










Preview text:
lOMoAR cPSD| 58504431 I. Chữ Nôm 1.Nguồn gốc
Chữ Nôm được hình thành vào khoảng thế kỉ thứ VIII-IX và được định
hình vào khoảng thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XII, khi nước nhà đã bước
vào kỉ nguyên độc lập tự chủ dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. 2. Lịch sử
- Chữ Nôm có lịch sử tồn tại khoảng 1000 năm - Có các giai đoạn sau
+ Thời kì Nôm tiền cổ( thế kỉ X-XII): là thời kỳ chữ Nôm tồn tại như là
một hệ thống văn tự với quy cách cấu trúc đa dạng. Đặc điểm chú ý về
chữ Nôm giai đoạn này đó là sự định hình hệ thống văn tự từ bối cảnh
dịch thuật kinh tạng Phật giáo.
+ Thời kì chữ Nôm cổ( tk XIII-XV) là thời kì chữ Nôm dung để ghi tiếng
Việt cổ.Giai đoạn này còn giữ được một số văn bản như Cư trần lạc đạo phú
Đắc phú lâm thuyền thành đạo ca
Của hoàng đế Trần Nhân Tông-Trúc Lâm đệ nhất tổ
+ Thời kì chữ Nôm cổ trung đại(tk XVI-XVII) là thời kì chữ Nôm được
dung để ghi tiếng việt cổ- trung đại. Một số tác phẩm còn lại đến nay: lOMoAR cPSD| 58504431
(Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm)
+ Thời kì chữ Nôm trung đại(tk XVIII-XIX) là thời kì dung chữ nôm để ghi
tiếng việt trung đại. Đây là giai đoạn đỉnh cao của chữ Nôm. Giai đoạn
này với những văn bản chữ Nôm còn lại nhiều nhất. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Cung oán ngâm khúc
Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm của Nguyễn Gia Thiều
+ Thời kì chữ Nôm cận đại: từ 1900-1945 được dùng để ghi tiếng việt
cận đại. Đây là thời kì nối tiếp giai đoạn cực thịnh của chữ Nôm trước đó
3.Các cách cấu tạo nên chữ Nôm
1. Mượn nguyên chữ Hán để làm chữ Nôm
- Chữ vay mượn được dùng cả âm lẫn nghĩa của chữ Hán:
Âm Hán Việt có 3 loại là: lOMoAR cPSD| 58504431
· Âm Hán Việt tiêu chuẩn: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường.
Ví dụ: “ông” 翁, “bà” 婆
· Âm Hán Việt cổ: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường.
Ví dụ: “mùa” 務 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “vụ”),
· Âm Hán Việt Việt hoá: là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc
do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt.
Ví dụ: “ghế” 几 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”).
- Chữ vay mượn chỉ dung một mặt âm hoặc mặt nghĩa:
+ Mượn âm nhưng không mượn nghĩa: Những chữ này được đọc theo
âm Hán của nó, nhưng nghĩa lại được hiểu theo nghĩa tiếng việt
VD: Chữ đâu 兜 là một thứ Mũ trụ đội lúc ra trận ngày xưa, thường
gọi là “đâu mâu” 兜鍪. Nhưng trong âm Nôm “đâu” lại có nghĩa “nơi đâu”, “ở đâu”
chữ "tốt" 卒 có nghĩa là "binh lính" được mượn dùng để ghi từ "tốt" trong "tốt xấu"
+ Lấy nghĩa Hán đọc âm Nôm: Lấy chữ Hán biểu thị
nghĩa của từ, rồi đọc từ đó theo âm Nôm
Vd: chữ “thiên” 天 có nghĩa là trời, ở một số bài thơ phải đọc là trời mới đúng vần
chữ "năng" 能 có nghĩa là "có tài, có năng lực" được dùng để ghi lại từ
"hay" trong "văn hay chữ tốt".
2. Mượn các yếu tố có sẵn của chữ hán đem lắp ghép lại để tạo ra chữ Nôm: lOMoAR cPSD| 58504431
- Cả hai yếu tố trong cấu tạo chữ đều ghi âm (một yếu tố ghi âm
đầu, một yếu tố ghi phần còn lại theo kiểu phiên thiets của chữ hán)
· VD: "mlời" 𠅜 : "Mlời" hiện nay đã biến đổi thành "lời, nhời" ("lời"
trong "lời nói"). Chữ "mlời" 𠅜 được cấu thành từ chữ "ma" 麻 (bị tỉnh
lược thành "亠") và chữ "lệ" 例. "Ma" 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất "m"
của phụ âm kép "ml", "lệ" 例 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần cửa từ "mlời".
● "sláu" 𠅜 : "sláu" hiện nay đã biến đổi thành "sáu". Chữ này được cấu thành
từ chữ "lão" và chữ "lục". "Lục" 六 là nghĩa phù, có nghĩa là "sáu". "Lão"
老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "sl" và phần vần của từ "sláu".
- Cả hai yếu tố đều chỉ nghĩa. Cả hai yếu tố trong cấu tạo chữ đều góp
phần xác định nghĩa của chữ Nôm
Chữ Nhân (人 – người) đứng trên (trùm lên) chữ
Thượng (上 – trên), tạo thành chữ trùm 𠅜 với nghĩa “người đứng
đầu cả làng thời phong kiến”
- Một yếu tố chỉ nghĩa, một yếu tố chỉ âm ( kiểu phổ biến nhất)
VD: chữ “ăn” gồm 2 yếu tố - yếu tố chỉ nghĩa-chữ khẩu và yếu tố chỉ âm-chữ an
- Mượn nguyên chữ Hán rồi them một kí hiệu phụ bên phải
dấu "cá" 亇 (bắt nguồn từ chữ "cá" 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép)
dấu nháy "𡿨 " (đặt ở bên phải chữ ghép) lOMoAR cPSD| 58504431 Nhược điểm
- Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ
Hán (do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại) nên khó
nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ.
- Cách đọc cũng có khi không thống nhất hoặc một chữ có thể có
nhiều cách đọc, cách viết, nên có người nói rằng "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán".
- Ngoài ra, việc "tam sao thất bản" là khó tránh khỏi, phần vì trình độ
người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng
không cao (chữ bị nhòe, mất nét). Ưu điểm
· - chữ Nôm là chữ biểu ý, có khả năng biểu nghĩa rõ ràng hơn, tránh
đồng âm khác nghĩa và hiểu sai nghĩa do chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu
âm (đặc biệt là tên người Việt hay địa danh ở Việt Nam). Ví dụ: "năm"
viết theo chữ Nôm có hai chữ là 𠅜 ("năm" trong
"ngày tháng năm") và 𠅜 ("năm" trong "số 5", chữ 南 (nam) gợi âm,
chữ 五 (ngũ) gợi nghĩa).
· — Khả năng viết dọc lẫn viết ngang tốt và thẳng đều Ứng với khi tự
tay viết trên giấy thì việc căn lề của chữ Nôm là dễ dàng hơn nhiều so với chữ Quốc ngữ. II. Chữ Quốc ngữ
1. Nguồn gốc chữ Quốc ngữ
- Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên (hay còn
gọi là Dòng Chúa Giêsu ) trong quá trình truyền đạo Công giáo tại
Việt Nam đầu thế kỷ 17. lOMoAR cPSD| 58504431
( Dòng Chúa Giêsu )
- Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt,
ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh.
( Francisco de Pina 1585–1625) ( là một giáo sĩ Công giáo người
Bồ Đào Nha thuộc Dòng Tên. Đến Việt Nam năm 1617, ông là người
có công trong việc sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu.)
- Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hệ thống hóa và định chế hóa chữ quốc ngữ lOMoAR cPSD| 58504431
( Alexandre de Rhodes 15 tháng 3 năm 1593 – 5 tháng 11 năm
1660) là một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học
người Avignon. Ông là một trong những giáo sĩ đã góp phần quan
trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam.Ông không
phải là người tạo ra chữ Quốc ngữ nhưng có công hệ thống hóa và san định hệ chữ này.
- Theo soạn giả Alexandre de Rhodes, ông mượn dấu sắc, huyền,
ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm dấu nặng
và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt.[9] So sánh ký tự thì
âm nh, ch theo tiếng Bồ Đào Nha; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng
Cổ Hy Lạp. Dấu lưỡi câu được dùng để thể hiện phụ âm cuối mũi hóa. -
2. Quá trình trở thành văn tự chính thức
- Phải cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm Nam Kỳ vào cuối thế
kỷ XIX, thì tên gọi và vị trí "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng
Việt mới được xác lập, lúc đó chữ Quốc ngữ mới được bảo hộ để
phổ biến, nhằm khiến tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp,
giúp phổ biến tiếng Pháp và văn hoá Pháp ở Việt Nam.
- Do sự thống trị của Hán học ở Việt Nam, chữ Quốc ngữ trên chặng
đường hơn 300 năm hình thành và phát triển nhưng chưa đủ phổ
biến để coi là văn tự chính thức.Chữ Nôm và chữ Hán vẫn là dạng
văn tự chính, sử dụng phổ biến trong mấy trăm năm qua. lOMoAR cPSD| 58504431
- Vào cuối thế kỷ XIX xuất hiện nhiều các văn bản chữ Quốc ngữ ghi
lại các truyện Nôm như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần…Một
số sách kinh điển Nho học dịch ra tiếng Việt như Trung dung, Đại
học,...cũng đã được in bằng chữ Quốc ngữ. Ngoài ra cũng có vài
tác phẩm viết bằng chữ này được lưu hành như Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài,...
( Tác phẩm Chuyện đời xưa viết bằng chữ Quốc ngữ )
- Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier
ký nghị định "bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán" trong
các công văn ở Nam Kỳ. Đến đầu thế kỷ XX, chữ Hán chữ Nôm bị
gạt bỏ, việc sử dụng chữ Quốc ngữ ngày càng được đẩy mạnh.
- Đông Kinh Nghĩa Thục - tổ chức vận động cách mạng đầu thế kỉ XX
đã ra sức cổ động cho việc học tập và phổ biến chữ Quốc ngữ.
- Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở nên nổi tiếng bên trong Hà
Nội, nhiều tỉnh lân cận cũng đã có các hội nhóm mở lớp, xin sách
giáo khoa của trường về giảng dạy. lOMoAR cPSD| 58504431
( Một số hình ảnh của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục )
( Lớp nữ sinh của trường Đông Kinh Nghĩa Thục )
- Trong phong trào này, tài liệu Văn minh tân học có vai trò của một
Tuyên ngôn, một Cương lĩnh nhằm xây dựng một nền giáo dục và
một nền học thuật mới chìa khóa của tiến bộ quốc gia và dân tộc, lOMoAR cPSD| 58504431
khi nêu 6 việc cần phải tiếp xúc để mở mang dân trí, việc phổ biến
rộng rãi chữ Quốc ngữ được đưa lên hàng đầu.
- Mục tiêu của phong trào:
- Bỏ lối học từ chương, du nhập những tư tưởng mới, phát triển văn
hoá, thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ thông qua các hoạt động giáo
dục (dịch, viết sách giáo khoa), báo chí, tuyên truyền, cổ động.
- Trong quá trình đấu tranh cách mạng để giành độc lập, tự do cho
dân tộc, Đảng ta chú ý đến việc phổ cập chữ Quốc ngữ.Từ cuối
năm 1937, phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao
động lên cao, yêu cầu dạy và học chữ quốc ngữ ngày càng bức
thiết. Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương thành lập Hội truyền bá quốc ngữ
để mở rộng phong trào học chữ quốc ngữ một cách công khai hợp
pháp.(Quang cảnh Lễ thành lập Hội truyền bá Quốc ngữ, 5/1938)
- Đặc biệt, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 8-9-
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh chống mù chữ, bằng việc học chữ Quốc ngữ.
- => Từ đây, chữ Hán và chữ Nôm mất đi địa vị của mình, chữ Quốc
ngữ chiếm địa vị độc tôn trong xã hội Việt Nam. Nhờ sự phổ biến lOMoAR cPSD| 58504431
của chữ Quốc ngữ, chức năng của tiếng Việt đã được mở rộng, nó
vươn lên trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia