














Preview text:
lOMoAR cPSD| 58490434
Bài 1. CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG SINH LÝ CỦA DA,
CÁC BỘ PHẬN PHỤ THUỘC DA Mục tiêu
Sau khi học xong bài này sinh viên có khả năng:
1. Mô tả được cấu tạo của da và các bộ phận phụ thuộc da.
2. Giải thích được sự phù hợp cấu tạo với chức năng của da và các bộ phận phụ thuộc da. Nội dung
Da là một trong những cơ quan lớn nhất trong cơ thể, bao bọc toàn bộ diện tích mặt
ngoài cơ thể và thực hiện nhiều chức năng. Cấu tạo mô học của da gồm lớp biểu bì, lớp
chân bì và lớp hạ bì để đệm và nối với những cơ quan bên dưới.
Ngoài ra, ở da còn có các bộ phận như: lông, tuyến, móng... được gọi chung là các bộ phận phụ thuộc da.
Hình 1.1. Da và các bộ phận phụ thuộc da
1. Biểu bì; 2. Chân bì; 2a. Lớp nhú chân bì; 2b. Lớp lưới chân bì; 3. Hạ bì ; 4. Lông ;
5. Lỗ tuyến mồ hôi; 6. Ống bài xuất mồ hôi; 7. Tiểu cầu mồ hôi; 8. Tuyến bã; 9. Cơ dựng
lông; 10. Nang lông; 11. Nhú biểu bì; 12. Nhú chân bì; 13. Thụ thể cảm giác; 14. Sợi thần kinh
cảm giác; 15. Mô liên kết ở hạ bì; 16. Tiểu thùy mỡ; 17. Động mạch; 18. Tĩnh mạch. lOMoAR cPSD| 58490434 1. Cấu tạo của da
1.1. Biểu bì: Là loại biểu mô lát tầng sừng hoá, có nguồn gốc ngoại bì. Từ trong ra ngoài, biểu bì gồm 5 lớp
1.1.1. Lớp đáy (lớp sinh sản): Là một hàng tế bào hình vuông hoặc hình trụ đứng tựa trên
màng đáy, nhân tế bào chứa nhiều chất nhiễm sắc, bào tương của các tế bào bắt màu base
mạnh. Các tế bào của lớp này có khả năng sinh sản và tiến triển dần lên các lớp phía ngoài,
do vậy biểu bì luôn luôn được đổi mới.
Trong lớp đáy còn có những hắc tố bào có khả năng tổng hợp sắc tố đen (melanin)
cho da. Khi nhuộm bằng Hematoxylin – Eosin (H.E), các hắc tố bào có màu sáng, nhân
sẫm màu; khi nhuộm bằng phương pháp ngấm bạc, hắc tố bào có nhiều nhánh dài và bào
tương có nhiều hạt sắc tố đen.
Ngoài ra, trong biểu bì còn có hai loại tế bào khác, không thuộc hệ thống tế bào sừng
hoá. Đó là những tế bào Langerhans và tế bào Merkel.
Tế bào Langerhans được Langerhans mô tả năm 1868, tế bào này có chủ yếu ở
những vùng bên ngoài của lớp Malpighi. Khi nhuộm H.E, tế bào Langerhans có bào tương
sáng màu bao quanh một nhân rất đậm màu. Nếu nhuộm bằng chlorua vàng thì tế bào màu
đen, hình sao hoặc có nhiều nhánh, các nhánh tế bào nằm ở khoảng gian bào của các tế bào thuộc lớp
tế bào có hoạt động ẩm bào và thực bào tích cực, bào tư
ơng chứa nhiều túi nhỏ, nhữ ng sợi. Dưới kính hiển
ầu, đó là những lysosom và thể thực bào. Tế bào Langerhans có chứ c năng vi điện tử,
tế bào Langerhans có biểu hiện là loại hạt đặc hình c
phá huỷ và trình diện các kháng nguyên (xâm nhập ở da) cho các lympho bào có mặt
trong biểu bì. Tế bào Langerhans cũng được tìm thấy trong biểu mô niêm mạc miệng,
biểu mô niêm mạc âm đạo và trong tuyến ức. Cũng như các tế bào thuộc hệ thống đại thực
bào-đơn nhân, tế bào Langerhans có nguồn gốc từ các tế bào nguồn trong tuỷ xương.
Tế bào Merkel: là tế bào biểu mô đã biệt hoá thành thụ thể cảm giác đau. Tế bào Merkel
liên kết với những tế bào hoá sừng nằm bên cạnh bởi những thể liên kết. Ở đáy tế bào tạo
synap với đầu thần kinh cảm giác bè ra như hình đĩa. Các tế bào Merkel có khuynh hướng
tập trung ở da lòng bàn tay, bàn chân.
1.1.2. Lớp sợi (lớp Malpighi)
Lớp sợi có từ 5-20 hàng tế bào hình đa diện, nhân hình cầu ở giữa tế bào. Giữa các tế
bào có những cầu nối bào tương do các nhánh bào tương kéo dài chứa tơ trương lực của tế
bào này tiếp xúc với các nhánh tế bào cạnh nó bằng những thể liên kết làm cho biểu bì có
độ bền vững nhất định. Bào tương lớp sợi và lớp đáy có thể có các hạt melanin do chúng
thu nhận từ hắc tố bào tạo ra. lOMoAR cPSD| 58490434
1.1.3. Lớp hạt: Gồm 3-5 hàng tế bào dẹt, bào tương có nhiều hạt bắt màu base đó là những
hạt keratohyalin, các hạt này có liên quan với hiện tượng sừng hoá của biểu mô.
1.1.4. Lớp bóng: gồm một đến hai hàng tế bào rất dẹt nhưng cả nhân và bào quan đều biến mất
1.1.5. Lớp sừng: các tế bào không có nhân, trở thành những lá sừng mỏng, dính chặt nhau,
bào tương chứa nhiều keratin. Lớp sừng đảm bảo tính không thấm nước và ngăn cản sự
bốc hơi nước qua da. Chiều dày lớp này tuỳ thuộc từng vùng của cơ thể.
* Biểu bì ở da người đổi mới thường
xuyên (khoảng 20 - 30 ngày).
1.2. Chân bì
Là mô liên kết xơ vững chắc, độ dày
của lớp chân bì thay đổi tuỳ từng vùng.
Chân bì được chia hai lớp nhưng ranh giới
không rõ ràng. - Lớp nhú: Là mô liên kết
thưa có nhiều chỗ lồi về phía biểu bì gọi là
nhú chân bì, những vùng phải chị u áp
suất và cọ sát nhiều thì có nhiều nhú chân bì. - Lớp lưới: Là mô liên kết dày hơn
lớp nhú, có ít tế bà sợi o nhưng nhiều collagen.
Cả hai lớp trên có nhiều sợi chun làm
cho da có độ chun giãn nhất định. Ngoài
ra còn có mạch máu, mạch bạch huyết, sợi
thần kinh và tận cùng thần kinh, các thành
phần phụ thuộc như lông, tuyến bã, tuyến
1. Nhú chân bì; 2. Màng đáy; 3. mồ hôi.
Lớp sinh sản; 4. Lớp sợi (lớp 1.3. Hạ bì
Malpighi); 5. Cầu nối; 6. Lớp hạt; 7.
Lớp bóng; 8. Lớp sừng.
Hạ bì là mô liên kết nối chân bì với
các cơ quan bên dưới, lớp này có thể có
các tiểu thuỳ mỡ và tạo thành một lớp dày
hay mỏng tuỳ từng vùng của cơ thể.
Hình 1.2. Cấu tạo vi thể của biểu bì. lOMoAR cPSD| 58490434
- Tiểu thể Ruffini: hình trám, nằm ở
- Tiểu thể Vater-Pacini: nằm trong
* Những tiểu thể xúc giác có ở da: Đặc điểm chung của các tiểu thể xúc giác này là các
đầu thần kinh được bọc trong một bao liên kết, khi kích thích đủ ngưỡng, các bao này sẽ
tạo nên thế năng để các đầu thần kinh hoạt động.
hạ bì, hình trứng, đường kính 1-1,5mm.
hạ bì. Trung tâm có một chùm những đầu
Xung quanh đầu thần kinh là một bao
thần kinh chia nhánh nằm xen giữa
dày nhiều nguyên bào sợi dạng lá đồng
những sợi tạo keo. Ngoài cùng là bao liên tâm (hình 1.3).
kết gồm các nguyên bào sợi và sợi tạo keo (hình 1.5).
- Tiểu thể Krause: kích thước nhỏ hơn tiểu thể Vater -Pacini, hình cầu, nằm
Hình 1.3. Tiểu thể Vater-Pacini
ở hạ bì và quanh gân các bắp cơ. Cấu tạo
của tiểu thể Krause gần giống như tiểu thể Vater
1. Đầu tận cùng thần kinh; 2. Sợi thần
-Pacini nhưng bao liên kết bọc
ngoài mỏng hơn, đầu thần kinh toả ra kinh;
3. Nguyên bào sợi dạng lá. thành chum (hình 1.4).
Hình 1.5. Tiểu thể Ruffini lOMoAR cPSD| 58490434
Hình 1.4. Tiểu thể Krause
1. Những đầu tận cùng thần kinh; 2. Bao liên kết 1. Bao liên kết; 2. Đầu tận cùng thần kinh
- Tiểu thể Meissner: hình trứng, nằm ở lớp nhú chân bì, trong những vùng da có cảm giác
tế nhị như đầu ngón tay, môi, đầu lưỡi. Mỗi tiểu thể gồm những tế bào Schwann đã thay
đổi hình dạng xếp chồng lên nhau như những con chêm. Ngoài cùng là bao liên kết. Sợi
thần kinh đi vào một cực của tiểu thể theo hình xoắn ốc và tận hết ở cực đối diện.
Hình 1.6. Tiểu thể Meissner
1. Sợi thần kinh; 2. Tế bào Schwann hình con chêm; 3. Bao liên kết. - Tận
cùng thần kinh quanh lông: là các sợi thần kinh quấn quanh chân nang lông, chịu
kích thích bởi sự chuyển động của lông. * Sự lành vết thương
Da được sửa chữa nhanh để duy trì hào rào bảo vệ hiệu quả. Lành vết thương có
bốn giai đoạn: (1) Tạo cục tiểu cầu – fibrin tại chỗ tổn thương. (2) Thu hút các bạch lOMoAR cPSD| 58490434
cầu đến bảo vệ chỗ tổn thương không bị nhiễm trùng. Các tế bào biểu mô và tế bào nội
mô có biểu hiện cytokine và thụ thể cytokine thu hút các bạch cầu đến. Khi đến chôc
tổn thương, các môn bào trở thành các đại thực bào. (3) Tân tạo mạch và tăng sinh tế
bào, tức tạo mô hạt giàu mạch máu. (4) Tái cấu trúc mô, các tế bào biểu bì biểu hiện
hoạt tố plasminogen giúp chuyển đổi plasminogen ở cục fibrin thành plasmin. Plasmin
cùng với các các chất căn bản (do nguyên bào sợi chế tiết) giúp tế bào lớp đáy khởi
đầu sự tái tạo biểu bì. Yếu tố tăng trưởng biểu bì và yếu tố tăng trưởng tế bào sừng
kích thích sự tái tạo biểu bì.
Hình 1.7. Quá trình lành vết thương
(A). Tạo cục tiểu cầu – fibrin tại chỗ tổn thương; (B). Thu hút các bạch cầu. (C). Tân tạo
mạch và tăng sinh tế bào. (D). Tái cấu trúc mô.
1. Biểu bì, 2. Chân bì và Hạ bì, 3. Vết thương, 4 &7. Bạch cầu, 5. Đại thực bào, 6. Nguyên
bào sợi, 8 &11. Cục máu đông, 9. Mô hạt, 10. Mạch máu tân tạo, 12. Mô sẹo, 13. Biểu bì
tái tạo, 14. Sẹo. lOMoAR cPSD| 58490434
2. Các bộ phận phụ thuộc da 2.1. khỏi
mặt da. Lông có chức năng bảo vệ da, chống rét. Lô
ng còn có cơ quan xúc giác gián Lông: Là sản
, ở bao biểu mô ngoài và bao xơ có những đầu thần kinh xúc giác. Cấ u tạo lông gồm
phẩm của sự sừng hoá, lông từ trong chân bì đi qua biểu bì trồi lên tiếp có: thân lông, chân lông
2.1.1. Thân lông (lông chính thức): là phần trồi lên khỏi mặt da. Từ trong ra ngoài, thân lông có lớp. ba
- Tuỷ lông là trục của lông, tế bào nguồn gốc của tuỷ lông nằm trên đỉnh nhú lông
hình đa diện, càng lên trên tế bào này càng biến đổi và bị sừng hoá.
- Vỏ lông: Tế bào nguồn gốc của vỏ lông nằm ngoài tế bào sinh tuỷ lông.
- Áo ngoài là một lớp tế bào nằm ngoài tế bào sinh vỏ lông.
2.1.2. Chân lông: là phần nằm trong da, chân lông được bọc ngoài bởi một cái bao
gọi là nang lông, phía dưới cùng nang lông hơi phình ra gọi là hành lông. Nang lông gồm:
- Bao biểu mô trong: Do tế bào biểu bì nằm ở đáy rãnh vòng quanh nhú lông tạo ra,
nó dần dần được đẩy lên trên, bị sừng hoá và thải ra ngoài cùng với chất tiết của tuyến bã.
- Bao biểu mô ngoài là phần biểu bì lõm xuống chân bì.
- Bao xơ là các sợi collagen, sợi chun nén với nhau, bao xơ phía đáy lồi lên một khối
mô liên kết có tính chất phôi thai gọi là nhú lông. 2.2. Móng
Phần móng bị nếp gấp che khuất gọi là
rễ móng, phần lộ ra gọi là thân móng. ở đầu
Là miếng sừng dẹt lợp mặt lưng của
những đầu ngón tay, ngón chân.
ngón tay, ngón chân, móng trồi dài ra tự do,
ở dưới có khe dưới móng, phía trên nếp gấp
Móng có bốn bờ: bờ sau và hai bờ
trên móng có hình bán nguyệt trắng, dưới
bên chèn vào trong một rãnh hình móng móng là biểu bì tiếp với biểu bì xung quanh
ngựa được gọi là rãnh vòng quanh móng, bởi nếp gấp trên móng và nếp gấp bên, phần
rãnh này do sự gấp lên của da tạo thành. biểu bì dưới thân móng gọi là giường móng,
Nếp gấp bờ sau là nếp gấp trên móng, nếp phần biểu bì dưới rễ móng gọi là mầm móng. gấp ở hai bên gọi là -
nếp gấp bên, bờ thứ 2.2.1. Biểu bì móng tư ở đầu ngón tay, ngón chân. lOMoAR cPSD| 58490434
Mầm móng: Gồm lớp sinh sản và
1.Lông; 2. Tuỷ lông; 3. Vỏ lông; 4. áo
lớp sợi khá dầy, các tế bào mầm móng
ngoài; 5. Nang lông; 6. Bao biểu mô
phát triển từ đáy mầm ra thân Hình 1.8.
trong; 7. Bao biểu mô ngoài; 8. Túi xơ.
Thiết đồ ngang giữa rễ chân lông
Hình 1.9. Sơ đồ cấu tạo móng
1. Rễ móng; 2. Thân móng; 3. Mầm móng.
4. Giường móng; 5. Móng
móng, các tế bào lớp sợi dẹt đi biến thành
các lá sừng đắp thêm vào móng do mầm
móng đã tạo ra từ trước
- Giường móng: Cũng có lớp sinh sản và lớp sợi. ở đỉnh các nhú chân bì (gọi là mào
Henle), lớp sợi rất mỏng, các tế bào phần trên lớp sợi dẹt dần thành lá sừng đắp vào mặt
dưới móng, ở dưới vệt trắng hình bán nguyệt giường móng dầy đều vì không có nhú. 2.2.2.
Chân bì móng: ở mầm móng, chân bì móng ít nhú. Chân bì giường móng nhiều nhú song
song và cao, trong đó chứa mao mạch hình quai từ lớp lưới đi lên, dưới vệt trắng bán nguyệt
không có mao mạch hình quai.
2.2.3. Móng: Là miếng sừng, thân dầy đều, rễ hình vát, móng có hai tầng, tầng trên là mầm
móng dầy, tầng dưới rất mỏng.
2.3. Tuyến bã: Tuyến bã nằm ở chân bì, chế tiết ra chất mỡ, là tuyến ngoại tiết kiểu túi,
đường bài xuất ngắn đổ vào nang lông (nơi cổ lông), có chỗ đổ thẳng lên mặt da (mi mắt,
ở qui đầu...). Tuyến bã có ở khắp diện tích da cơ thể trừ ở gan bàn chân và lòng bàn tay.
Chất tiết của tuyến bã làm cho da và lông mềm mại, nếu tiết nhiều gây da nhờn, giảm tiết
thì da khô, khi bị ứ đọng tạo ra trứng cá hay u nang tuyến bã. -
Thành tuyến: được lợp bởi một lớp
vỡ thành các mảnh vụn mỡ
tế bào dẹt, nhân tròn nằm trên màng đáy.
và bài xuất ra ngoài mặt da.
Các tế bào dẹt sinh sản và di chuyển từ Xen kẽ vào các tế bào
ngoài vào trong tuyến trở thành các tế
tuyến còn có ít tế bào sừng
bào đa diện lớn, bào tương xuất hiện các hóa.
hạt mỡ và di chuyển vào trung tâm tuyến,
nhân ngày càng teo đi và mất nhân, tế bào lOMoAR cPSD| 58490434 -
Ống bài xuất: ngắn, thành là biểu mô
Hình 1.10. Tuyến bã lát tầng.
2.4. Tuyến mồ hôi
Có ở khắp mặt da, bài tiết mồ hôi tiết nước,
các sản phẩm của sự chuyển hoá và một số muối vô cơ như NaCl.
là tuyến ngoại tiết kiểu ống cong queo nằm trong
chân bì, mỗi tuyến gồm hai phần: chế tiết và bài xuất.
1.Bao xơ; 2. Lớp sinh sản
2.4.1. Phần chế tiết:
3. Tế bào tuyến bã; 4. Tế bào sừng.
Nằm trong chân bì, có khi hạ
bì, là đoạn đầu của tuyến, cong queo thành một
khối gọi là tiểu cầu mồ hôi. Thành ống chế tiết Hình 1.11. Tiểu cầu mồ hồi
được lợp bởi hai hàng tế bào: Hàng ngoài là tế bào
cơ - biểu mô dẹt, hàng trong là tế bào chế tiết hình
tháp. Có hai loại tế bào chế tiết: tế bào sẫm màu,
bào tương nhiều lưới nội bào có hạt và các hạt chế
tiết chứa glycoprotein; tế bào sáng màu, bào tương
ít lưới nội bào có hạt, không có hạt chế tiết, phần
đáy màng tế bào nhiều nếp gấp.
1. Ống chế tiết; 2. Tế bào cơ biểu mô;
3. Tế bào chế tiết; 4. Ống bài xuất.
2.4.2. Phần bài xuất: là ống tiếp theo từ phần chế tiết đi lên biểu bì, đường kính nhỏ hơn
ống chế tiết và được chia hai đoạn.
- Đoạn ở chân bì: lòng hẹp, thành được lợp bởi 2 hàng tế bào vuông sẫm màu.
- Đoạn ở biểu bì: là một khe xoắn ốc, đoạn này không có thành riêng. lOMoAR cPSD| 58490434
Hình 1.12. Cấu tạo vi thể và siêu vi tuyến mồ hôi
A. Ống bài xuất; B. Ống chế tiết;
C. Cấu trúc siêu vi của tế bào sẫm màu thành ống chế tiết.
1. Tế bào chế tiết sáng màu; 2. Tế bào cơ - biểu mô 3. Tế bào chế tiết sẫm màu 3.
Sinh lý da và các bộ phận phụ thuộc da
Da chiếm khoảng 12-15 % trọng lượng cơ thể. Da và các bộ phận phụ thuộc da (bao
gồm tóc, móng, tuyến, và cấu trúc khác ) bao bọc, đệm đỡ, bảo vệ mô và cơ quan nằm sâu
trong cơ thể, tạo ra ranh giới giữa môi trường và cơ thể trong cơ chế điều nhiệt. Cân bằng
thân nhiệt cũng là một yếu tố quan trọng trong duy trì hằng tính nội môi. Thông qua việc
bài tiết mồ hôi mà da có thể tham gia điều hòa thân nhiệt, ngoài ra một số ion như Na+, hay
chì cũng được bài tiết qua da và niêm mạc.
3.1. Chức năng bảo vệ của da
Da là một hàng rào bảo vệ các cơ quan sâu như thần kinh, mạch máu, cơ xương, phủ tạng
khỏi các tác hại của các yếu tố cơ học, lý học, hoá học, vi khuẩn có hại.
Nhờ có cấu trúc rất chặt chẽ của lớp malpighi được tăng cường do các cầu nối giữa các tế
bào, nhờ vùng tiếp giáp trung - thượng bì vững chắc, nhờ sự đàn hồi vừa dẻo vừa chắc của
các sợi tạo keo, sợi liên kết ở trung bì, nhờ lớp mỡ đệm dưới da nên da có thể chống lại các
chấn thương, sây xát từ ngoại cảnh (da chịu được một áp lực khoảng 1,8 kg trên một milimét vuông).
Trên bề mặt thượng bì còn có lớp “phim mỡ” gồm chủ yếu là axít béo triglyxerit,
cholesterol, chất bã, làm cho da không bị ẩm quá hoặc khô quá tạo khả năng chống đỡ với
những thay đổi đột ngột về nhiệt độ; đồng thời bảo vệ da khỏi sự tấn công của vi khuẩn,
nấm; có tác giả gọi đây là “khả năng tiệt trùng tự nhiên của da”. Nấm ngoài da thường mọc
ở các vùng không có tuyến bã; các nấm xén tóc trẻ em thường tự nhiên khỏi ở tuổi dậy thì
là lúc tăng hoạt động của tuyến bã.
Da có tác dụng ngăn cản tác dụng của ánh sáng. Lớp sừng không cho ánh sáng có bước
sóng 200 nm xuyên qua. Lớp trung bì ngăn cản bức xạ ánh sáng có bước sóng 340 - 700 lOMoAR cPSD| 58490434
nm. Các bức xạ có bước sóng dài gây biến đổi nhiệt làm tăng chuyển hoá. Bức xạ có bước
sóng ngắn (tử ngoại) gây ra hiệu ứng quang điện, thay đổi điện tử ở màng tế bào từ đó dẫn
đến thay đổi tính thấm. Các sắc tố da cũng có tác dụng ngăn cản tác động của bức xạ ánh
sáng bảo vệ các cơ quan dưới da.
Độ toan kiềm (pH) của da là yếu tố quan trọng để chống đỡ với vi khuẩn và nấm, pH của
da thay đổi tuỳ từng vùng, trung bình từ 4,2 - 5,6. Những vùng da bị kiềm hoá (vùng có
nhiều mồ hôi ẩm ướt, các nếp bẹn, kẽ chân, nách...) dễ bị nấm và vi khuẩn tấn công.
Thượng bì (biểu bì) còn có nhiều khả năng trung hoà đối với các dung dịch toan hoặc kiềm
loãng đặt trên da (khả năng đệm). Trong một số bệnh: nấm da, viêm da tiếp xúc, bệnh
eczema và một số bệnh da nghề nghiệp khả năng đệm này bị giảm.
Chính nhờ lớp sừng của da đã ngăn cách cơ thể với môi trường bên ngoài. Lớp sừng
ngăn không cho nước thấm từ bên trong ra ngoài và ngược lại. Vì vậy, lớp sừng có vai trò
chống lại sự mất nước qua da. Bên cạnh đó lớp sừng còn có tác dụng ngăn cản sự xâm nhập
của các vi sinh vật vào cơ thể, ngăn các chất hóa học.
Da còn chứa các tế nào miễn dịch (Langerhan), các tế bào này có khả năng thực bào
các kháng nguyên xâm nhập vào da và bắt giữ kháng nguyên để trình diện với tế bào
lympho của cơ thể và gây ra đáp ứng miễn dịch chống lại tác nhân gây hại. Khi tổn thương
da, mất lớp sừng (bỏng) thì vi khuẩn, virus có thể xâm nhập vào cơ thể gây viêm và mất
khả năng chống mất dịch, hiểu hiện là dịch kẽ chảy ra ngoài qua nơi tổn thương ra ngoài
(nốt phỏng nước do bỏng) dẫn tới tình trạng mất muối hoặc mất nước. Bản thân tế bào sừng
cũng có vai trò miễn dịch, nó tiết ra interferon.
3.2. Dự trữ và chuyển hóa - Nước: ở da nước chiếm khoảng 9%. Sau khi tiêm nước vào
tĩnh mạch cho một con chó có tác giả thấy 17,7% được giữ lại trong da và 67,8% trong bắp
thịt. Nếu điều trị bằng thuốc lợi tiểu thì nước ở da sẽ giảm đi từ 8- 10%; nước ở các bộ
phận khác không thay đổi. Như vậy da giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng nước. -
NaCl: da dự trữ NaCl khá nhiều. Khi lao động, tiết nhiều mồ hôi thì nước ở
da cũng giảm. Khi thận bị tổn thương, chức phận lọc NaCl giảm , muối giữ lại nhiều trong
máu và bị đưa đến da. NaCl ứ đọng sẽ kéo theo nước, gây phù. Nếu tiêm tĩnh mạch một
dung dịch NaCl ưu trương thì da sẽ giữ từ 20- 77% số lượng NaCl. Ăn nhạt, da sẽ mất 60
- 90% số lượng NaCl. Như vậy da giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng chất NaCl trong cơ thể. -
Chất 7-hydrocholesterol là chất có bản chất là alchohol ở da, dưới tác dụng
của tia cực tím trong ánh nắng mặt trời biến đổi thành vitamin D, nó được tuần hoàn trong
máu và được sử dụng cùng calci, phosphat trong quá trình tạo xương, vitamin D thừa được dự trữ ở gan. -
Ở da còn có các chất điện giải khác như Ca,K, Mg. lOMoAR cPSD| 58490434 -
Tỷ lệ glucose tự do trong da thường bằng 2/3 đường huyết. Khi tỷ lệ này tăng
cao, thường dễ bị ngứa, nhiễm vi khuẩn, nấm men (moniliase), glycogen dưới da tham gia
trong quá trình keratin hoá, glycogen thường tăng trong một số trạng thái viêm.
-Da chứa rất nhiều loại men như oxydaza, proteaza, hyaluronidaza các men này
tham gia vào sự chuyển hoá chất trong cơ thể hoặc ngăn cản tác động của vi sinh vật hoặc
nấm xâm nhập vào cơ thể -
Các chất chalone, chất kháng chalone liên quan đến việc lành sẹo hay tạo sẹo lồi của da. -
Da cũng có khả năng hấp thu một số chất, đặc tính này giới hạn ở một số chất
như: các thuốc đắp trên da làm giảm đau, sử dụng hormor trong liệu pháp thay thế hormon
ở người tiền mãn kinh. Một số thuốc độc cũng được hấp thu qua da như thủy ngân.
3.3. Chức năng bài tiết và tham gia điều nhiệt
Da bài tiết một số sản phẩm ra ngoài cơ thể nhờ các tuyến phụ thuộc của da. - Chất
bã có tác dụng làm cho da và lông mềm mại, chất bã tiết nhiều làm cho da nhờn, làm hạn
chế thấm nước qua da và làm cho mồ hôi khó bay hơi, ảnh hưởng đến quá trình thải nhiệt
bằng bay hơi nước. Khi chất bã bị ứ đọng nhiều gây ra trứng cá hay u nang tuyến bã. -
Tuyến mồ hôi là tuyến ngoại tiết có nhiệm vụ bài tiết mồ hôi, thông qua đó
nó có vai trò tham gia vào điều nhiệt. Tuyến mồ hôi có ở khắp nơi trên da, trong quá trình
dẫn mồ hôi có sự tái hấp thu lại ion Na+, Cl- vào máu. Sự bài tiết mồ hôi một mặt giúp bài
tiết các sản phẩm cặn bã, độc hại, chủ yếu là urê (hỗ trợ thải độc cho thận), bên cạnh đó sự
bay hơi nước qua mồ hôi còn giúp cơ thể điều nhiệt. -
Hệ mạch dưới da: ngoài chức năng nuôi dưỡng, mao mạch dưới da còn làm
nhiệm vụ dẫn nhiệt đến da để tăng thải nhiệt qua da khi thân nhiệt tăng. Số lượng mao
mạch mỗi vùng da không giống nhau, mao mạch da có nhiều nơi nối thông giữa mao động
mạch và mao tĩnh mạch (kênh ưu tiên). Khi máu đến da nhiều, các kênh này mở ra làm cho
lượng máu đến da tăng lên gấp nhiều lần, làm cho da đỏ và nóng lên, trao đổi chất giữa
mao mạch và dịch kẽ của da cũng tăng theo để thải các chất qua da.
Vậy da tham gia điều hoà nhiệt độ bằng 2 cơ chế chính:ra mồ hôi và phản ứng vận mạch.
Nhờ hệ số dẫn nhiệt của tổ chức mỡ dưới da (k = 0,00033) và của lớp sừng (k = 0,000125)
tương đối thấp, nên về mùa đông da thường giữ không cho toả nhiệt nhiều cũng như cản
bớt lạnh ở ngoài vào. Da còn có vai trò chủ động trong điều hoà nhiệt độ, do một loạt phản
xạ đi từ các cơ quan thụ cảm nhiệt ở trung bì đến trung tâm điều hoà nhiệt độ dưới ở đồi
thị. Khi nhiệt độ bên ngoài tăng cao, cơ thể phản ứng bằng giãn mạch máu dưới da để tăng
toả nhiệt, đồng thời tăng tiết mồ hôi và tăng bốc hơi, làm giảm nhiệt (trung bình tiết 1 lít
mồ hôi làm tiêu hao 500 calo). Ngược lại, khi nhiệt độ bên ngoài thấp cơ thể sẽ phản ứng
bằng co mạch máu dưới da, giảm tiết mồ hôi, giảm toả nhiệt trên da. lOMoAR cPSD| 58490434
Tổn thương rộng trên da ảnh hưởng đến chức phận điều hoà nhiệt độ. Khi đó ngừng trệ
tuần hoàn tĩnh mạch, vùng da tổn thương thường lạnh. Trong ban đỏ do viêm, có tăng nhiệt
độ tại chỗ và tăng toả nhiệt, do đó bệnh nhân đỏ da toàn thân thường có cơn rét run biểu
hiện sự điều hoà nhiệt độ kém của da và cơ thể. -
Lông của da: ở người có lông ngắn và thưa hơn động vật, nang lông là nơi
nước thấm qua để lên mặt da, quanh lông có các cơ dựng lông, các cơ này co lại gây ra
hiện tượng "nổi da gà". Khi nhiệt độ môi trường nóng chân lông mở rộng tạo điều kiện
thuận lợi cho thấm nước qua da, có tác dụng thải nhiệt. Khi nhiệt độ môi trường lạnh các
cơ chân lông co lại, hạn chế thấm nước qua da, giảm quá trình thải nhiệt.
3.4. Tiếp nhận cảm giác
Trên da có các receptor nhận cảm các kích thích. Đây là bộ phận đầu tiên của cung
phản xạ giúp cơ thể có thể cảm nhận và đáp ứng với các kích thích của môi trường.
Các receptor có thể là tế bào, đầu dây thần kinh.. nằm trong da, có khả năng tiếp
nhận các kích thích như xúc giác, đau, nóng lạnh, và chuyển chúng thành các tín hiệu theo
dây thần kinh cảm giác lên trung tâm phân tích để cho ta xác định và phân loại được cảm
giác. Sự phân bố receptor cảm giác khác nhau tùy vị trí, do đó cảm nhận cảm giác mỗi vùng
trên cơ thể sẽ là khác nhau.
Ngoài những chức năng trên da còn liên quan mật thiết với các bộ phận khác trong cơ
thể, là nơi phản ánh nhiều rối loạn hoặc tổn thương nội tạng, nội tiết.
- Bệnh gan, mật biểu hiện vàng da và niêm mạc.
- Táo bón, giun sán có thể gây sẩn ngứa, eczema.
- Lao thận có thể gây xạm da.
- Rối loạn thiểu năng tuyến yên, giáp trạng có thể gây biến đổi ở da, lông,tóc, móng.
- Thiếu vitamin có thể gây nhiều biến đổi đặc hiệu trên da.
- Tổn thương da có thể ảnh hưởng sâu sắc đến nội tạng đến sức khoẻ chung.
- Bệnh da ngứa mạn tính có thể ảnh hưởng đến thần kinh trung ương, gây suy nhược thần kinh.
- Mụn nhọt, nhiễm trùng da có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm cầu thận cấp nguy hiểm. TÓM TẮT CUỐI BÀI
Da chiếm khoảng 12-15 % trọng lượng cơ thể. Da và các bộ phận phụ thuộc da (bao
gồm tóc, móng, tuyến, và cấu trúc khác ) bao bọc, đệm đỡ, bảo vệ mô và cơ quan nằm sâu lOMoAR cPSD| 58490434
trong cơ thể, tạo ra ranh giới giữa môi trường và cơ thể trong cơ chế điều nhiệt. Chức năng
của da được biểu hiện qua các cấu trúc. Da gồm có ba lớp: (1) biểu bì, (2) chân bì, (3) hạ
bì. Biểu bì là biểu mô lát tầng sừng hóa, gồm có 5 lớp: (1) lớp đáy-lớp sinh sản, (2) lớp sợi
– lớp Malpighi, (3) lớp hạt, (4) lớp bóng và (5) lớp sừng. Các tế bào biểu mô liên kết bởi
các thể liên kết và dải bịt. Chân bì bao gồm có 2 phân lớp nhỏ là lớp nhú chân bì và lớp
lưới chân bì. Hạ bì là các tiểu thùy mỡ. Các thụ thể cảm giác chủ yếu nằm trong lớp chân
bì. Các phần phụ của da bao gồm: lông, cơ dựng lông, tuyến mồ hôi (tuyến ngoại tiết kiểu
ống cong queo), tuyến bã (tuyến ngoại tiết kiểu túi đơn giản – tuyến toàn hủy) và móng. lOMoAR cPSD| 58490434