khi tham gia lOMoAR cPSD| 58504431
vào các hệ thống xã hội thì lại có những tư cách khác nhau như: thủ trưởng, nhân viên v.v... 1.5
Chức năng và giá trị của yếu tố trong hệ thống. Nằm trong một hệ thống,
các yếu tố luôn luôn có một giá trị nhất định. Giá trị của mỗi yếu tố được xác định trong
một hệ thống nhất định và là giá trị trong hệ thống ấy. Nếu cũng yếu tố ấy nhưng nằm
trong hệ thống khác thì sẽ có giá trị khác.
Ví dụ trong hệ thống gia đình: Một cá nhân X có thể trong quan hệ với Y là bố,
nhưng trong quan hệ với Z là con, với K là cháu, với H là ông v.v...
Giá trị của mỗi yếu tố trong hệ thống vừa được xác định bởi những thuộc tính
của bản thân yếu tố đó, vừa được quy định bởi mối tương quan với các yếu tố khác trong hệ thống.
Tóm lại, hệ thống với tư cách là một tổng thể khác với tập hợp ngẫu nhiên các
yếu tố. Một mặt, hệ thống không đơn thuần là tổng các yếu tố, bởi các yếu tố trong hệ
thống không phân bổ cạnh nhau mà nằm trong các quan hệ phụ thuộc và đối lập rất đa
dạng. Mặt khác, các yếu tố với tư cách là thành viên của hệ thống không giống với các
yếu tố được tách riêng rẽ, mặc dù chúng có thể giống nhau về hình thức vật chất. Trong
hệ thống, mỗi yếu tố bên cạnh những thuộc tính của mình, còn được bổ sung các giá trị
có được do quan hệ với các yếu tố khác.
2. Hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ.
2.1. Các đơn vị của ngôn ngữ a. Âm vị
Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà ta có thể phân tách ra được trong lời nói. Ví
dụ : tổ hợp âm thanh bàn mà ta nghe được có thể phân tách thành ba âm vị /b/, /a/, /n/
mà không thể phân tách nhỏ hơn được nữa. -
Chức năng cơ bản của âm vị : tạo vỏ âm thanh cho những đơn vị lớn hơn và phân biệt nghĩa. -
Toàn bộ các âm vị của một ngôn ngữ tạo nên hệ thống âm vị. Hệ thống
này làmột cấp độ trong hệ thống ngôn ngữ - cấp độ âm vị. Đến lượt mình, hệ thống âm
vị lại bao gồm nhiều hệ thống bộ phận. Trước hết, có thể phân tách thành hai hệ thống :
âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính. Âm vị đoạn tính lại được tách thành âm vị
nguyên âm và âm vị phụ âm. Mỗi hệ thống đó lại bao gồm một số hệ thống nhỏ căn cứ
vào những nét khu biệt của âm vị. b. Hình vị lOMoAR cPSD| 58504431 -
Hình vị là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều âm vị, hình vị là đơn vị
nhỏ nhất mang nghĩa dùng để cấu tạo từ và biến đổi từ.
Ví dụ : mỗi từ sau đây đều gồm hai hình vị : Tổ quốc, xe đạp, làm lụng… -
Chức năng của hình vị là chức năng cấu tạo từ hoặc biến đổi từ trong các
ngôn ngữ biến hình. Ví dụ:
+ Từ các hình vị: teacher cấu tạo nên từ teacher (giáo viên) trong tiếng Anh.
+ Từ các hình vị: quốcgia cấu tạo nên từ quốc gia trong tiếng Việt.
Trong các ngôn ngữ biến hình (như tiếng Nga, Anh, Pháp...) hình vị còn có chức năng ngữ pháp. Ví dụ:
+ Từ các hình vị: doma tạo nên dạng thức doma (nhà - cách hai số ít) trong tiếng Nga.
+ Từ các hình vị: played tạo nên dạng thức played (chơi - thời quá khứ của
động từ) trong tiếng Anh v.v...
Toàn bộ các hình vị tạo nên một hệ thống và một cấp độ - cấp độ hình vị. Hệ
thống hình vị của mỗi ngôn ngữ có số lượng yếu tố lớn hơn hệ thống âm vị (hàng ngàn
đơn vị). Song hệ thống này lại được chia tách thành nhiều hệ thống nhỏ hơn. c. Từ -
Từ là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều hình vị, từ là đơn vị độc lập
có nghĩa và (hoặc) có chức năng ngữ pháp (khác với hình vị là đơn vị có nghĩa nhưng
không độc lập, hình vị luôn tồn tại trong từ). -
Chức năng của từ là chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng trong thực
tế (định danh) và dùng để tạo câu. Từ là đơn vị có nghĩa nhỏ nhất cấu tạo nên câu. Nghĩa
là không có đơn vị nào nhỏ hơn từ có nghĩa mà có thể dùng trực tiếp để tạo nên câu. -
Hệ thống từ vựng lại bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn, vì từ có nhiều bìnhdiện.
+ Xét về mặt cấu tạo: từ đơn, từ láy, từ ghép
+ Xét về đặc điểm ngữ pháp: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ…
+ Xét về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, trường
nghĩa + Xét về phạm vi sử dụng: từ toàn dân, từ địa phương,… d. Câu: -
Là một chuỗi kết hợp gồm một hoặc nhiều từ. -
Chức năng của câu là chức năng thông báo. Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất. lOMoAR cPSD| 58504431 -
Câu là đơn vị không có sẵn trong hệ thống ngôn ngữ mà nó được tạo ra
từhoạt động giao tiếp cụ thể, vì thế câu có số lượng vô hạn. Tuy vậy, chúng vẫn nằm
trong những hệ thống nhất định.
Xét về cấu tạo: câu đơn, câu ghép, câu phức
Xét theo mục đích phát ngôn: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán, e. Văn bản
Văn bản là đơn vị ngôn ngữ thực hiện chức năng thông báo trọn vẹn. Chúng có
số lượng vô hạn. 2.2. Các quan hệ chủ yếu
Như trên đã giới thiệu, ngôn ngữ có năm đơn vị cơ bản: âm vị, hình vị, từ, câu,
văn bản. Mỗi đơn vị này lại là một tiểu hệ thống bao gồm những đơn vị cùng loại và
được đặc trưng bởi cấu trúc riêng. Do vậy, có thể thấy ngôn ngữ là một hệ thống hết sức
phức tạp. Nó là hệ thống của các hệ thống. Các quan hệ thường gặp trong ngôn ngữ là:
a. Quan hệ đồng nhất và đối lập -
Quan hệ đồng nhất là quan hệ giống nhau giữa các yếu tố (đơn vị) ngôn
ngữvề một phương diện nào đó. Sự giống nhau đó là cơ sở để tập hợp các yếu tố vào
cùng một loại, một hệ thống nhỏ hơn. Ví dụ :
+ Các yếu tố /a/, /i/, /e/, /... đều đồng nhất với nhau là các đơn vị ngữ âm nhỏ
nhất và đồng nhất ở các chức năng khu biệt nghĩa, nên chúng được gọi chung là các âm vị.
+ Các từ lênh khênh, lim dim… đồng nhất với nhau về cấu tạo: chúng đều là từ láy vần
+ Các từ nấu, nướng, kho, luộc, xào, ninh, hấp… đồng nhất với nhau về nghĩa:
chỉ hoạt động làm chín thức ăn -
Quan hệ đối lập là quan hệ giữa các yếu tố khác biệt nhau về một phương
diệnnào đó. Sự khác biệt trên cùng một phương diện, một tiêu chí tạo nên sự đối lập. Ví dụ :
Nguyên âm /a//i/ đối lập nhau về độ mở : /a/ độ mở miệng rộng ; /i/ độ mở miệng hẹp
b. Quan hệ thứ bậc (còn gọi là quan hệ cấp độ).
- Quan hệ thứ bậc thể hiện ra ở hai bình diện là quan hệ nằm trong và quan hệ
bao hàm. Phân tích các đơn vị ngôn ngữ ta thấy giữa các đơn vị này có sự sắp xếp theo
tôn ti, trật tự. Các đơn vị cấp thấp nằm trong các đơn vị cấp trên, các đơn vị cấp trên bao lOMoAR cPSD| 58504431
hàm các đơn vị cấp dưới. Âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong
câu; và ngược lại, câu bao gồm từ, từ bao gồm hình vị, hình vị bao gồm âm vị.
Phân tích một câu để thấy rõ điều đó: Nó đi học bằng xe đạp.
Câu Nó đi học bằng xe đạp bao gồm năm từ: nó, đi, học, bằng, xe đạp. Mỗi từ
nó, đi, học, bằng có cấu tạo gồm một hình vị, riêng từ xe đạp có cấu tạo gồm hai hình
vị xeđạp. Các hình vị này lại được tạo nên từ các âm vị: /n/, / / /d/, /i/, /h/, v.v...ɔ
c. Quan hệ tuyến tính ( còn gọi là quan hệ ngang, quan hệ ngữ đoạn). -
Quan hệ tuyến tính là quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ khi chúng xuất
hiện lần lượt, kế tiếp nhau trên tuyến thời gian. -
Là quan hệ giữa các đơn vị cùng loại (âm vị với âm vị, hình vị với hình
vị, từ với từ...). Ví dụ:
Trong câu: Nó đi học bằng xe đạp. Các âm vị /n/, / / /d/, /i/, /h/, /k /, v.v... cóɔ
quan hệ tuyến tính với nhau. Các hình vị xe đạp có quan hệ tuyến tính với nhau.
Các từ nó, đi, học, bằng, xe đạp có quan hệ tuyến tính với nhau.
d. Quan hệ đối vị ( còn gọi là quan hệ dọc, quan hệ hình, quan hệ liên tưởng). Ví dụ: Tôi ăn cơm hút thuốc Bố uống bia
Chuỗi các từ: tôi, nó, bố,... chuỗi các từ: ăn, hút, uống ... chuỗi các từ: cơm,
thuốc, bia... tạo thành các nhóm từ có quan hệ đối vị.
Quan hệ đối vị là quan hệ giữa các yếu tố có thể thay thế cho nhau trong cùng
một vị trí của chuỗi lời nói. Giống như quan hệ tuyến tính, quan hệ đối vị là quan hệ
giữa các yếu tố đồng loại ( âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ...).
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1.
Tín hiệu là gì? Có thể phân loại tín hiệu như thế nào? 2.
Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ được thể hiện ở những đặc điểm nào?
Bằng ví dụ minh họa, hãy chỉ rõ tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có điểm gì giống
và khác so với các tín hiệu khác? 3.
Giải thích rõ các đặc trưng tính võ đoán, tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ. Cho ví dụ minh họa 4.
Hệ thống là gì? Những nhân tố nào tạo nên hệ thống? lOMoAR cPSD| 58504431 5.
Vì sao nói ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu? 6.
Trình bày những quan hệ cơ bản trong hệ thống ngôn ngữ? Vì sao nói
ngôn ngữ là hệ thống của các hệ thống? 7.
Phân tích quan hệ đồng nhất và đối lập trong một nhóm từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa:
- Nấu, nướng, kho, luộc, xào, ninh, rán, hấp
- Đào, bới, moi, móc
- Cắt, chặt, xén, rọc, bổ, thái, cưa - Dừng, ngừng
8. Xác lập quan hệ liên tưởng của các từ đang, làm trong câu sau:
Chúng tôi đang làm bài tập.
Phân tích nét đồng nhất và đối lập của các từ trong cùng một nhóm liên tưởng. BÀI 3
NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ
I. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC CỦA NGÔN NGỮ
Nói đến nguồn gốc ngôn ngữ là nói đến nguồn gốc của ngôn ngữ loài người nói
chung mà không phải là nguồn gốc của một ngôn ngữ cụ thể nào. Tìm hiểu nguồn gốc
của ngôn ngữ loài người tức là xem xét loài người đã sáng tạo ra ngôn ngữ như thế nào,
loài người bắt đầu nói chuyện với nhau, bắt đầu dùng công cụ giao tiếp quan trọng nhất,
công cụ để thể hiện tư duy như thế nào.
Vấn đề về nguồn gốc ngôn ngữ là một vấn đề lớn của cả Triết học và Ngôn ngữ
học và được xã hội luôn quan tâm. Từ thời xa xưa con người đã suy nghĩ về nguồn gốc
của ngôn ngữ và đã tồn tại khá nhiều giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ của con người.
Các giả thuyết này ra đời chịu ảnh hưởng chính của khuynh hướng chủ đạo trong ý thức
xã hội ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
1. Một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ loài người
1.1 Thuyết Tượng thanh -
Thuyết này cho rằng, ngôn ngữ của loài người là sự bắt chước những
âmthanh của thế giới bao quanh con người và dùng những đặc điểm của âm thanh con
người để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan. -
Quan niệm phổ biến cho rằng con người dùng âm thanh ngôn ngữ để
môphỏng âm thanh trong thực tế khách quan và tạo nên các từ tượng thanh. Ví dụ: các
từ mèo, lộp độp,… trong tiếng Việt. Tuy nhiên, các từ tượng thanh chỉ chiếm số lượng ít lOMoAR cPSD| 58504431
trong hệ thống từ vựng và không đóng vai trò quan trọng trong việc biểu hiện nhận thức,
tư tưởng, tình cảm của con người.
1.2 Thuyết Cảm thán -
Theo thuyết này, ngôn ngữ của loài người bắt nguồn từ những âm thanh
bộc lộtrạng thái cảm xúc vui mừng, giận dữ, đau buồn, sung sướng… Chẳng hạn, các từ
ái, ối, ôi, chao ôi… trong tiếng Việt. -
Tuy nhiên, các từ bộc lộ trạng thái cảm xúc của con người trong mọi ngôn
ngữđều chiếm số lượng rất ít. Hơn thế, chức năng của ngôn ngữ không chỉ biểu hiện
trong một phạm vi hẹp gắn với việc bộc lộ cảm xúc mà nó còn thực hiện những chức
năng trọng đại hơn thế.
1.3 Thuyết Tiếng kêu trong lao động
- Thuyết này cho rằng, ngôn ngữ đã xuất hiện từ những tiếng kêu của con người
trong lao động tập thể: hoặc tiếng kêu phát ra do những cố gắng cơ bắp cùng chung kích
thích, hoặc theo nhịp điệu lao động… Tuy nhiên, tiếng kêu trong lao động chỉ là cơ sở
cho sự hình thành một bộ phận nhỏ trong thành phần từ vựng của ngôn ngữ, không thể
là nguồn gốc chân chính cho sự nảy sinh một hệ thống tín hiệu phức tạp trong ngôn ngữ
loài người. 1.4. Thuyết Khế ước xã hội
Theo thuyết này, ngôn ngữ là do con người thảo luận với nhau mà hình thành
nên. Song muốn có khế ước xã hội để tạo ra ngôn ngữ thì cần phải có ngôn ngữ trước.
Đó là một điều luẩn quẩn, phi lí.
1.5. Thuyết Ngôn ngữ cử chỉ
Thuyết này cho rằng, ban đầu con người chưa có ngôn ngữ âm thanh để giao tiếp
với nhau nên người ta dùng cử chỉ, điệu bộ, tư thế của thân thể để thể hiện ý tưởng. Tuy
nhiên, cử chỉ, điệu bộ là những tín hiệu đơn giản hơn rất nhiều so với ngôn ngữ âm thanh
nên không thể cho rằng ngôn ngữ cử chỉ là nguồn gốc của ngôn ngữ âm thanh.
Tất cả những giả thuyết trên đây đều không giải thích được nguồn gốc nảy sinh
của ngôn ngữ loài người. Các giả thuyết đó chưa đi vào bản chất con người và xã hội
loài người, chưa thấy sự khác biệt về chất của con người, một loài động vật bậc cao.
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của ngôn ngữ
Như trên đã thấy, ngôn ngữ mang bản chất xã hội và thực hiện những chức năng
xã hội. Nó hình thành và phát triển do nhu cầu của xã hội và đáp ứng những hoạt động
xã hội của con người. Nó hình thành cùng với sự hình thành của con người xã hội. Đó
là cách nhìn nhận về nguồn gốc của ngôn ngữ theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật.